Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN vận dụng phương pháp đóng vai trong giảng dạy một số bài học môn ngữ văn tại trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT TRƯỜNG THI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG
GIẢNG DẠY MỘT SỐ BÀI HỌC MÔN NGỮ VĂN TẠI
TRƯỜNG THPT

Người thực hiện: Trịnh Thị Ánh Tuyết
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ Văn

THANH HÓA, NĂM 2019
0


MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài.....................................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu...............................................................................................1
1.3. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................................1
1.4. Phương pháp nghiên cứu: Phân tích, thống kê, phân loại........................................1
1.5. Những điểm mới của SKKN...................................................................................1
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm...............................................................................2
2.1. Cơ sở lý luận của phương pháp đóng vai trong việc giảng dạy một số bài học môn
Ngữ văn tại trường THPT..............................................................................................2
2.2. Thực trạng dạy học môn Ngữ văn hiện nay............................................................2
2.4. Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm........................................................................4
2.4.2. Các bước tiến hành phương pháp đóng vai..........................................................5
2.4.3. Vận dụng cụ thể.................................................................................................7


4. Kết luận.................................................................................................................... 15
Tài liệu tham khảo.......................................................................................................16

1


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp giáo dục theo định hướng tiếp cận năng lực đang là
xu thế của các nước phát triển nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất
lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông, kết hợp dạy chữ với dạy người và định
hướng nghề nghiệp phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh. Trong xu
hướng đó việc dạy văn trong nhà trường phổ thông đang là một thử thách lớn
với giáo viên hiện nay. Dạy như thế nào cho hay, hiệu quả cao, tạo sự hứng thú,
say mê cho học sinh quả thực là cả một vấn đề lớn. Việc học sinh không thích
thú với môn văn cũng có nhiều lí do, tuy nhiên có một nguyên nhân khá quan
trọng đó là: Thầy cô giáo chưa thực sự tạo ra sự cuốn hút học sinh bằng bài
giảng của mình. Thầy cô chưa thực sự có nhưng bước ngoặt đột phá trong việc
đổi mới phương pháp, vẫn nặng về phương pháp truyền thống thế nên việc dạy
và học chưa thực sự hiệu quả. Với vai trò tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá
trình học tập của học sinh, hơn ai hết việc phải tìm ra nhiều biện pháp để phát
huy cao nhất tính tích cực sáng tạo của người học, tạo niềm hứng thú say mê học
tập ở các em chính là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi người giáo viên đứng
lớp. Xuất phát từ những vấn đề trên, với mong muốn góp một phần vào
việc tạo thêm hứng thú cho người học, giúp học sinh tích cực, chủ động tiếp
nhận tri thức và hình thành kĩ năng, phát triển nhân cách, đồng thời nhằm góp
phần đổi mới những phương pháp dạy học Ngữ văn truyền thống tôi mạnh
dạn xin được trao đổi một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình giảng
dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THPT. Trong các phương pháp dạy học tích
cực, đóng vai và sân khấu hóa là phương pháp phù hợp với đặc trưng dạy –

học của môn Ngữ Văn tạo ra hiệu quả cao. Do vậy tôi chọn đề tài “Vận dụng
phương pháp đóng vai trong giảng dạy một số bài học môn Ngữ văn tại
trường THPT”
1.2.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu phương pháp đóng vai và sân khấu hóa trong việc giảng dạy
một số tiết học tại trường THPT nhằm tạo nên sự hứng thú, chủ động tích cực
cho học sinh để đạt kết quả cao.
1.3.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tôi là phương pháp sân khấu hóa và đóng vai áp
dụng trong một số tiết dạy học môn Ngữ Văn
1.4.Phương pháp nghiên cứu: Phân tích, thống kê, phân loại
1.5.Những điểm mới của SKKN
2


- Sáng kiến kinh nghiệm đưa ra những bước cụ thể cho hoạt động đóng
vai để áp dụng vào môn Ngữ văn.
- Phương pháp đóng vai được vận dụng linh hoạt qua nhiều hình thức
khác nhau, không chỉ đóng kịch, hát, múa, hóa trang mà còn dùng để tóm tắt các
tác phẩm văn
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của phương pháp đóng vai trong việc giảng dạy một
số bài học môn Ngữ văn tại trường THPT
Học tập để tham gia là một kỹ năng quan trọng đối với học sinh để học
trong thế giới đa phương hiện nay. Phương pháp đóng vai góp phần nâng cao sự
hiểu biết nhiều hơn và cho phép học sinh phát triển kỹ năng để tham gia vào các
cuộc thảo luận trong môi trường có kiểm soát của lớp học. Theo học giả
Brierley, Devonshire và Hillman, kỹ thuật đóng vai phát triển các chức năng
kiến thức như: "một sự kết hợp của kiến thức mệnh đề (hiểu biết về - nền tảng
kiến thức học thuật), kiến thức về thủ tục (biết làm thế nào - có các kỹ năng)

và kiến thức có điều kiện (biết được tình huống để sử dụng các kỹ năng)"
Phương pháp đóng vai: tổ chức cho học sinh thực hành để trình bày
những suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một vai giả định. Từ đó giúp học sinh
suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách đứng từ chỗ đứng, góc nhìn của
người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em quan sát từ vai
của mình. Đây là hình thức dạy học thu hấp dẫn, thu hút học sinh. Thay vì tiếp
nhận kiến thức một cách khô khan theo lối dạy học truyền thống, với hình thức
sân khấu hóa, các em được trải nghiệm thực tế, được hóa thân vào nhân vật lịch
sử, có cảm xúc và tự cảm nhận về nhân vật, từ đó hiểu và thêm yêu quê hương
đất nước qua từng bài học.
2.2. Thực trạng dạy học môn Ngữ văn hiện nay
Nói đến phương pháp dạy học ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện nay
không thể không nhắc tới các hiện tượng rất phổ biến trong các giờ học văn
khiến học sinh cảm thấy mất hứng thú, một trong những vấn đề đó là:
Dạy học đọc chép trong môn văn trước đây và môn ngữ văn rất phổ biến
ở các trường phổ thông hiện nay. Đọc chép trong giờ chính khóa và trong các lò
luyện thi. Thầy cô đọc trước, học sinh chép sau, hay thầy cô vừa đọc vừa ghi
bảng rồi học sinh chép theo. Đối với các bài khái quát về giai đoạn văn học hay
khái quát về tác gia thầy cô cũng thường tóm tắt rồi đọc cho học sinh chép. Đối
với bài “giảng văn” thầy cô cũng thường nêu “câu hỏi tu từ”, rồi giảng, sau đó
đọc chậm cho học sinh chép các kết luận, nhận định. Trong cách dạy này học
sinh tiếp thu hoàn toàn thụ động, một chiều.
Dạy nhồi nhét: Dạy nhồi nhét cũng là hiện tượng phổ biến do thầy cô sợ
dạy không kĩ, ảnh hưởng đến kết quả làm bài thi của học sinh, cho nên dạy từ a
3


đến z, không lựa chọn trọng tâm, không có thì giờ nêu vấn đề cho học sinh trao
đổi, sợ “cháy” giáo án. Kết quả của lối dạy này cũng là làm cho học sinh tiếp
thu một cách thụ động, một chiều.

Dạy học văn như nhà nghiên cứu văn học: Một hiện tượng thường thấy
là cách giảng văn trên lớp như cách nghiên cứu văn học của các học giả, như
cách học của sinh viên văn học. Đó là cách phân tích sâu về tâm lí, về kĩ thuật
ngôn từ, về phương pháp sáng tác….. Trong khi đố đối với học sinh môn ngữ
văn chỉ cần dạy cho học sinh đọc hiểu, tiếp nhận tác phẩm như một độc giả bình
thường là đủ, nghĩa là chỉ cần nắm bắt đúng ý nghĩa, tư tưởng của tác phẩm, một
vài nét đặc sắc về nghệ thuật đủ để thưởng thức và gây hứng thú.
Học sinh học thụ động, thiếu sáng tạo: Tương ứng với cách dạy họcnhư
trên HS tất nhiên chỉ tiếp thu một cách thụ động mà thôi. Tính chất thụ động thể
hiện ở việc học thiếu hứng thú, học đối phó, và về nhà chỉ còn biết học thuộc để
trả bài và làm bài. Cách học đó tất nhiên cũng không có điều kiện tìm tòi, suy
nghĩ, sáng tạo, cũng không được khuyến khích sáng tạo.
Học sinh không biết tự học: Cách học thụ động chứng tỏ HS không biết tự
học, không có nhu cầu tự tìm hiểu, nghiên cứu, không biết cách chủ động tự đọc
SGK để tìm hiểu kiến thức, không biết cách phân biệt cái chính và cái phụ,
không biết tìm kiến thức trọng tâm để học, không biết từ cái đã biết mà suy ra
cái chưa biết. Nói tóm lại là chưa biết cách tự học.
Học tập thiếu sự hợp tác giữa trò và thầy, giữa trò với trò: Mỗi cá nhân
trong quá trình học tập đều có hạn chế, bởi mỗi người thường chỉ chú ý vào một
số điểm, bỏ qua hoặc không đánh giá hết ý nghĩa của các kiến thức khác. Trong
điều kiện đó, nếu biết cách hợp tác trong học tập, giữa thầy giáo và HS, HS với
HS có thể nhắc nhở nhau, bổ sung cho nhau, làm cho kiến thức được toàn diện
và sâu sắc.
Học thiếu hứng thú, đam mê: Kết quả củ việc học thụ động là học tập
thiếu cảm hứng, thiếu lửa, thiếu niềm ham mê, mà thiếu những động cơ nội tại
ấy việc học tập thường là ít có kết quả.
Chính vì những nguyên nhân trên mà những giá trị tốt đẹp của văn học
đã không được truyền tải hết đến học sinh và tác động đến việc hoàn thiện tâm
hồn của các em.
Như vậy, xét tổng thể, hiện trạng học môn Văn ở nhà trường hiện nay rất

đáng lo ngại và đang mất dần đi giá trị to lớn của môn văn. Phương pháp dạy
học theo lối cung cấp kiến thức áp đặt, HS phải học thuộc kiến giải của thầy.
Đây cũng là phương pháp phản sư phạm, bởi vì bản chất học tập không phải là
tiếp nhận những gì được đưa trực tiếp từ ngoài vào, mà là sự kiến tạo tri thức
mới dựa trên cơ sở nhào nặn các dữ liệu mới và kinh nghiệm đã được tích luỹ.
Học tập thực chất không phải là học thuộc mà là tự biến đổi tri thức của mình
4


trên cơ sở các tác động của bên ngoài và của hoạt động của người học. Do đó
việc áp đặt kiến thức chỉ có tác dụng tạm thời, học xong là quên ngay, không để
lại dấu ấn trong tâm khảm người học, không trở thành kiến thức hữu cơ của một
bộ óc biết suy nghĩ và phát triển. Chúng ta chưa xem học sinh là chủ thể của
hoạt động học văn, chưa trao cho các em tính chủ động trong học tập. Coi học
sinh là chủ thể của hoạt động học tập của mình thì học sinh phải là người chủ thể
trong các hoạt động học tập, là người chủ động kiến tạo các kiến thức của
mình mà giáo viên chỉ là người tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh.
Giáo án của giáo viên phải là kế hoạch hoạt động của học sinh để tự kiến tạo
kiến thức, chứ không phải là giáo án để giáo viên giảng và bình ở trên lớp.
Muốn xác lập hệ thống các phương pháp dạy học ngữ văn trước tiên chúng ta
cần xác định nội dung môn học, xác định các hoạt động cơ bản để đạt được
kết quả của môn học, rồi từ đó mà xác định các phương pháp cụ thể đặc thù
của bộ môn. Phương pháp dạy học ngữ văn phụ thuộc vào đặc trưng của bộ
môn. Hiện nay, có rất nhiều phương pháp dạy học tích cực áp dụng môn Ngữ
văn nhưng 1 trong những phương pháp có thể vận dụng linh hoạt vào môn
Ngữ văn là: phương pháp đóng vai.
2.3. Các giải pháp đã thực hiện
Bên cạnh những phương pháp dạy học theo đặc trưng của bộ môn Ngữ
văn, việc phát huy các phương pháp dạy học tích cực cũng góp phần vào việc
đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiệu quả, đồng thời khơi dậy niềm

hứng thú, yêu thích môn học..Có nhiều phương pháp dạy học tích cực mà GV có
thể sử dụng như: Thảo luận nhóm; Đóng vai; Nghiên cứu tình huống; Dự án;
Động não; Đặt và giải quyết vấn đề….Phương pháp đóng vai được thực hiện từ
lâu ở nhiều môn học, tiêu biểu như môn giáo dục công dân hay lịch sử. Tuy
nhiên ở những nghiên cứu trước đây, chưa đưa ra các bước cụ thể hay yêu cầu
cho phương pháp đóng vai. Hình thức đóng vai cũng không đa dạng, còn hạn
chế. Ngoài ra, việc áp dụng còn mang tính đối phó.
2.4. Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Những ưu điểm của sáng kiến kinh nghiệm
Qua quá trình vận dụng phương pháp đóng vai vào dạy học môn Ngữ
văn, chúng tôi nhận thấy được những tín hiệu tích cực từ phía học sinh:
- Học sinh được đồng sáng tạo với các tác giả, có cơ hội trải nghiệm
những cảm xúc, suy nghĩ, quan điểm, lối sống của các nhân vật. Từ đó có cái
nhìn toàn diện, sâu sắc, mới mẻ hơn về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ
thuật của tác phẩm. Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo
hướng tích cực. Học sinh qua việc trải nghiệm sẽ rút ra những thông điệp va
giá trị sống có ý nghĩa.
5


- Học sinh được quyền nêu cảm xúc, bày tỏ thái độ, quan điểm riêng của
bản thân từ góc nhìn của người trẻ ở thời hiện đại.
- Học sinh có cơ hội khai phá và phát huy những năng khiếu mà có thể
bản thân chưa hiểu hết: viết kịch bản, đạo diễn, diễn xuất, thiết kế trang phục,
đạo cụ; góp phần hình thành một số năng lực cho học sinh: hợp tác, sáng tạo,
cảm thụ thẩm mĩ, sử dụng tiếng Việt… Khi cùng nhau luyện tập, biểu diễn là
kiến thức trong nội dung bài học và cả những kiến thức ngoài bài học đã ăn sâu
vào tiềm thức của học sinh. Đó không chỉ là quá trình trau dồi kiến thức mà còn
viết nên những kỷ niệm đẹp của tuổi học trò, là rèn kỹ năng làm việc nhóm rất
hiệu quả cho mỗi học sinh.

- Tạo không khí sôi nổi, sự hứng thú trong các tiết học.
- Đây là phương pháp có thể vận dụng các hình thức đa dạng gồm: múa,
hát, kịch, diễn xướng, hài kịch,...miễn sao nói lên được các nội dung liên quan
đến di sản mà nhóm mình tìm hiểu.
- Trong tiết học được sân khấu hóa, vai trò của giáo viên sẽ là ban giám
khảo, nhận xét đánh giá kết quả tìm hiểu và nghiên cứu của các em, động viên
khuyến khích tinh thần tự học sáng tạo của các em, đồng thời giáo viên có thể bổ
sung thêm các kiến thức và chỉnh sửa các phần còn thiếu sót, giúp các em thu
nạp tối đa phần kiến thức cần thiết.
- Đóng vai tạo ra một môi trường kích thích, mô phỏng thực tế cho phép
học sinh tăng cường sự hiểu biết về tình huống hoặc sự kiện đã được tái hiện của
họ. Học sinh có được một cái nhìn sâu hơn vào khái niệm then chốt bằng việc
diễn xuất các vấn đề thảo luận ở lớp học.
- Kỹ thuật đóng vai trò cho phép học sinh áp dụng các khái niệm và các
vấn đề đã được giới thiệu thông qua các bài giảng và bài đọc vào một tình huống
phản ánh thực tế. Khi học sinh được hoạt động trực tiếp trong suốt hoạt động
đóng vai thì thực sự hiệu quả hơn "gắn khái niệm" vào bộ nhớ dài hạn của họ
2.4.2. Các bước tiến hành phương pháp đóng vai
Bước 1: Xác định chủ đề
Đây là bước quan trọng nhất. Chủ đề phải nằm trong nội dung mà học
sinh đã được học tập. Không thể thực hiện đóng vai với chủ đề mà học sinh
chưa được học hoặc chưa có tài liệu, thời gian để tự học. Chủ đề phải có thể
thực hiện được bằng phương pháp đóng vai. Chủ đề phát huy được ưu thế của
phương pháp đóng vai là những chủ đề thể hiện được kỹ năng giao tiếp, thái độ,
cách ứng xử giải quyết vấn đề. Các tác phẩm văn chương trong nhà trường luôn
theo những chủ đề nhất định nên thuận lợi cho quá trình phân vai. Ví dụ như:
chủ đề số phận người nông dân trước cách mang tháng 8 hay số phận người phụ
nữ sau năm 1975…
Bước 2: Lập kế hoạch về việc đóng vai.
6



- Xác định chủ đề: Dựa theo chủ đề để xây dựng mục tiêu học tập; mục
tiêu phải phù hợp với mục tiêu bài giảng nhưng phải cụ thể, bổ sung thêm cho
mục tiêu bài giảng. Xây dựng tình huống và vai đóng: tình huống phải rất cụ thể;
vai đóng càng cụ thể bao nhiêu càng tốt. Các dữ liệu không phải tùy tiện đặt ra
mà cần suy nghĩ, cân nhắc để thể hiện tốt mục tiêu học tập; nêu lên được nhiều
vấn đề, khía cạnh để học tập. Nêu trọng tâm về kiến thức, năng lực giải quyết
vấn đề; nêu trọng tâm về kỹ năng giao tiếp, thái độ.
- Giao nhiệm vụ cho các vai, cho người quan sát:
+ Vai đóng phải cụ thể theo đúng mục tiêu học tập (người đóng vai
"chính", người đóng vai "phụ" phải thực hiện nhiệm vụ, công việc, động tác gì...
trong các tình huống trên).
+ Người quan sát (các người học khác) được phân thành nhóm nhỏ (vài
người). Mỗi nhóm được giao các nhiệm vụ cụ thể như: nhóm theo dõi nhận xét
vai "chính"; nhóm theo dõi nhận xét vai "phụ"; các nhóm theo dõi về kỹ năng
giao tiếp, thái độ, kiến thức, năng lực giải quyết vấn đề...
Bước 3: Xác định thời gian đóng vai
- Không nên quá ngắn (ít hơn 15 phút) và sẽ hạn chế trong việc thể hiện
được mục tiêu học tập; chưa đủ để bộc lộ các ưu, nhược điểm. Cũng không nên
quá dài vì sẽ loãng, thiếu tập trung. Lưu ý: cần dự kiến thời gian thảo luận ngay
sau buổi đóng vai. Thời gian thảo luận phải đủ để mọi người phát biểu, có thể
nêu lên được đầy đủ các nhận xét, rút kinh nghiệm, đánh giá...
- Để xác định thời gian đóng vai, có thể tham khảo ý kiến những người sẽ
thực hiện vai đóng (họ sẽ đề xuất sau khi đã trao đổi, hội ý với nhau về dự kiến
nội dung dựa theo nhiệm vụ được giao).
Bước 4: Thực hiện đóng vai
a. Chuẩn bị, tạo không khí thuận lợi
- Kê xếp lại bàn ghế cho thích hợp . Bàn ghế ngồi của vai đóng được kê ở
giữa để mọi người quan sát thuận tiện.

- Bàn ghế của người quan sát (cử tọa) kê chung quanh sao cho thích hợp
với nhiệm vụ được giao (thí dụ: nhóm theo dõi vai "chính", vai "phụ" ngồi đối
diện với các vai đóng để quan sát được tốt).
- Giáo viên cũng có một chỗ ngồi thích hợp để theo dõi được diễn biến
chung, không làm ảnh hưởng đến các vai đóng.
- Tạo không khí thoải mái
- Trật tự, tập trung
b. Thực hiện đóng vai
- Vai đóng không cần thực hiện các kỹ xảo biểu diễn như trong đóng kịch,
dễ gây mất tập trung, chú ý vào lời thoại, hành động.
7


- Cần bám sát mục tiêu học tập, nhiệm vụ được giao trong đóng vai, có ý
thức cộng tác, hỗ trợ cho đóng vai.
Bước 5: Thảo luận sau đóng vai
Thảo luận sau đóng vai là rất quan trọng, đó là nội dung cơ bản của giảng
dạy bằng phương pháp đóng vai.
- Thực hiện thảo luận ngay sau khi đóng vai để người học còn lưu giữ
được các nhận xét, quan sát qua thực tế buổi đóng vai.
- Giảng viên điều khiển thảo luận sau đóng vai. Qua các vai đóng, người
học nhận xét, thảo luận:
+ Về kỹ năng giao tiếp: Có trình bày, giải thích rõ ràng, dễ hiểu
không? Các ngôn từ sử dụng có phù hợp cho vai "chính", "phụ"... không? Trong
sử dụng ngôn từ cần lưu ý tránh việc trình bày như sách vở; dùng các ngôn từ
khoa học khó hiểu, khó tiếp thu...
+ Về thái độ, phong cách: Việc chào hỏi, cách xưng hô trong giao tiếp..?
Có thực sự tôn trọng, chú ý lắng nghe, giải đáp đúng yêu cầu của các vai đóng?
+ Về kiến thức: Cách giải thích, hướng dẫn có đúng không? Các biện
pháp giải quyết nêu ra có phù hợp với lý thuyết, với nguyên tắc chung không?

+ Về việc rút kinh nghiệm qua đóng vai: Cần bố trí, động viên để mọi
người đều có thể phát biểu thoải mái. Khi có những nhận xét chưa đúng, chưa
rõ, nên tiến hành trao đổi để có thể đi đến kết luận. Nếu nảy sinh những vấn đề
cơ bản chưa thống nhất có thể để lại, tổ chức một buổi thảo luận nhóm riêng.
2.4.3. Vận dụng cụ thể
Vận dụng phương pháp đóng vai trong tóm tắt và hóa trang tại lớp
tác phẩm “Người trong bao” tại trường THPT Trường Thi
Tóm tắt tác phẩm là hoạt động học không thể thiếu trong mỗi tác phẩm
văn xuôi. Qua việc tóm tắt tác phẩm, học sinh khắc sâu về kiến thức và tạo sự
hứng thú, sôi nổi trong quá trình học. Dưới đây là các bước tiến hành phương
pháp đóng vai tóm tắt tác phẩm “Người trong bao” (Shekhop) – Ngữ văn lớp 11:
Bước
Bước 1
Bước 2

Bước 3

Mục tiêu
Xác định
chủ đề
Lập kế
hoạch về
việc đóng
vai
Xác định
thời gian

Nội dung
Cảm nhận về kiểu người kì quái, lập dị.
- Nhóm 1: Đóng vai tóm tắt tác phâm

“Người trong bao” ( 4 học sinh)
- Nhóm 2: Hóa trang thành Bê – li – cốp
( 4 bạn)
- Học sinh ở lớp: người quan sát
- Nhóm 1: Thời gian chủ động
- Nhóm 2: 5-7 phút
8


Bước 4
Bước 5

đóng vai
Thực hiện
đóng vai
Nhận xét
chung về
buổi đóng
vai

- Chuẩn bị: kê bàn ghế
- Thực hiện đóng vai
- Sau khi các nhóm trình bày sản phẩm, GV
bộ môn định hướng HS thảo luận một số vấn
đề tại lớp:
+ Nêu đặc điêm về ngoại hình, tính cách của Bê
– li – cốp?
+ Ý nghĩ phê phán từ hình tượng nhân vật?
- GV nhận xét về buổi đóng vai tại lớp:
+ Nhận xét ưu điểm

+ Hạn chế cần khắc phục

Học sinh thực hiện:

Bê – li – cốp là giáo viên dạy tiếng Hy
Lạp. Hắn luôn ca ngợi quá khứ, sống
theo các chỉ thị thông tư

Bê – li- cốp phải lòng cô giáo Va –
ren – ca, hắn đến nhà gặp em trai cô

Bê – li – cốp thống trị trường học
trong thời gian dài, ai cũng sợ
hắn.

Hắn cho rằng phụ nữ không được đi
xe đạp

9


Hay như việc Varenco vừa đi vừa
đọc sách

Varenco nắm cổ áo hắn và đe dọa

Bê – li – cốp ngã sõng xoài ra cầu
thang

Đúng lúc đó Varenca về, cô cười

“Ha ha ha” vang khắp nhà

Beelicop lo sợ mọi người sẽ biết
chuyện mình bị ngã, hắn rầu rĩ trốn
trong phòng.

Đúng 2 tháng sau hắn chết. Ban đầu
mọi người nhẹ nhõm nhưng sau đó
mọi chuyện lại trở về như cũ.

a. Hóa trang tại lớp

10


Học sinh chuẩn bị hóa trang

Giáo viên giới thiệu về hoạt động đóng vai

Học sinh tham gia đóng vai nhân vật Bê – li – cốp
Vận dụng phương pháp đóng vai khi thực hiện trải nghiệm sáng tạo
môn Ngữ văn “Sắc màu dân gian” tại trường THPT Trường Thi
Trong năm học 2018-2019, nhóm Ngữ văn đã vận dụng phương pháp
đóng vai trong chương trình ngoại khóa “Sắc màu văn học dân gian”. Thông qua
các hoạt động dạy học trên lớp cũng như ngoại khóa, với phương pháp đóng vai,
nhóm Ngữ văn đã giáo dục học sinh về các giá trị sống quan trọng như niềm tự
hào về đất nước, tình yêu thiên nhiên, quan điểm sống đúng mực...Dưới đây là
11



các bước thực hiện khi áp dụng phương pháp đóng vai trong hoạt động trải
nghiệm sáng tạo:
Bước
Mục tiêu
Nội dung
Bước 1
Xác
định Cảm nhận về sự đa dạng của các thể loại văn học
chủ đề
dân gian và vẻ đẹp tâm hồn người dân lao động.
Bước 2
Lập
kế
- Khối 10: Đóng 1 truyện cười “Thầy bói
hoạch
về
xem voi” trong kho tàng truyện cười dân gian
việc
đóng
Việt Nam.
vai
- Khối 11 : Diễn xướng 1 trong các thể loại
ca dao – dân ca, sử thi, hoặc sân khấu dân gian
như chèo, tuồng…
- Khối 12 : Đóng vai 1 cảnh tiêu biểu trong
vở chèo “Quan âm thị kính”
Bước 3
Xác
định - Thời gian tập: 10 ngày
thời

gian - Khối 10: 25 phút
đóng vai
- Khối 11: 5 phút
- Khối 12: 20 phút
Bước 4
Thực hiện - Chuẩn bị: sân khấu
đóng vai
- Thực hiện đóng vai
Bước 5
Thảo
luận - Sau khi các nhóm trình bày sản phẩm, GV bộ môn
sau đóng vai định hướng HS thảo luận một số vấn đề tại lớp
- Khái quát một số đặc trưng của truyện cười và
ca dao – dân ca từ các sản phẩm diễn xướng:
+ Đối tượng, nội dung, tình huống gây cười.
Tiếng cười trong tiểu phẩm mang lại ý nghĩa gì?
+ Phần diễn xướng ca dao, chèo phản ánh những
nội dung nào? Hình thức diễn xướng có gì đặc
biệt? Từ đó rút ra vẻ đẹp tâm hồn của người dân
lao động
- GV nhận xét về buổi đóng vai tại lớp:
+ Nhận xét ưu điểm
+ Hạn chế cần khắc phục
Học sinh thực hiện:

12


Học sinh khối 10 – THPT Trường Thi tham gia đóng vai diễn vở kịch
“Thầy bói xem voi”


Học sinh khối 12 diễn một trích đoạn trong vở “Quan âm thị Kính”

13


Đại diện khối 10 thể hiện ca khúc “Bèo dạt mây trôi”
mang âm hưởng dân ca.
Ngoài ra những bài học nêu trên, phương pháp đóng vai còn có thể áp
dụng ở một số bài học như:
- Vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học: Vào vai nhân vật Mị
Châu kể lại Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, vao vai nhân
vật Tấm kể lại truyện cổ tích Tấm Cám…
- Chuyển thể một văn bản thành một kịch bản sân khấu: Chuyển thể kịch
bản Vợ nhặt (Kim Lân), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng), Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)…
thành kịch bản sân khấu và cho học sinh thảo luận về một số vấn đề trọng tâm
được đặt ra. Từ đó học sinh hình thành được các kiến thức, kĩ năng và năng lực
quan trọng qua bài học.
- Xử lý một tình huống giao tiếp giả định: Nội dung này thường được áp
dụng trong phân môn Tiếng Việt, tạo một cuộc giao tiếp khi học bài Đặc điểm
ngôn ngữ nói và viết, Ngữ cảnh, Thực hành về hàm ý…Ví dụ khi học bài Thực
hành về hàm ý, học sinh có thể hoạt động theo nhóm hoặc cặp đôi tạo nên những
tình huống có sử dụng ham ý. Học sinh được dành thời gian chuẩn bị nhưng
không được biết trước kịch bản, lời thoại. Sau đó, đại diện một vài nhóm lên
trình bày. Các học sinh còn lại xác định hàm ý của cuộc hội thoại, đánh giá mức
độ thú vị, hấp dẫn, chính xác.
- Trình bày một vấn đề, một ý kiến từ các góc nhìn khác nhau: Đây là cơ
hội học sinh được bày tỏ quan điểm riêng của bản thân một cách sáng tạo thông
qua các vai diễn khi nhập vai các phiên tòa giả định trong các văn bản Truyện
An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng

Đài, thay lời Thúy Vân tâm sự với Thúy Kiều khi học đoạn trích Trao duyên…
tưởng tượng ra một cái kết khác cho truyện Chí Phèo hay Tấm Cám…Học sinh
có thể vào vai phóng viên, luật sư, thẩm phán, bị cáo…để nêu lên quan điểm
riêng về vấn đề đặt ra trong bài học.
Sau quá trình vận dụng phương pháp đóng vai, giáo viên tiến hành khảo sát
học sinh tại một số lớp 10K1, 10A2 và 11B1 (76 học sinh) với nội dung các câu
hỏi sau:
1. Em có hứng thú với việc được đóng vai trong các tác phẩm văn học
không?
a. Hào hứng, muốn tham gia
b. Không muốn tham gia lần nữa
2. Hoạt động đóng vai giúp các em cảm nhận như thể nào về các tác phẩm
văn học?
a. Sâu sắc, mới mẻ
14


b. Bình thường
3. Em có muốn môn văn tiếp tục sử dụng phương pháp đóng vai trong quá
trình học không?
a. Có
b. Không

Câu hỏi
1
2
3

a
74/76

73/76
74/76

b
2/76
3/76
2/76

4. Kết luận
Học tập là quá trình mà nhờ đó kiến thức được tạo ra thông qua sự biến
đổi của kinh nghiệm. Kinh nghiệm sẽ được tích lũy qua quá trình học sinh vận
dụng phương pháp sân khấu hóa và đóng vai, phương pháp này đã tạo ra một
môi trường kích thích, mô phỏng thực tế cho phép học sinh tăng cường sự hiểu
biết về tình huống được tái hiện. Học sinh có được cái nhìn sâu hơn vào khái
niệm, nội dung bài học then chốt bằng việc diễn xuất. Ngoài ra, phương pháp
sân khấu hóa và đóng vai khiến cho tác phẩm thật sự gần gũi với học sinh, tác
phẩm hay nhân vật văn học không con là những con chữ trên trang giấy mà
đứng dậy bước ra ngoài với những thông điệp, tư tưởng sống động như hơi thở,
như cuộc đời. Qua quá trình áp dụng phương pháp tại trường THPT Trường Thi
tôi thu được kết quả như sau:
- Học sinh hào hứng, tham gia tích cực, chủ động, sáng tạo phương pháp
đóng vai
- Học sinh cảm nhận về tác phẩm toàn diện, sâu sắc, mới mẻ hơn về nội
dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm.

15


XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Thanh hóa, ngày tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác
NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

Tài liệu tham khảo
1. TS Lê Văn Hảo, Sổ tay phương pháp giảng dạy và đánh giá, nxb
Giáo dục, 2011
2. TS Trần Thanh Bình, Dạy học tích hợp môn Ngữ Văn, Nxb giáo
dục TP Hồ Chí Minh, 2017
3. Gielle O.Martin – Kniep (2011), Tám đổi mới để trở thành giáo
viên giỏi, Nxb Giáo dục Việt Nam.

16


17



×