Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực đọc hiểu bài kí ai đã đặt tên cho dòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.63 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
1.Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3.Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.5. Những điểm mới của SKKN.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Về phía giáo viên:
2.2.2. Về phía học sinh :
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Hiểu sâu sắc tinh thần dạy và học theo hướng tích cực; nắm
vững các phương pháp, kĩ thuật dạy - học tích cực; cách kiểm tra- đánh
giá theo tinh thần đổi mới.
2.3.2. Giáo viên phải hiểu rõ khái niệm phát triển năng lực, khái
niệm đọc hiểu Ngữ Văn, đặc trưng của thể loại kí,
2.3.2.1. Khái niệm phát triển năng lực, khái niệm đọc hiểu Ngữ
Văn.
2.3.2.2. Khái niệm, đặc trưng thể loại kí.
2.3.2.3. Đặc sắc phong cách nghệ thuật nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
Tường.
2.3.2.4. Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực nhằm
phát triển năng lực đọc hiểu bài kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
( Hoàng Phủ Ngọc Tường) - Thiết kế giáo án và giảng dạy.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.


Tài liệu tham khảo.
Danh mục SKKN

Trang
1
2
3
3
3
3
3
3
4
4
4
5
5
9
9
10
11
12
23
24
24
25
26
27

1



1.Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Ngành Giáo dục đào tạo tác động không nhỏ đến việc thịnh suy của mỗi
quốc gia. Ở nước ta hiện nay giáo dục đang là vấn đề cấp thiết nhận được sự
quan tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Nhất là giáo dục phổ thông
đang thực hiện những bước chuyển mạnh mẽ và gặt hái được những thành công
đáng kể nhờ vào sự kế thừa tinh hoa của nền giáo dục truyền thống và đặc biệt
đang tiến hành đổi mới “ căn bản và toàn diện”.
Luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 24.2, đã
ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Trong các trường phổ thông hiện nay, nội dung chương trình dạy học nói
chung và môn Ngữ Văn nói riêng có nhiều đổi mới theo hướng tích cực, tích
hợp, lấy học sinh là chủ thể, là trung tâm, khơi gơi được sự hứng thú, khám
phá…coi trọng việc phát triển năng lực cho học sinh, giúp các em chủ động hơn
trong việc tự tìm tòi, lĩnh hội kiến thức, giúp các em vận dụng một cách tối đa
những gì học được trong nhà trường vào thực tiễn cuộc sống; bồi đắp tâm hồn
đồng thời hình thành và phát triển cho học sinh những kĩ năng cơ bản của hoạt
động giao tiếp tiếng Việt, đạo đức, văn hóa, mĩ học, lịch sử, địa lí... kĩ năng sống
góp phần không nhỏ trong việc hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách
con người. Đồng thời giúp các em luôn hướng tới các giá trị Chân - Thiện - Mĩ,
luôn phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội.
Nhưng trong quá trình dạy học môn văn, không phải dạy tác phẩm nào,
bài học nào, tiết dạy nào giáo viên cũng đạt được thành công. Đặc biệt đối với
thể loại kí là những tác phẩm đòi hỏi người đọc, người dạy phải có sự suy ngẫm,
phải nhập tâm vào dòng tâm tư tình cảm của nhà văn, lưu tâm đến loại thể. Dù

vậy nhiều giáo viên hiện nay dạy kí giống như dạy truyện ngắn nghĩa là vẫn có
tính chất truyện nên hiệu quả giảng dạy không cao, Việc giảng dạy như vậy đã
làm mất đi vẻ đẹp và sức hấp dẫn riêng của thể văn này.
Kí cũng là một thể loại có tầm quan trọng trong việc giáo dục nhận thức,
giáo dục nhân cách, giáo dục tư tưởng tình cảm, thẩm mĩ cho các em học sinh.
Bởi với khả năng ưu việt trong việc miêu tả và khám phá hiện thực, kí luôn thấm
đẫm chất hiện thực, bao quát những vấn đề cơ bản của xã hội và “ vang lên
những âm hưởng quyến rũ, thiết tha về tình đời, tình người”. Có thể nói, đây là
một trong những thể loại tiêu biểu nhất của văn học giúp học sinh bồi đắp nhận
thức về cuộc sống, vun trồng những xúc cảm thẩm mĩ tốt đẹp, mở ra những chân
trời mới để các em được khám phá, được trải nghiệm sâu sắc hơn về cuộc đời
giúp các em trưởng thành về nhân cách, phong phú về tâm hồn để sống tốt hơn,
ý nghĩa hơn. Vì vậy việc giúp học trò phát triển năng lực đọc hiểu thể loại kí
Việt Nam hiện đại là một việc làm cần thiết. Chính vì vậy tôi luôn luôn trăn trở,
suy nghĩ. Qua nhiều năm dạy học văn, tôi đã chắt lọc được một số kinh nghiệm:
2


“ Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển
năng lực đọc hiểu bài kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ( Hoàng Phủ Ngọc
Tường) cho học sinh lớp 12 trung học phổ thông”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu hướng vào mục đích phát triển năng lực đọc hiểu cho
học sinh nhằm phát huy tối đa hiệu quả của các biện pháp dạy học tích cực vào
việc giảng dạy bài kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ( Hoàng Phủ Ngọc
Tường) cho học sinh lớp 12 trung học phổ thông . Từ đó, người dạy có điều kiện
triển khai phương pháp dạy học tích cực vào việc nâng cao chất lượng dạy học
văn ở nhà trường.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng tôi tập trung nghiên cứu là các phương pháp, kỹ thuật dạy học

tích cực và bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc
Tường trong chương trình sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn lớp 12, tập 1,
NXB Giáo Dục.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong phạm vi sáng kiến này tôi chủ yếu áp dụng các phương pháp:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp quan sát thực nghiệm.
Phương pháp phỏng vấn.
Phương pháp tiếp cận tâm lý.
1.5. Những điểm mới của SKKN.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Nghị quyết số 40/2000/QH 10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội
khóa X đổi mới về chương trình giáo dục phổ thông đã khẳng định “đổi mới
chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu về nội dung,
phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy định trong luật giáo dục,
nhằm khắc phục những hạn chế của chương trình, sách giáo khoa; tăng cường
thực tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học, coi trọng kiến thức xã hội nhân
văn; bổ sung những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, phù hợp với khả
năng tiếp thu của học sinh. Bảo đảm sự thống nhất kế thừa và phát triển của
chương trình giáo dục”.
Như vậy mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ
thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ kiến thức một chiều sang dạy học theo
“phương pháp dạy học tích cực”, lấy người học làm trung tâm nhằm giúp học
sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và
khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình
huống khác nhau trong học tập và thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui hứng thú
trong học tập cho các em.
Trên cơ sở tìm hiểu những lí luận khoa học về các phương pháp dạy học
tích cực trong dạy học môn Ngữ văn nói chung, kí hiện đại Việt Nam nói riêng.

3


Tôi tìm tòi những biện pháp thích hợp nhằm đạt hiệu quả tối ưu khi vận dụng
vào dạy học sinh lớp 12 tại trường THPT Triệu Sơn 3 khi đọc hiểu tác phẩm kí “
Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ( Hoàng Phủ Ngọc Tường).
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Về phía giáo viên:
Trong thời buổi hiện nay - nền kinh tế thị trường đang diễn ra, đa phần
giáo viên gặp khó khăn về điều kiện sống, đồng lương ít ỏi không đủ trang trải
cho cuộc sống gia đình, vì thế không ít giáo viên chán nản, lòng yêu nghề nhạt
phai ở họ. Một số giáo viên phụ thuộc vào SGV, các loại sách hướng dẫn giảng
dạy, dạy theo một “ lộ trình” định sẵn, nhằm cung cấp kiến thức cơ bản ( kiến
thức chuẩn ) cho học sinh. Một số giáo viên dạy văn thiếu tâm hồn , thiếu những
cảm xúc thực sự cho giờ văn, chỉ áp dụng phương pháp đổi mới qua loa, chiếu
lệ, không đạt hiệu quả.
Việc quy định thời lượng tiết học, nhất là ở chương trình lớp 12 cũng gây
áp lực lớn cho người dạy và người học. Từ đó tạo thành sự máy móc, dập khuôn
trong việc phân bố thời gian tiết học.
Một bộ phận giáo viên chưa thực sự đầu tư, tìm tòi sáng tạo để bài giảng
có sự hấp dẫn, chưa phát huy được sự tích cực, chủ động, sáng tạo và say mê
của học sinh. Đánh giá học sinh còn mang tính động viên, khích lệ nên tạo ra
tính chủ quan cho học sinh. Chú trọng đến việc hình thành, cung cấp sẵn kiến
thức mà chưa chú trọng đúng mức tới việc phát triển tính tích cực chủ động,
sáng tạo của học sinh trong giờ học văn.
Bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông? ” của tác giả Hoàng Phủ Ngọc
Tường là một bài kí hay, có sức hấp dẫn đặc biệt với những người yêu và đam
mê văn bởi cái tôi tài hoa độc đáo của tác giả, bởi lối hành văn độc lạ, bởi chất
nhân văn, bởi tình yêu quê hương đất nước thiết tha của của tác giả.
2.2.2. Về phía học sinh :

Do nhu cầu của thời đại nên đa phần phụ huynh muốn hướng cho con em
mình học Toán, Lí, Hóa, Sinh, tiếng Anh. Vì thế các môn học này đã lên ngôi, ít
học trò dám dũng cảm lựa chọn con đường văn chương cho riêng mình. Thêm
vào đó các trường Đại học trong cả nước có tuyển sinh các ngành học khối C
không nhiều, điểm tuyển đầu vào lại khá cao ( học văn giỏi đâu có dễ) ra trường
cơ hội xin việc của các em lại cực kì khó khăn vất vả, thất nghiệp nhiều, số ít có
xin được việc thì lương cũng lại rất thấp. Nhiều học sinh đam mê văn, muốn
theo nghiệp văn nhưng vẫn còn e dè bởi những lí do đó, vì thế không dám đeo
đuổi nghề văn.
Thực tế, văn học không còn hấp dẫn với rất nhiều học sinh. Các trò chỉ
thích lướt web, lướt facebook... những truyện ngắn hay, những áng thơ đẹp,
những bài kí chứa chan tình yêu nước không còn nhận được sự quan tâm từ các
em, nhất là những học trò lớp 12. Vì vậy những em học sinh đó không được giáo
dục và cảm hóa bởi môn văn nên một phần xuống cấp về mặt đạo đức, vô cảm,
sa vào những tệ nạn xã hội đáng báo động : Giết người, cướp của, bạo lực học
4


đường, ma túy, sử dụng văn hóa đồi trụy, ăn mặc nói năng thiếu văn hóa...
Khi được tiếp xúc với tác phẩm văn học, học sinh chỉ hiểu theo một chiều, ít
chịu khó phát hiện, vốn từ ngữ nghèo, diễn đạt kém. Vì vậy, không đạt hiệu quả
cao khi cảm nhận tác phẩm văn chương.
Từ nhiều năm nay, trên thực tế, phương pháp dạy học nói chung và phương
pháp dạy học bộ môn văn nói riêng ở trường phổ thông trung học đã có nhiều
đổi mới đáng kể nhưng vẫn còn có hiện tượng học sinh học theo kiểu cũ: đọc
thuộc, sao chép, nói lại ý sách vở thầy cô mà không hoặc ít có sự sáng tạo khi
tiếp xúc tác phẩm văn chương. Hiện tượng ít tập trung suy nghĩ, ít tìm tòi ở học
sinh cần được khắc phục dần qua những giờ dạy của giáo viên ở trên lớp và cách
học của học sinh.
Góp phần khắc phục thiếu sót, nhược điểm thường gặp trong dạy học là

chưa chú ý đúng mức hoặc còn lúng túng trong việc áp dụng các biện pháp dạy
học thể loại kí hiện đại. Thúc đẩy tối đa khả năng tích cực chủ động sáng tạo của
học sinh trong giờ đọc - hiểu tác phẩm kí, tránh lối dạy thụ động một chiều theo
kiều giảng giải- ghi nhớ, đọc - chép còn ảnh hưởng khá nặng tại các trường
THPT, đặc biệt ở vùng nông thôn, vùng bán sơn địa của địa phương, tôi mạnh
dạn đề ra một số giải pháp mà bản thân tôi đã thực hiện trong nhiều năm qua:
Phát triển năng lực đọc hiểu tác phẩm cho học sinh lớp 12 nhờ vận dụng một số
biện pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực đọc hiểu bài kí “ Ai đã đặt
tên cho dòng sông?” ( Hoàng Phủ Ngọc Tường) cho học sinh lớp 12 tại trường
THPT Triệu Sơn 3.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Hiểu sâu sắc tinh thần dạy và học theo hướng tích cực; nắm vững các
phương pháp, kĩ thuật dạy - học tích cực; cách kiểm tra- đánh giá theo tinh
thần đổi mới.
N.I Kudriashep quan niệm: “Phương pháp dạy học phần lớn được thực
hiện thông qua các biện pháp dạy học cụ thể mà giáo viên sử dụng. Biện pháp
dạy học là các chi tiết của phương pháp, là các yếu tố, các bộ phận cấu thành
hoặc các bước cụ thể trong công việc nhận thức nảy sinh ra khi vận dụng một
phương pháp nhất định” (Z. Ia Rez (chủ biên): Phương pháp luận dạy Văn học,
tr. 37).
Vậy biện pháp dạy học là gì? Từ “biện pháp” có nghĩa là “cách làm, cách
thức tiến hành giải quyết một vấn đề cụ thể” (Đại từ điển tiếng Việt tr. 161). Suy
ra, có thể hiểu biện pháp dạy học là cách làm, cách thức giải quyết một vấn đề
hay tình huống cụ thể trong dạy học.
Biện pháp dạy học trong giờ văn là hết sức đa dạng phong phú, vì mỗi PPDH
đều có những “yếu tố, bộ phận” cấu thành có tác dụng cụ thể hóa làm cho PPDH
linh hoạt hiệu quả hơn.
Vì vậy, có thể nói, trong giờ đọc - hiểu văn bản - tác phẩm có những
PPDH được sử dụng thì đồng thời có những BPDH đi kèm. Điều then chốt là
giáo viên phải biết lựa chọn BP nào thích hợp với PPDH đã sử dụng theo mục

5


đích yêu cầu dạy học và thời gian ở trên lớp.
Trong bài viết nhỏ này, bên cạnh những phương pháp truyền thống, tôi
chỉ trình bày vài phương pháp mà bản thân đã áp dụng và đem lại hiệu quả giáo
dục trong quá trình giảng dạy trong bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông? ” của
tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường ( trong một bài dạy giáo viên có thể vận dụng 1
vài hoặc nhiều biện pháp, kỹ thuật dạy học nếu thấy thích hợp).
Tôi đã sử dụng linh hoạt một số phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực
như: Vấn đáp (đàm thoại), Thảo luận nhóm (Kĩ thuật “ Khăn phủ bàn”), Đặt và
giải quyết vấn đề, Sử dụng phương pháp bản đồ tư duy, Động não, Đọc sáng
tạo…, Kĩ thuật “Trình bày một phút”… khi dạy bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng
sông? ” trong thời lượng 2 tiết học.
 Vấn đáp (đàm thoại):
Vấn đáp là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả
lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên; qua đó học
sinh lĩnh hội được nội dung bài học.
Mục đích: Kích thích, dẫn dắt học sinh suy nghĩ , khám phá tri thức, tạo
điều kiện cho học sinh tham gia vào quá trình dạy học. Kiểm tra , đánh giá kiến
thức của các em và sự quan tâm, hứng thú của các em đối với nội dung học tập.
Thu thập, mở rộng thông tin kiến thức.
Yêu cầu câu hỏi: Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Phù hợp với thời gian thực
tế. Không ghép nghiều câu hỏi cùng thành một câu hỏi móc xích, Không hỏi
nhiều vấn đề cùng một lúc...
Qua việc áp dụng phương pháp này việc dạy của giáo viên và việc học
của học sinh hiệu quả hơn rất nhiều so với cách truyền thống. Thay vì giáo viên
thường xuyên hỏi thì có những lúc trong tiết dạy học sinh sẽ luân phiên hỏi và
được hỏi, các em sẽ hào hứng và thích thú khi được tham gia vào quá trình dạy
học, giờ học cũng vì thể mà bớt đơn điệu, nhàm chán, các em sẽ nhớ nhanh và

lâu kiến thức đã được học.
 Đặt và giải quyết vấn đề:
Trong một xã hội đang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường, cạnh tranh
gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những vấn đề nảy sinh trong thực
tiễn là một năng lực đảm bảo sự thành công trong cuộc sống, đặc biệt trong kinh
doanh. Vì vậy, tập dượt cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết những
vấn đề gặp phải trong học tập, trong cuộc sống của cá nhân, gia đình và cộng
đồng không chỉ có ý nghĩa ở tầm phương pháp dạy học mà phải được đặt như
một mục tiêu giáo dục và đào tạo.
 Hoạt động nhóm:
Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ có thể từ 2, 4, 6 hoặc 10 người.
Tuỳ mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên
hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học,
6


được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau trong khoảng thời
gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân
công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và
đánh giá trước toàn lớp.
Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính
trách nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của HS.
Đồng thời tránh sự nhàm chán, khoi dậy sự hứng thú.
Để tổ chức một hoạt động dạy học theo hình thức thảo luận nhóm, GV
vẫn tiến hành theo các bước: Bước chuẩn bị (giao nhiệm vụ): chuẩn bị đề tài,
nội dung , phương tiện hỗ trợ...Thực hiện nhiệm vụ: Chia nhóm theo yêu cầu ,
cử nhóm trưởng, người báo cáo,... giáo viên quan sát, đôn đốc, nhắc nhở...Yêu
cầu thực hiện :Mỗi thành viên trong nhóm đều được tham gia bàn luận, được
lắng nghe , tránh căng thẳng hoặc người được nói quá nhiều, làm việc quá nhiều.
Mọi thành viên đều tích cực làm việc.Trình bày kết quả: Đại diện nhóm trình

bày kết quả các thành viên bổ sung thêm. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung, hỏi
thêm. GV đúc kết , bổ sung, nhấn mạnh, kết luận.
Thảo luận nhóm để học sinh phát triển năng lực giao tiếp, bày tỏ những
cảm nhận của mình về bài kí, về đối tượng được trần thuật trong tác phẩm là
hình tượng sông Hương và tài năng của nhà văn.
Kĩ thuật khăn trải bàn:
Hình thức: trên khổ giấy A3, chủ đề thảo luận ghi ở chính giữa, chia các
phần còn lại thành 4-6 phần theo số thành viên trong nhóm. Mỗi người sẽ cùng
ghi câu trả lời của mình vào các phần đã được chia (trong khoảng 3-5 phút) .
Sau đó đại diện nhóm dán giấy A3 lên bảng, thuyết trình.. Các nhóm khác nhận
xét, bổ sung ý kiến (nếu có).
GV nhận xét, bổ sung, nhấn mạnh trọng tâm (thống nhất ý kiến hoặc điều chỉnh
cách hiểu nếu có cách hiểu, lý giải vấn đề, định hướng nếu sai lệch…)
Thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục, nhiều GV đã sử dụng phương
pháp này. Song qua việc dự giờ đồng nghiệp , tôi thấy rằng nhiều người có sử
dụng phương pháp này chỉ mang tính hình thức, chưa đem lại hiệu quả giáo dục.
Có tình trạng thảo luận nhóm nhưng chỉ có một, hai người trong mỗi nhóm là
làm việc còn những thành viên khác ngồi chơi hoặc không tích cực. Khi nhận
xét kết quả có tình trạng qua loa, quá nhanh khiến học sinh trong lớp không nắm
bắt được đâu là nội dung đúng, sai, trọng tâm cần nắm ... Chính vì vậy để
phương pháp này đem lại hiệu quả, góp phần khơi dậy sự hào hứng trong học
tập theo tôi, người GV cần chủ động tổ chức thảo luận nhóm một cách linh hoạt.
Tùy từng đơn vị kiến thức, quỹ thời gian trong bài học mà chọn phương pháp
thảo luận nhóm cho phù hợp.
 Sử dụng phương pháp bản đồ ( sơ đồ) tư duy:
7


Bản đồ tư duy là phương pháp được đưa ra như là một phương tiện mạnh
để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách ghi nhớ chi tiết

để tổng hợp hay để phân tích một vấn đề thành một dạng của lược đồ phân
nhánh. Cách ghi chép này khoa học, giúp cho học sinh dễ nhớ và dễ ôn tập hơn.
Việc nhớ và ghi lại các thông tin sau này sẽ dễ dàng, đáng tin cậy hơn so với khi
sử dụng phương pháp truyền thống. Sử dụng phương pháp sơ đồ tư duy sẽ có
những ưu điểm sau:
Ý chính sẽ ở trung tâm và được xác định rõ ràng. Quan hệ hỗ trợ tương
ứng giữa mỗi ý được chỉ ra tường tận. ý càng quan trọng thì sẽ nằm vị trí càng
gần ý chính. Liên hệ giữa các khái niệm then chốt sẽ được tiếp nhận lập tức
bằng thị giác. Ôn tập và ghi nhớ sẽ hiệu quả và nhanh hơn.
Thêm thông tin (ý) dễ dàng hơn bằng cách vẽ chèn thêm vào bản đồ.
Mỗi bản đồ sẽ phân biệt nhau tạo sự dễ dàng cho việc gợi nhớ.
Các ý mới có thể được đặt vào đúng vị trí trên hình một cách dễ dàng, bát chấp
thứ tự của sự trình bày, tạo điều kiện cho việc thay đổi một cách nhanh chóng
và linh hoạt cho việc ghi nhớ.
Như vậy, bản đồ tư duy là một công cụ lý tưởng cho việc giảng dạy và
trình bày các khái niệm trong lớp học. Bản đồ tư duy giúp cho giáo viên tập
trung vào các vấn đề cần trao đổi cho học sinh, cung cấp một cái nhìn tổng quan
về chủ đề mà không có thông tin thừa. Học sinh sẽ không phải tập trung vào
việc đọc chép dài dòng, mà thay vào đó sẽ lắng nghe những gì mà thầy cô giáo
diễn đạt. Hiệu quả bài học sẽ tăng lên.
Khi dạy học bài kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ( Hoàng Phủ Ngọc
Tường), giáo viên có thể tóm tắt hoặc cho học sinh ghi lên bảng tóm tắt lại nội
dung bài bằng bản đồ tư duy.
 Động não:
Động não là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy
sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.
 Đọc sáng tạo:
Đọc sáng tạo là không phải tự đưa ra một lối đọc riêng, tự sáng tạo ra kiểu
đọc văn bản đặc thù của mình. Đọc sáng tạo trước hết là rèn luyện kĩ năng phát
âm, luyện giọng, thể hiện năng lực diễn tả tái hiện các tình tiết, nhập thân vào

cái tôi tác giả,…
Đọc sáng tạo diễn ra dưới hình thức lắng nghe giọng đọc của người khác, nắm
ưu, khuyết điểm, sau đó đưa ra giọng đọc phù hợp với thể loại tác phẩm.
GS Trần Đình Sử trong bài Con đường đổi mới căn bản phương pháp dạy-học
văn khẳng định: “Khởi điểm của môn Ngữ Văn là dạy học sinh đọc hiểu trực
tiếp văn bản văn học của nhà văn… Nếu học sinh không trực tiếp đọc các văn
bản ấy, không hiểu được văn bản, thì coi như mọi yêu cầu, mục tiêu cao đẹp của
môn văn đều chỉ là nói suông, khó với tới, đừng nói gì tới tình yêu văn học”.
8


Kĩ thuật “Trình bày một phút”.
Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức đã học và đặt những
câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn gọn
và cô đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi cũng như các câu trả lời HS đưa ra
sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho GV thấy được các em đã
hiểu vấn đề như thế nào.
Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau: Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học),
GV yêu cầu HS suy nghĩ, trả lời các câu hỏi sau: Điều quan trọng nhất các em
học đuợc hôm nay là gì? Theo các em, vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa
được giải đáp?...HS suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của HS có thể dưới
nhiều hình thức khác nhau. Mỗi HS trình bày trước lớp trong thời gian 1 phút về
những điều các em đã học được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp
hay những vấn đề các em muốn được tiếp tục tìm hiểu thêm.
Kĩ thuật này tôi thường áp dụng ở phần tổng kết bài học nhằm kiểm tra xem
khả năng nắm bắt kiến thức mà các em thu hoạch được và khả năng vận dụng
cũng như kĩ năng diễn đạt khi trình bày một ý, một nội dung nào đó của các em.
Chẳng hạn như sau khi học xong bài kí, tôi hỏi HS: Câu văn nào ( hoặc
đoạn văn nào) trong bài kí khiến em ấn tượng, yêu thích nhất? Vì sao? Hoặc hỏi
Theo em, qua bài kí, tác giả muốn gửi tới người đọc thông điệp gì ? Hoặc hỏi:

Điều quan trọng nhất các em học được từ bài học hôm nay là gì?...
2.3.2. Giáo viên phải hiểu rõ khái niệm phát triển năng lực, khái niệm đọc
hiểu Ngữ Văn, đặc trưng của thể loại kí,
2.3.2.1. Khái niệm phát triển năng lực, khái niệm đọc hiểu Ngữ Văn.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh là hướng đến
phát triển năng lực chung và năng lực chuyên biệt. Theo PGS-TS Đỗ Ngọc
Thống thì năng lực chung là năng lực cơ bản, thiết yếu, ai cũng cần có để học
tập, để làm việc, để sống trong xã hội. Còn năng lực cụ thể, chuyên biệt là năng
lực riêng được hình thành và phát triển do một lĩnh vực, một môn học nào đó.
Năng lực chung là loại năng lực mà bất kỳ một học sinh nào cũng cần được hình
thành và phát triển để có thể đối mặt với những thay đổi và thách thức khi bước
vào cuộc sống thực.
Tuy cách phát biểu về năng lực có thể khác nhau nhưng đều thống nhất
trong cách hiểu về bản chất của khái niệm này. Có thể nêu lên mấy điểm thống
nhất sau:
Năng lực là sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố: kiến thức, kĩ năng, thái
độ, tình cảm, ý chí, kinh nghiệm và nhiều nguồn lực tinh thần khác để giải quyết
một cách hiệu quả các vấn đề đặt ra trong cuộc sống (học tập và lao động).
Đánh giá năng lực là đánh giá khả năng thực hiện, vận dụng; thông qua
hành động để đo đếm, xác định chứ không chỉ yêu cầu biết và hiểu. Tất nhiên
thực hiện (vận dụng) ở đây phải gắn với ý thức và thái độ; phải có kiến thức và
kĩ năng. Đó là cách tiếp cận mới nhưng không phải xa lạ mà nó vốn đã có trong
9


chương trình cũ nhưng chưa được hiểu đúng. Bởi các thành tố cơ bản cấu thành
năng lực vẫn là kiến thức và kĩ năng; vì thế muốn hình thành năng lực vẫn phải
thông qua kiến thức và kĩ năng.
Tuy nhiên nếu chỉ mình kiến thức và kĩ năng, nhất là khi chúng tách rời nhau,
thì chưa thể có năng lực thực sự.

Vậy năng lực đọc hiểu Ngữ Văn và đánh giá năng lực Ngữ Văn là gì?
Có nhiều cách hiểu về năng lực Ngữ Văn. Căn cứ vào mục tiêu, tính chất và nội
dung chương trình môn học này từ trước đế nay; từ cách hiểu chung về năng lực,
có thể nói năng lực Ngữ Văn là trình độ vận dụng các kiến thức, kĩ năng cơ bản
về văn học và Tiếng Việt để thực hành giao tiếp trong cuộc sống. Năng lực Ngữ
văn gồm 2 năng lực bộ phận là: Năng lực tiếp nhận văn bản và Năng lực tạo lập
văn bản.
Năng lực tiếp nhận văn bản là khả năng lĩnh hội, nắm bắt được các thông tin
chủ yếu; từ đó hiểu đúng, hiểu thấu đáo, thấy cái hay, cái đẹp của văn bản, nhất
là văn bản văn học. Muốn có năng lực tiếp nhận phải biết cách tiếp nhận.
Năng lực tạo lập văn bản là khả năng biết viết, biết tổ chức, xây dựng một văn
bản hoàn chỉnh đúng quy cách và có ý nghĩa. Muốn có năng lực tạo lập phải biết
cách tạo lập. Tức là nắm được cách viết một loại văn bản nào đó.
Phương thức đánh giá không chú trọng yêu cầu học thuộc, nhớ máy móc, nói
đúng và đầy đủ những điều thầy, cô đã dạy… mà coi trọng ý kiến và cách giải
quyết vấn đề của mỗi cá nhân người học; động viên những suy nghĩ sáng tạo,
mới mẻ, giàu ý nghĩa; tôn trọng sự phản biện trái chiều, khuyến khích những lập
luận giàu sức thuyết phục…
Muốn thế đề thi và đáp án cần theo hướng mở; với những yêu cầu và mức độ
phù hợp; tránh cả hai khuynh hướng cực đoan: “đóng” một cách cứng nhắc, máy
móc, làm thui chột sự sáng tạo và “mở” một cách tùy tiện “ không biên giới”,
phi thẩm mỹ, phản giáo dục…
Hiểu môn văn trong nhà trường là môn đọc văn. Dạy văn là dạy cho học sinh
năng lực đọc, kỹ năng đọc để học sinh có thể đọc – hiểu bất cứ văn bản nào
cùng loại. Từ đọc hiểu văn mà trực tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể
nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình
thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng cho học
sinh năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mỹ. Do đó hiểu bản chất môn văn là
môn dạy đọc văn vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất của văn học, vừa hiểu
đúng thực chất việc dạy văn là dạy năng lực, phát triển năng lực là chủ thể của

học sinh.
2.3.2.2. Khái niệm, đặc trưng thể loại kí.
Kí là một loại văn xuôi tự sự, có nguồn gốc từ kí lịch sử, dùng để ghi chép
về con người, sự vật, phong cảnh…kí bao gồm nhiều thể như: Bút kí, hồi kí, du
kí, nhật kí, phóng sự, kí sự, nhật kí, tùy bút…
Kí trung đại có Thượng kinh kí sự của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác,
Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ…, kí hiện đại có Nguyễn Tuân, Vũ
Bằng, Thép Mới, Hoàng Phủ Ngọc Tường…
10


Lâu nay trong nhà trường phổ thông, việc học thể kí vừa cung cấp cho học
sinh hệ thống rất phong phú những tri thức về mọi lĩnh vực của đời sống, vừa
bồi dưỡng năng lực thẩm mỹ, đồng thời rèn luyện những kỹ năng viết cần thiết,
nhất là văn biểu cảm. Việc giảng dạy kí phải đảm bảo cung cấp đầy đủ nhất,
trong khả năng có thể, những kiến thức loại hình và kỹ năng kỹ xảo cần thiết để
giúp học sinh không chỉ cảm thụ được vẻ đẹp văn học của tác phẩm kí mà còn
có khả năng viết kí ở những yêu cầu tối thiểu.
Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật, kí đòi hỏi sự trung
thực, chính xác. Người viết kí thường quan tâm, tôn trọng những sự kiện xã hội
lịch sử, những vấn đề nóng bỏng đang đặt ra trong đời sống. Người viết kí miêu
tả thực tại tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học.
Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành, có thời gian, địa điểm,
hành động và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh gợi không khí,
Tác giả kí khéo sử dụng tài liệu đời sống kết hợp với tư tưởng, cảm thụ,
nhận xét, đánh giá. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể
hiện suy tưởng nhận xét chân thực, tường minh của nhà văn trước sự việc. cái
thú vị của kí là những ý riêng, suy nghĩ riêng của tác giả được đan cài với việc
tái hiện đối tượng. Vì vậy sức hấp dẫn của kí là khả năng tái hiện sự thật một
cách sinh động của tác giả. Kí chấp nhận sự hư cấu, do đó phải dựa vào những

liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, tài hoa của tác giả khi phản ánh sự vật, cuộc
sống. Điều đó tạo nên sức hấp dẫn của thể loại kí.
Nổi bật lên trong tác phẩm kí chính là chất chủ quan, chất trữ tình sâu đậm của
cái tôi tác giả. Cho nên sức hấp dẫn của kí còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn của
cái tôi ấy (thường là những cái tôi phong phú, uyên bác, tài hoa, độc đáo…)
2.3.2.3. Đặc sắc phong cách nghệ thuật nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn tài hoa, có sở trường thể loại bút kí với
một phong cách viết độc đáo, ông đã khẳng định mình bằng một lối đi riêng
trong lòng người đọc yêu mến kí. Sinh ra và lớn lên ở Huế nên chất Huế thể hiện
đậm nét trong các sáng tác của ông, bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của
Hoàng Phủ Ngọc Tường tiêu biểu viết về Huế cũng như phong cách nghệ thuật
của nhà văn.
Phong cách viết tài hoa, uyên bác, giàu chất trí tuệ và trữ tình. Không thể
kể ra hết những câu, những chữ, những lóng lánh tài hoa trên những trang kí viết
về sông nước, thiên nhiên của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đọc những trang kí của
ông, người đọc cảm nhận về thể kí có sự đổi thay thú vị, thể loại chuyên ghi
chép các sự kiện chân thực này qua ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường lại thẫm
đẫm suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn
hóa, lịch sử, địa lý…, chất trữ tình kết hợp với trí tuệ, nghị luận sắc bén, súc
tích, ngòi bút hướng nội đã giúp nhà văn có những liên tưởng rất độc đáo.
Trường liên tưởng rộng và khả năng sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu nhạc
tính… tạo nên sự cuốn hút trên mỗi trang viết đầy mê đắm của ông.
Thiên về đời sống tâm linh, về những cảm nhận trực giác nên những hình
11


ảnh, những thủ pháp nghệ thuật trong kí Hoàng Phủ Ngọc Tường thường thiên
về chất thơ, chất họa. Nhịp văn, mạch văn trùng điệp, truyền tài được nguồn xúc
cảm dạt dào của nhà văn.
Xuyên suốt các tác phẩm kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường là lòng yêu quê

hương đất nước, là tâm huyết với tinh hoa dân tộc. Ông luôn gắn cái đẹp, gắn
nghệ thuật với những truyền thống văn hóa dân tộc. Những mẩu kí của Hoàng
Phủ Ngọc Tường, dù viết về vùng nào, dù viết về những năm tháng chiến tranh
hay cuộc sống đương đại, đều thể hiện niềm tự hào về những nét đẹp của quê
hương đất nước. Viết về vùng đất Mũi Cà Mau, nhà văn truyền cho người đọc
niềm vui sướng tự hào về “món quà tặng của biển cả dành cho đất nước ta”
(Rừng nước mặn). Viết về Lạng Sơn bằng những con chữ lóng lánh tài hoa, nhà
văn thổi vào người đọc hương thơm nhẹ nhàng quyến rũ của cây hồi “nó thân
thiết và mơ hồ như một kỉ niệm” (Rừng hồi). Viết về Huế, Hoàng Phủ Ngọc
Tường lại đưa người đọc về vùng đất cố đô trầm mặc, thơ mộng với những khu
vườn xanh, thiên nhiên xanh, dòng sông xanh (Ai đã đặt tên cho dòng sông?).
Nhà văn đã nói về tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của mình: “Đây là
bút kí dài nhất và tâm huyết nhất của tôi về Huế. Tôi mang cả tâm huyết vẽ nên
một dòng sông vốn y như nó vốn có. (Dòng sông của văn hóa, lịch sử, huyền
thoại… với vẻ đẹp thật của thiên nhiên và có tính nhân văn). Đó là một thứ tài
sản tôi muốn gửi lại cho thế hệ mai sau với lời nhắn gửi: sông Hương như một
viên ngọc quý mà thiên nhiên đã ban tặng cho Huế. Hãy bảo vệ vẻ đẹp ấy để nó
trường tồn mãi mãi, đừng tham vọng tác động làm thay đổi nó dù điều này
không phải dễ… ”.
2.3.2.4.Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển
năng lực đọc hiểu bài kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ( Hoàng Phủ Ngọc
Tường) qua việc thiết kế giáo án và giảng dạy.
Cơ sở khoa học:
Các phương pháp, kỹ thuật dạy học mới.
Cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm giảng dạy môn Ngữ Văn.
Đặc điểm của thể loại kí Việt Nam hiện đại.
Văn bản - tác phẩm “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ( Hoàng Phủ Ngọc Tường)
Trong bài dạy này tôi hướng đến mục tiêu cơ bản là rèn luyện kĩ năng
đọc hiểu tác phẩm kí theo đặc trưng thể loại với tinh thần cơ bản là kết hợp giữa
cảm và hiểu để đọc hiểu tác phẩm và rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản. Trong

thiết kế, tôi đã vận dụng kết hợp các phương pháp, kỹ thuật dạy học một cách
linh hoạt, hợp lý từng đơn vị kiến thức với một số phương pháp, kỹ thuật dạy
học tích cực như: Vấn đáp (đàm thoại), Đặt và giải quyết vấn đề, Thảo luận
nhóm (Kĩ thuật “ Khăn phủ bàn”), Sử dụng phương pháp bản đồ tư duy, Động
não, Đọc sáng tạọ, Kĩ thuật “Trình bày một phút”… Mọi hoạt động đều hướng
đến mục tiêu phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Do đối tượng dạy
học là học sinh lớp 12, các em đã được cung cấp tương đối đầy đủ các tri thức,
12


công cụ cần thiết để đọc hiểu một văn bản nên việc giảng dạy chủ yếu là gợi dẫn
để các em tự đọc hiểu tác phẩm và rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản.
Hệ thống câu hỏi gợi dẫn sẽ hướng đến các nội dung cơ bản sau: - Nội dung tri
thức về đối tượng sông Hương trong tác phẩm.
Năng lực cảm thụ nghệ thuật, bồi dưỡng tâm hồn để các em biết rung động
trước vẻ đẹp cuộc sống.
Tiếp cận tác phẩm kí đúng đặc trưng thể loại, phong cách tác giả vào việc đọc
hiểu văn bản.
Thiết kế giáo án và giảng dạy Văn bản - tác phẩm “ Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” ( Hoàng Phủ Ngọc Tường)
TIẾT 40, 41: ĐỌC VĂN.
AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG?
(Trích- Hoàng Phủ Ngọc Tường)
I. Mức độ cần đạt
1. Kiến thức :
a/ Nhận biết: HS nhận biết, nhớ được tên tác giả và hoàn cảnh ra đời của
các tác phẩm.
b/ Thông hiểu: HS hiểu và lí giải được hoàn cảnh sáng tác có tác động và
chi phối như thế nào tới nội dung tư tưởng của tác phẩm.
c/Vận dụng thấp: Khái quát được đặc điểm phong cách tác giả từ tác

phẩm.
d/Vận dụng cao:
- Vận dụng hiểu biết về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để phân
tích giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm Bút kí.
2. Kĩ năng :
a/ Biết làm: bài nghị luận về một đoạn trích văn xuôi, về 1 ý kiến bàn về
văn học;
b/ Thông thạo: các bước làm bài nghị luận
3. Thái độ :
a/ Hình thành thói quen: đọc hiểu văn bản bút kí
b/ Hình thành tính cách: tự tin , sáng tạo khi tìm hiểu văn bản bút kí
c/Hình thành nhân cách:
- Biết nhận thức được ý nghĩa của kí hiện đại Việt Nam trong lích sử văn
học dân tộc
- Biết trân quý những giá trị văn hóa truyền thống mà kí hiện đại đem lại
- Có ý thức tìm tòi về thể loại, từ ngữ, hình ảnh trong kí hiện đại Việt Nam
.
II. Trọng tâm
1. Kiến thức.
- Hiểu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích trong tác
13


phẩm kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?- Nguyễn Tuân.
- Hiểu một số đặc điểm và sự đóng góp của thể loại kí Việt Nam từ sau
Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX.
2. Kĩ năng.
- Biết cách đọc - hiểu một tác phẩm kí hiện đại Việt Nam theo đặc trưng
thê loại.
- Biết vận dụng những hiểu biết trên vào việc làm bài văn nghị luận văn

học.
- Nhận ra được đề tài, chủ đề, cảm hứng thẩm mĩ, vẻ đẹp hình tượng, các
biện pháp nghệ thuật của trích đoạn kí.
3. Thái độ
- Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường thiên nhiên.
- Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước
4. Những năng lực cụ thể học sinh cần phát triển:
- Năng lực thu thập thông tin liên quan đến kí hiện đại Việt Nam.
- Năng lực đọc - hiểu các tác phẩm kí hiện đại Việt Nam.
- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về kí văn học.
- Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành tựu, hạn chế, những
đặc điểm cơ bản, giá trị của những tác phẩm kí văn học .
- Năng lực phân tích, so sánh đặc điểm của các thể loại tuỳ bút- bút kíhồi kí
- Năng lực tạo lập văn bản nghị luận.
III. Chuẩn bị
1/Thầy
- Giáo án
- Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi
- Tranh ảnh về nhà văn, hình ảnh, phim về Sông Hương, ;
- Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp
- Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà
2/Trò
- Đọc trước ngữ liệu trong SGK để trả lời câu hỏi tìm hiểu bài
- Các sản phẩm thực hiện nhiệm vụ học tập ở nhà (do giáo viên giao từ tiết
trước)
- Đồ dùng học tập
IV. Tổ chức dạy và học.
1. Ổn định tổ chức lớp:
- Kiểm tra sĩ số, trật tự, nội vụ của lớp
2. Kiểm tra bài cũ: Trình bày phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh và

Tố Hữu?
3. Tổ chức dạy và học bài mới:
1. KHỞI ĐỘNG ( 5 phút)
14


Chuẩn kiến thức kĩ
Hoạt động của GV và HS
năng cần đạt, năng
lực cần phát triển
- GV giao nhiệm vụ: GV hướng dẫn học sinh tìm hiểu về - Nhận thức được
bài bút kí bằng cách cho HS:
nhiệm vụ cần giải
- Xem chân dung nhà văn Hoàng Phủ Ngọc quyết của bài học.
Tường
- Xem một đoạn video clip về Sông Hương - Tập trung cao và hợp
- Nghe một đoạn bài hát Dòng sông ai đã tác tốt để giải quyết
đặt tên.
nhiệm vụ.
- HS thực hiện nhiệm vụ:
- HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ.
Từ đó, giáo viên giới thiệu Vào bài:
- Có thái độ tích cực,
Dòng sông quê hương không chỉ là kí ức, là kỷ niệm hứng thú.
tuyệt đẹp của tuổi thơ mỗi người, mà còn là nguồn thi ca
nhạc họa bất tận cho các nghệ sĩ. Dòng sông trong tim Tế
Hanh là hình ảnh Nước gương trong soi tóc những hàng
tre…, trong tim Hoàng Cầm là Xanh xanh bãi mía bờ
dâu… Một dòng sông vừa hung bạo vừa trữ tình và đẹp
như một người đàn bà kiều diễm làm chúng ta không thể

nào quên được Nguyễn Tuân - nhà văn nổi tiếng với thể
tùy bút. Hoàng Phủ Ngọc Tường, người con của xứ Huế
cũng có những cảm xúc vừa sâu lắng, mãnh liệt, vừa tha
thiết, chân thành về dòng sông Hương quê hương ông qua
bút kí “Ai đã dặt tên cho dòng sông ?”. Chúng ta hãy
cùng nhau tìm hiểu bút kí đó của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
2. HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
Hoạt động của GV - HS
Họat động 1: TÌM HIỂU CHUNG (10 phút).
* Thao tác 1 :
Hướng dẫn HS tìm hiểu chung về tác giả và tác phẩm.
GV gọi 1 HS đọc lại phần Tiểu dẫn và trình bày
những nét chính về tác giả, tác phẩm Ai đã đặt tên cho
dòng sông ? và vị trí đoạn trích. GV cũng nên khuyến
khích HS trình bày những kiến thức vể tác giả, tác phẩm
mà các em đọc được ngoài SGK.

Kiến thức cần đạt
I.TÌM HIỂU CHUNG

1. Tác giả
- Hoàng Phủ Ngọc
Tường là một trí thức
yêu nước, là nhà văn
gắn bó mật thiết với
xứ Huế nên tâm hồn,
tình cảm thấm đẫm
văn hoá của mảnh đất
GV nhấn mạnh:
- Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của HPNT: có này.

sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa - Chuyên về bút kí với
15


nghị luận sắc bén với duy tư đa chiều được tổng hợp từ
vốn kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực, lối viết hướng
nội, súc tích, mê đắm và tài hoa tạo cho thể loại bút kí một
phong cách riêng, đem đến những đóng góp mới cho nền
văn xuôi Việt Nam hiện đại.
* Thao tác 2 :
- Trên lớp, GV kiểm tra việc đọc tác phẩm ở nhà của HS.
Có thể tiến hành bằng cách yêu cầu HS cho biết bố cục
đoạn trích, xác định thuỷ trình của dòng sông qua sự miêu
tả của nhà văn và nêu cảm nhận của bản thân về đoạn văn
mà anh (chị) thích nhất.
- Sau khi gọi một số HS trình bày, GV chốt lại bố cục đoạn
trích và các ý chính.
HS đọc và trình bày.
- Cuộc đời của Hoàng Phủ Ngọc Tường gắn bó sâu sắc
với xứ Huế (sinh ra tại thành phố Huế, học Đại học Huế,
dạy học tại Trường Quốc học Huế, tham gia phong trào
cách mạng tại Huế và trở thành một trí thức yêu nước, một
chiến sĩ trong phong trào đấu tranh chống Mĩ - Nguỵ ở
Thừa Thiên - Huế).
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là người có vốn hiểu biết sâu
rộng trên nhiều lĩnh vực, nhất là lịch sử, địa lí, văn hoá
Huế.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà vãn chuyên về thể loại
bút kí.
Họat động 2: ĐỌC HIỂU VĂN BẢN ( 70 PHÚT)

* Thao tác 1 :
Hướng dẫn HS đọc - hiểu văn bản
- GV yêu cầu HS đọc (đọc thầm) lại một lần nữa đoạn văn
đầu tiên rồi tìm hiểu xem nhà văn đã miêu tả sông Hương
ở thượng nguồn như thế nào.
* Thao tác 2 : Thảo luận nhóm ( Có thể sử dụng KT “
Khăn phủ bàn”)
Nhóm 1: Nhà văn đã gọi sông Hương bằng tên gọi nào ?
Đã ví nó với ai ? Đã sử dụng những thủ pháp nghệ thuật
nào để làm nổi bật vẻ đẹp và đặc tính của con sông ?)
Đại diện nhóm 1 trả lời:
- Sông Hương mang vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt,
hoang dại, được thể hiện qua những so sánh và những hình
ảnh đầy ấn tượng:

đề tài khá rộng lớn, đó
là cảnh sắc và con
người khắp mọi miền
đất nước nhất là
những bài viết về
Huế.
- Nét đặc sắc trong
phong cách nghệ thuật
của HPNT
2. Tác phẩm:
- Ai đã đặt tên cho
dòng sông? được viết
tại
Huế
ngày

04/01/1981, in trong
tập sách cùng tên
(NXB Thuận Hoá
1986)
- Bài kí gồm 3 phần,
đoạn trích gồm phần
thứ nhất và đoạn kết.

II. ĐỌC - HIỂU VĂN
BẢN
A/ Nội dung:
1. Thủy trình của
Hương giang:
a) Sông hương nơi
khởi nguồn:
- Là “bản trường ca
của rừng già”
- Là “cô gái Digan
phóng khoáng và man
dại”
- Là “người mẹ phù sa
của một vùng văn hóa
xứ sở”
- “rầm rộ giữa bóng
cây đại ngàn, mãnh
liệt qua những ghềnh
16


- Là “bản trường ca của rừng già” -> Nhấn mạnh Sức sống

mãnh liệt, vừa hùng tráng vừa trữ tình, như bản trường ca
bất tận của thiên nhiên;
- Là “cô gái Digan phóng khoáng và man dại” -> nhấn
mạnh vẻ đẹp hoang dại nhưng tình tứ của dòng sông. Tác
giả nhân hoá con sông khiến nó hiện lên như một con
người có cá tính và tâm hồn;
- Là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” ->
sông Hương như một đấng sáng tạo góp phần tạo nên, gìn
giữ và bảo tồn văn hoá..
+ “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những
ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí
ẩn”.

thác, cuộn xoáy như
cơn lốc vào những
đáy vực bí ẩn”.
-> Sự tài hoa của ngòi
bút HPNT: liên tưởng
kì thú, ngôn từ gợi
cảm, câu văn dài, chia
làm nhiều vế liên tục
gợi dậy dư vang của
trường ca; thủ pháp
điệp cấu trúc + động
từ mạnh tạo âm hưởng
mạnh mẽ của con
sông giữa rừng già

Nhóm 2:
- GV dẫn dắt và nêu câu hỏi : Nhà văn đã hình dung vể

sông Hương như thế nào khi nó còn ở “giữa cánh đổng
Châu Hoá đầy hoa dại” ? Từ đó, hãy phát hiện điều thú vị
trong cách cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường về thuỷ
trình của con sông khi nó bắt đầu vể xuôi?

b) Đến ngoại vi thành
phố Huế:
- Sông Hương được ví
“như người con gái
đẹp nằm ngủ mơ
màng” được “người
tình mong đợi” đến
đánh thức.
- Vẻ đẹp trầm mặc
như triết lí, như cổ thi
- Nghệ thuật:
-> Thủy trình của
sông Hương khi bắt
đầu về xuôi tựa “một
cuộc tìm kiếm có ý
thức” người tình nhân
đích thực của một
người con gái đẹp
trong câu chuyện tình
yêu lãng mạn nhuốm
màu cổ tích, gắn với
những thành quách,
lăng tẩm của vua chúa
thuở trước.


- GV lưu ý HS phân tích những đặc sắc trong cách miêu tả
của nhà văn qua nghệ thuật sử dụng từ ngữ, cách hành văn
và các biện pháp nghệ thuật khác...
Đại diện nhóm 2 trả lời:
- Dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
+ Sông Hương như người gái đẹp bừng tỉnh sau một giấc
ngủ dài: vóc dáng mới, sức sống mới đầy khát khao và
lãng mạn.
- Nghệ thuật: + Lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa
dạng, giàu hình ảnh tg đã diễn tả một cách sinh động và
hấp dẫn từng bước đi của sông Hương
+ Những câu văn giàu chất hoạ, giàu cảm xúc và liên
tưởng.

Nhóm 3:
c) Đến giữa thành
- GV gợi ý thảo luận, tìm hiểu : Cuối cùng thì sông Hương phố Huế:
cũng đã đến được thành phố thân yêu của mình. So với - Sông Hương gặp
17


trước khi vào thành phố, sông Hương đã có thêm những vẻ
đẹp mới, độc đáo và hiếm thấy ở các dòng sông khác trên
thế giới. Ai có thể chứng minh điểu đó qua việc phân tích
các góc độ cảm nhận và miêu tả sông Hương của Hoàng
Phủ Ngọc Tường ?

thành phố như đến với
điểm hẹn tình yêu, nó
như tìm được chính

mình nên vui tươi và
đặc biệt chậm rãi, êm
dịu, mềm mại như một
tiếng “vâng” không
nói ra của tình yêu.
Đại diện nhóm 3 trả lời:
- Nó có những đường
+Sông Hương - ”điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế” nét tinh tế: “uốn một
Miêu tả dòng sông giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc cánh cung rất nhẹ
Tường chọn cho mình kênh tiếp cận là âm nhạc. Ở góc độ sang cồn Hến”.
này, sông Hương chính là “điệu slow tình cảm dành riêng - “điệu chảy lặng tờ”
cho Huế”.
của con sông khi
ngang qua thành phố
đẹp như “điệu slow
tình cảm dành riêng
cho Huế”.
- Phải rất hiểu sông
Hương, tác giả mới
cảm nhận thấm thía vẻ
đẹp con sông lúc đêm
sâu. Đó là lúc mà âm
nhạc cổ điển Huế
được sinh thành. Khi
đó, trong không khí
chùng lại của dòng
sông nước ấy, sông
Hương đã trở thành
một người tài nữ đánh
đàn lúc đêm khuya.

d) Trước khi từ biệt
Nhóm 4: Vẻ đẹp của sông Hương trước khi từ biệt Huế Huế:
thể hiện như thế nào?
- Sông Hương giống
như “người tình dịu
Đại diện nhóm 4 trả lời:
dàng và chung thủy”.
- Sông Hương giống như “người tình dịu dàng và chung - Con sông dùng dằng
thủy”.
như “nàng Kiều trong
- Con sông dùng dằng như “nàng Kiều trong đêm tình tự” đêm tình tự” trở lại
trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước lúc đi xa.
tìm Kim Trọng để nói
một lời thề trước lúc
đi xa.
18


Thao tác 3:
GV: Trong lịch sử và trong đời thường, thi ca, sông Hương
đã hiện lên với những vẻ đẹp đáng trân trọng và đáng mến.
Nhà văn đã phát hiện và lí giải về những vẻ đẹp đó của
Hương giang như thế nào ?
- GV nêu vấn để : Vì sao sông Hương lại có thể trở thành
dòng sông thi ca, là nguồn cảm hứng bất tận cho người
nghệ sĩ ?

Thao tác 4: ( KT “ Trình bày một phút”)
? Tác giả đã lí giải về tên của dòng sông như thế nào?
Cách lí giải ấy cho hiểu thêm điều gì về tính cách và tâm

hồn người Huế?
HS phát hiện và lí giải:
=> Lịch sử: hùng tráng và đời thường: giản dị, sông
Hương tự biết thích ứng với từng hoàn cảnh, không gian
và thời gian khác nhau -> dòng sông trở nên mới mẻ trong
càm nhận của mọi người và có thêm vẻ đẹp mới.
- Sông Hương còn là dòng sông thi ca, là nguồn cảm hứng
bất tận cho các văn nghệ sĩ. Tác giả cho rằng có một dòng
thi ca về sông Hương. Đó là dòng thơ không lặp lại mình:
+ “Dòng sông trắng - lá cây xanh”(Chơi xuân -Tản Đà)
+ “Như kiếm dựng trời xanh”( Trường giang như kiếm lập
thanh thiên - Cao Bá Quát).
+ “Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”(Thơ của Thu Bồn)

2. Dòng sông của lịch
sử và thi ca:
- Trong lịch sử, sông
Hương mang vẻ đẹp
của một bản hùng ca
ghi dấu bao chiến
công oanh liệt của dân
tộc “...”.
- Trong đời thường,
sông Hương mang vẻ
đẹp giản dị của “một
người con gái dịu
dàng của đất nước”.
- Sông Hương còn là
dòng sông thi ca, là

nguồn cảm hứng bất
tận cho các văn nghệ
sĩ.
* Ai đã đặt tên cho
dòng sông?
- Tên của dòng sông
được lí giải bằng một
huyền thoại mĩ lệ: đó
là chuyện về cư dân
hai bên bờ sông nấu
nước của trăm loài
hoa đổ xuống dòng
sông cho làn nước
thơm tho mãi mãi.
Huyền thoại về tên
dòng sông đã nói lên
khát vọng của con
người ở đây muốn
đem cái đẹp và tiếng
thơm để xây đắp văn
hoá, lịch sử, địa lý quê
hương mình.

19


Họat động 3: TỔNG KẾT ( 5 PHÚT)
Thao tác 1: ( Phương pháp động não)
- GV : Về phương diện nghệ thuật, những yếu tố nào đã
làm nên vẻ đẹp và sự hấp dẫn của bài bút kí đặc sắc này

?
- Từ đoạn văn anh (chị) hiểu thêm điều gì về thể loại bút kí
? Thể loại này có gì giống và khác với thể loại tuỳ bút ?
(So sánh với tuỳ bút của Nguyễn Tuân)

Thao tác 2:
Kỹ thuật “ Trình bày một phút”
GV: Nêu ý nghĩa văn bản?
GV : Tóm lại, một bài kí đặc sắc như vậy chỉ có thể là kết
quả, là tổng hoà của những tình cảm và phẩm chất nào ở
Hoàng Phủ Ngọc Tường ?
HS đọc, phát hiện và lí giải .
HS trả lời:
- Văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
- Sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến
thức địa lý, lịch sử, văn hoá nghệ thuật và những trải
nghiệm của bản thân
- Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử

B. Nét đặc sắc của
văn phong Hoàng
Phủ Ngọc Tường
(Nghệ thuật bài kí):
- Thể loại bút kí
- Văn phong tao nhã,
hướng nội, tinh tế và
tài hoa.
- Sức liên tưởng kì
diệu, sự hiểu biết
phong phú về kiến

thức địa lý, lịch sử,
văn hoá nghệ thuật và
những trải nghiệm của
bản thân
- Ngôn ngữ phong
phú, giàu hình ảnh,
giàu chất thơ, sử dụng
nhiều phép tu tư như:
So sánh, nhân hoá, ẩn
dụ, ...
- Có sự kết hợp hài
hoà cảm xúc, trí tuệ,
chủ quan và khách
quan. Chủ quan là sự
trải nghiệm của bản
thân. Khách quan là
đối tượng miêu tả dòng sông Hương.
C) Ý nghĩa văn
bản:
Thể hiện những phát
hiện, khám phá sâu
sắc và độc đáo về
sông Hương; bộc lộ
tình yêu tha thiết, sâu
lắng và niềm tự hào
lớn lao của nhà văn
đối với dòng sông quê
hương, với xứ Huế
thân thương.


20


dụng nhiều phép tu từ như: So sánh, nhân hoá, ẩn dụ, ...
- Có sự kết hợp hài hoà cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và
khách quan. Chủ quan là sự trải nghiệm của bản thân.
Khách quan là đối tượng miêu tả - dòng sông Hương.
3. LUYỆN TẬP
Hoạt động của GV - HS

Kiến thức cần đạt

GV giao nhiệm vụ:
Xét đến cùng, điều cốt lõi nào đã làm nên sức hấp
dẫn của đoạn trích tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông ?
của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường ?
a/Vì tình yêu, sự gắn bó thiết tha và thái độ trân trọng của
nhà văn đối với sông Hương, với nền văn hoá Huế.
b/Vì đặc điểm hết sức tự do, phóng khoáng và đậm màu
sắc trữ tình của một bài bút kí văn học.
c/Vì cái tôi tài hoa, uyên bác, giàu tình cảm và trí tưởng
tượng phong phú, độc đáo, ỉãng mạn của tác giả.
d/Vì sự hiểu biết tường tận, sâu rộng của nhà văn về sông
Hương và cảnh sắc thiên nhiên cũng nhự con người xứ
Huế.
- HS thực hiện nhiệm vụ:
- HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ:
4.VẬN DỤNG
Hoạt động của GV - HS
GV giao nhiệm vụ:

- HS thực hiện nhiệm vụ:
Có một dòng thi ca về sông
Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một
cách công bằng về nó khi nói rằng dòng
sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình
trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi
nhà thơ đều có một khám phá riêng về
nó: từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng
thay màu thực bất ngờ, “dòng sông
trắng - lá cây xanh” trong cái nhìn tinh
tế của Tản Đà, từ tha thiết mơ màng nó
chợt nhiên hùng tráng lên “như kiếm
dựng trời xanh” trong khí phách của

(Đáp án : C)

Kiến thức cần đạt
1. Ý chính của văn bản: Tác giả
ca ngợi sông Hương là dòng sông của
thi ca, là nguồn cảm hứng bất tận cho
các văn nghệ sĩ.
2. Các từ ngữ gạch chân tinh tế ,
khí phách, nỗi quan hoài vạn cổ , thắm
thiết tình người có hiệu quả diễn đạt :
vừa ca ngợi sông Hương là nguồn cảm
hứng của thi ca, đồng thời phát hiện ra
phong cách nghệ thuật độc đáo của mỗi
nhà thơ khi viết về sông Hương
+ Bài tập viết đoạn văn:
21



Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ
với bóng chiều bãng lãng trong hồn thơ
Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi
thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn,
trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần
nữa, sông Hương quả thực là Kiều rất
Kiều, trong cái nhìn thắm thiết tình
người của tác giả Từ ấy.
Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến
đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng
sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân
cầu, hỏi với trời, với đất, một câu thật
bâng khuâng: Ai đã đặt tên cho dòng
sông?...
(Trích Bút kí Ai đã
đặt tên cho dòng sông?...Hoàng Phủ
Ngọc Tường)

Đọc văn bản trên và thực hiện các
yêu cầu sau :
1. Nêu ý chính của văn bản?
2. Các từ ngữ gạch chân tinh tế ,
khí phách, nỗi quan hoài vạn cổ , thắm
thiết tình người có hiệu quả diễn đạt như
thế nào?.

Viết đoạn văn ngắn trả lời câu hỏi
Ai đã đặt tên cho dòng sông?...

Trả lời :
Câu hỏi Ai đã đặt tên cho dòng
sông?...có ý nghĩa : không phải để hỏi
nguồn gốc của một danh xưng địa lý
thông thường mà là một sự nhấn mạnh,
ẩn chứa niềm tự hào sâu sắc về dòng
sông quê hương. Tác giả gợi mở cho
người đọc những hướng trả lời khác
nhau bằng trải nghỉệm văn hóa của bản
thân. Tên riêng của một dòng sông có
thể do một cá nhân nào đó đặt ra, qua
năm tháng, danh xưng của tác giả bị mai
một, nó trở thành tài sản chung của cộng
đồng, Tuy nhiên, cái tên đích thực của
dòng sông phải là danh từ gắn với biểu
tượng văn hóa, tinh thần, chiều sâu lịch
sử của một dân tộc. Ở khía cạnh này,
chính những người dân bình thường những người sáng tạo ra văn hóa, văn
học, lịch sử là những người “ đã đặt tên
cho dòng sông”.

- HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm
vụ.
TÌM TÒI, MỞ RỘNG.
Hoạt động của GV - HS

Kiến thức cần đạt

PP Bản đồ tư duy.
+ Vẽ đúng bản đồ tư duy.

GV giao nhiệm vụ:
+ Tìm trên youtube. Cảm nhận chân
+ Vẽ bản đồ tư duy
thành, cảm xúc.
+ Tìm nghe bài hát Dòng sông ai đã
đặt tên. Viết cảm nhận sau khi nghe
bài hát
- HS thực hiện nhiệm vụ:
- HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm
vụ:
4. Giao bài và hướng dẫn học bài, chuẩn bị bài ở nhà.

22


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Kiểm nghiệm thực tế.
 Phương pháp kiểm nghiệm:
Để có cơ sở đánh giá hiệu quả của việc áp dụng đề tài vào thực tế dạy học,
tôi chọn học sinh 4 lớp 12 tương đương của trường THPT Triệu Sơn 3, các lớp này
tương đương về sĩ số, nề nếp, đặc biệt là năng lực và ý thức học tập đối với môn
Ngữ Văn.
- Lớp đối chứng: 12H1, 12 H6 ( Năm học 2014- 2015).
- Lớp thực nghiệm: 12C1, 12 C7 ( Năm học 2015 - 2018).
Để đánh giá hiệu quả của đề tài tôi đã sử dụng phiếu điều tra về hứng thú
học tập của học sinh và đề kiểm tra cuối học kỳ I, đầu kì II sau khi dạy học tác
phẩm kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.
 Kết quả kiểm nghiệm
Đối với lớp đối chứng (Năm học 2014-2015).

Bảng 1: Bảng thống kê về hứng thú học tập của học sinh đối với môn Văn–
Phần truyện ngắn của các lớp qua kết quả khảo sát cuối học kì I(Khi chưa sử
dụng một số biện pháp dạy học tích cực để dạy bài kí ). Kết quả như sau:
Lớp

Sĩ số

12 H6
12 H1
Tổng

45
54
99

Rất thích
SL
%
7
15,6
10
18,5
17
17,5

Mức độ hứng thú
Bình thường
Không thích
SL
%

SL
%
19
42,2
19
42,2
20
37,0
24
44,5
39
38,5
43
44,0

Bảng 2: Bảng thống kê về hứng thú học tập của học sinh đối với môn Văn – bài
kí của các lớp qua kết quả bài khảo sát đầu học kỳ 2 (Khi đã sử dụng một số
biện pháp dạy học tích cực để dạy bài kí ). Kết quả như sau:
Mức độ hứng thú
Lớp
Sĩ số Rất thích
Bình thường Không thích
SL
%
SL
%
SL
%
12 H6
45

17
37,8
22
48,9
6
13,3
12 H1
54
27
50,0
21
46,7
6
13,3
Tổng
99
44
87,8
43
47,8
12
13,3
Bảng 3. Kết quả học tập của học sinh cuối năm 2014-2015.

Giỏi
Khá
TB
Lớp
số SL %
SL

%
SL
%
12 H6
12 H1
Tổng

45
54
99

03
05
08

6,7
9,2
7,9

20
26
46

44,4
48,1
46,3

18
22
40


40,0
40,7
40,0

Yếu-kém
SL
%
04
01
05

8,9
4,2
6,6
23


Đối với lớp thực nghiệm (Năm học 2017-2018)
Bảng 4: Bảng thống kê về hứng thú học tập của học sinh đối với môn Văn – bài
kí của các lớp qua kết quả khảo sát cuối học kỳ 1 (Khi chưa sử dụng một số biện
pháp dạy học tích cực để dạy bài kí). Kết quả như sau:
Lớp
12 C1
12 C7
Tổng

Sĩ số
54
42

96

Rất thích
SL
%
10
18,5
2
4,8
12
11,7

Mức độ hứng thú
Bình thường
Không thích
SL
%
SL
%
24
44,5
20
37,0
16
38,0
24
57,2
40
41,3
42

47,0

Bảng 5: Bảng thống kê về hứng thú học tập của học sinh đối với môn Văn – bài
kí của các lớp qua kết quả bài khảo sát đầu học kỳ 2 (Khi đã sử dụng một số
biện pháp dạy học tích cực để dạy phần truyện ngắn). Kết quả như sau:
Mức độ hứng thú
Lớp
Sĩ số Rất thích
Bình thường
Không thích
SL
%
SL
%
SL
%
12 C1
54
27
50,0
23
42,5
4
7,5
12 C7
42
20
47,6
20
47,6

2
4,8
Tổng
96
47
48,8
43
45,0
6
6,2
Bảng 6. Kết quả học tập của học sinh cuối năm 2017-2018.

Giỏi
Khá
TB
Lớp
số SL
%
SL
%
SL
%
12 C1
12 C7
Tổng

54
42
96


10
8
18

18,5
19,0
18,8

42
31
73

77,8
73,8
75,7

2
3
5

3,7
7,2
5,5

Yếu-kém
SL
%
0
0
0


0
0
0

So sánh các bảng thống kê, cho thấy: số lượng học sinh rất hứng thú với các
bài học vận dụng một số biện pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực
đọc hiểu bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ở các lớp cuối năm tăng lên một
cách đáng kể so với điều tra ở cuối học kì I, ở đầu học kỳ 2. Ở Bảng 1 và Bảng 2
tăng từ 17,0 % lên 44,0 %. Số học sinh không thích giảm từ 44,0% xuống còn
12,0%.
Đối với Bảng 4 và Bảng 5 thì: số lượng học sinh rất hứng thú với các bài
học vận dụng một số biện pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực đọc
hiểu bài kí ở các lớp tăng từ 11,7% lên 48,8%. Số học sinh không thích giảm từ
47,0% xuống còn 6,2 %.
Bảng 3 và Bảng 6: Kết quả học tập năm 2014-2015 so với 2017-2018: Tỉ lệ
học sinh đạt loại giỏi tăng từ 7,9% lên 18,8%; loại Khá tăng từ 46,3% lên
75,7%; Loại Yếu - kém giảm xuống rõ rệt từ 6,6% xuống 0%.
Như vậy có thể khẳng định rằng việc vận dụng một số biện pháp dạy học
tích cực nhằm phát triển năng lực đọc hiểu tác phẩm kí “Ai đã đặt tên cho dòng
24


sông?” cho học sinh các lớp 12 là một việc làm hiệu quả, nhằm nâng cao chất
lượng học tập bộ môn văn cho học sinh.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận đã từng chỉ đạo: “ Đổi mới
căn bản nền giáo dục trước hết phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học, xây
dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệm, dạy tốt, học tốt, khơi dậy tiềm

năng, trí sáng tạo của học sinh, tránh chạy theo bệnh thành tích…”.
Những năm gần đây, tổ Văn nói riêng và trường THPT Triệu Sơn 3 của
chúng tôi nói chung, đã gặt hái được không ít những thành công trong việc nâng
cao chất lượng dạy và học. Có được điều đó là nhờ vào sự phấn đấu nỗ lực
không ngừng của Ban giám hiệu, của cả thầy và trò, đặc biệt là hệ quả của việc
tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy và giáo dục hiện nay ở nhà trường. Với
một vài kinh nghiệm nhỏ tôi cũng đã có được hiệu quả bước đầu trong công tác
giảng dạy khi “ Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực nhằm phát
triển năng lực đọc hiểu bài kí “ Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ( Hoàng Phủ
Ngọc Tường) cho học sinh lớp 12 trung học phổ thông”.
Ở phạm vi bài viết này tôi chỉ muốn giải bày, trao đổi với đồng nghiệp
những gì mình đã làm được trong việc vận dụng phương pháp kỹ thuật đổi mới
dạy học môn Ngữ văn của bản thân những năm qua.
Trong thời gian tới tôi vẫn sẽ luôn cố gắng hết sức mình, chủ động, sáng
tạo và thường xuyên vận dụng những kinh nghiệm mà mình đã có để góp phần
làm dày thêm thành tích dạy và học của trường THPT Triệu Sơn 3, tiếp tục giữ
vững thương hiệu của nhà trường, thỏa lòng tin tưởng của học sinh và nhân dân
trong vùng.
Do hạn chế về năng lực, thời gian và kinh nghiệm nên bài viết này sẽ
không tránh khỏi những hạn chế, vì thế tôi rất mong được sự thông cảm, chia sẻ
và góp ý chân thành từ phía đồng nghiệp để công việc đổi mới phương pháp dạy
học Ngữ văn trong nhà trường thêm hiệu quả.
3.2. Kiến nghị.
Đối với giáo viên, phải không ngừng tự học, tự bồi dưỡng, nhất là về
phương pháp dạy học tích cực để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nâng
cao hiệu quả dạy học.
Đối với tổ chuyên môn, tăng cường sinh hoạt chuyên môn theo nghiên
cứu bài học; tổ chức các buổi sinh hoạt theo chuyên đề dành cho tác phẩm hay
và khó như “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.
Đối với các cấp lãnh đạo, cần quan tâm, động viên nhiều hơn nữa tới

những người trực tiếp đứng lớp giảng dạy. Cần đầu tư thêm trang thiết bị, sách
báo tài liệu chuyên môn để giáo viên có thêm thiết bị và tri thức thực hiện tốt
nhiệm vụ giảng dạy theo yêu cầu không ngừng đổi mới của ngành giáo dục, của
xã hội và thời đại.

25


×