Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

SKKN tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua biện pháp sân khấu hoá một số tác phẩm, trích đoạn văn học dân gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.36 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT CẦM BÁ THƯỚC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI
TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH THÔNG
QUA BIỆN PHÁP SÂN KHẤU HOÁ MỘT SỐ TÁC
PHẨM, TRÍCH ĐOẠN VĂN HỌC DÂN GIAN.

Người thực hiện: Lê Thị Tuyết
Đơn vị: tổ Ngữ Văn

Năm học 2018 - 2019


MỤC LỤ

1. PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................2
1.1. Lí do chọn đề tài.........................................................................................2
1.2. Mục đích nghiên cứu..................................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................3
1.4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................3
2. PHẦN NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM........................3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm...................................................3
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm..............3
2.2.1. Thuận lợi.................................................................................................3
2.2.2. Khó khăn.................................................................................................3
2.3. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề........................................3
2.3.1. Định hướng chung...................................................................................3


2.3.2. Xây dựng kịch bản..................................................................................3
2.3.2.1. Sân khấu hóa Truyện cố tích Tấm Cám...............................................3
2.3.2.2. Sân khấu hóa trích đoạn Mẹ Đốp - Lý trưởng..……………………….3
2.3.2.3.Sân khấu hóa truyện cười Tam đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai
mày……………………………………………………………………………..3
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, với đồng nghiệp và nhà trường ................................................................3
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.....................................................................3
3.1. Kết luận......................................................................................................3
2
3.2. Kiến nghị....................................................................................................3
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................3


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Văn học dân gian cùng với văn học viết là hai bộ phận hợp thành nền văn
học Việt Nam. Văn học dân gian có những giá trị cơ bản là: kho tri thức
phong phú về đời sống các dân tộc; giáo dục sâu sắc đạo lí làm người; có giá
trị thẩm mĩ to lớn. Việc giảng dạy văn học dân gian trong chương trình môn
Ngữ Văn các cấp học là cần thiết. Riêng môn Ngữ Văn lớp 10, phần văn học
dân gian được giảng dạy khá nhiều tiết, tạo thành một mảng kiến thức quan
trọng trong chương trình.
V
ăn học dân gian mang tính nguyên hợp, là một bộ phận của văn hóa dân gian.
Đặc trưng này khiến văn học dân gian là một phần không thể tách rời với văn
hóa dân gian. Vì thế, để hiểu văn học dân gian, không thể không đặt nó trong
mối quan hệ với văn hóa dân gian.
H
ơn nữa, văn học dân gian còn có các đặc trưng cơ bản là tính tập thể, tính truyền

miệng, tính diễn xướng. Nếu chỉ cung cấp kiến thức thì phần nào làm mất đi đặc
trưng thể loại cũng như sự hứng thú của học sinh với văn học dân gian.
X
uất phát từ đặc trưng thể loại và thực tế ở trường Trung học phổ thông Cầm Bá
Thước, nơi tôi đang công tác, tôi chọn đề tài “Tạo hứng thú học tập cho học
sinh thông qua biện pháp sân khấu hóa mốt số tác phẩm, trích đoạn văn học
dân gian”
1.2. Mục đích nghiên cứu
3
hứ nhất, giúp học sinh biết đọc - hiểu văn bản văn học dân gian gắn với đặc
trưng thể loại.

T


T
hứ hai, khơi gợi ở học sinh sự yêu thích và hứng thú với bộ môn Ngữ Văn.
T
hứ ba, giáo dục học sinh ý thức trân trọng, giữ gìn và phát huy truyền thống
văn hóa dân tộc như đại hội Đảng đã đề ra “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.

1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đ
ề tài “Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua biện pháp sân khấu hóa
mốt số tác phẩm, trích đoạn văn học dân gian” là một phần trong
chuyên đề ngoại khóa văn học “Về với nguồn cội” của tổ Ngữ Văn năm học
2017 -2018. Sân khấu hóa văn học dân gian tức là chuyển tải các văn bản văn
học dân gian thành các hình thức nghệ thuật như kịch, nhảy, múa, hát…
1.4. Phương pháp nghiên cứu

K
hi thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp dùng số liệu: Khảo sát sự yêu thích văn học dân gian của học
sinh.
Phương pháp hướng dẫn: Giáo viên hướng dẫn rồi giao nhiệm vụ cho học
sinh xây dựng văn bản văn học thành kịch bản.
Phương pháp liên ngành: Vận
4 dụng kiến thức liên ngành để sân khấu hóa văn
bản văn học bằng các hình thức như nhảy, múa, hát, kịch…
2. PHẦN NỘI DUNG


2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Văn học dân gian là sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng của nhân
dân ra đời từ thời công xã nguyên thủy, phát triển qua các thời kỳ lịch sử cho
tới ngày nay.
Ngôn từ truyền miệng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nội dung,
ý nghĩa và thế giới nghệ thuật của văn bản văn học dân gian nhằm phản ánh
sinh động hiện thực đời sống.
Văn học dân gian tồn tại và lưu hành theo phương thức truyền miệng.
Đây là điểm khác biệt giữa văn học dân gian và văn học viết. Nói truyền
miệng là nói đến quá trình diễn xướng dân gian hào hứng và sinh động.
Người ta có thể kể, nói, diễn, hát văn bản văn học dân gian. Phần lời - tức là
phần ngôn từ ở một số thể loại có thể kết hợp với các loại hình nghệ thuật
khác (lời thơ trong ca dao thường được hát theo làn điệu; một vở chèo khi
được trình diễn bao gồm cả lời, nhạc, múa và diễn xuất của các nghệ nhân).
Văn học viết là sáng tác của cá nhân, trong khi đó văn học dân gian là kết
quả của sáng tác tập thể. Tính truyền miệng và tính tập thể chi phối, xuyên
suốt quá trình sáng tạo và lưu truyền tác phẩm, thể hiện sự gắn bó mật thiết
của văn học dân gian với các sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng.

Phần lớn tác phẩm văn học dân gian được ra đời, truyền tụng và phục vụ trực
tiếp cho sinh hoạt cộng đồng.
Có thể nói sinh hoạt cộng đồng là môi trường sinh thành, lưu truyền, biến
đổi của văn học dân gian, nó chi phối cả nội dung và hình thức tác phẩm. Tồn
tại bằng diễn xướng là dạng tồn tại cần thiết của văn học dân gian. Chính
trong biểu diễn, các phương tiện nghệ thuật của tác phẩm văn học dân gian
mới có điều kiện kết hợp với nhau tạo nên hiệu quả thẩm mỹ tổng hợp. “Việc
dạy văn học dân gian trong nhà trường được đặt trong tổng thể văn hóa dân
5
gian (mối liên quan chặt chẽ giữa đời sống thực tiễn và các yếu tố văn hóa
khác ngoài yếu tố ngôn từ như âm nhạc, nhảy, múa, diễn xướng…) nhằm đem
đến một hiệu quả mới trong giảng dạy, học tập”.


(PGS. TS Nguyễn Thị Huế - Mấy vấn đề nghiên cứu văn học dân gian gần
đây)
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thuận lợi
Sân khấu hóa văn học dân gian là việc làm thiết thực và cần thiết vì nó phù
hợp với đặc trưng thể loại văn học.
Đề tài “Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua biện pháp sân khấu
hóa mốt số tác phẩm, trích đoạn văn học dân gian” là một phần của chuyên
đề ngoại khóa văn học của tổ Ngữ văn nên có sự hỗ trợ nhất định của Đoàn
thanh niên và Ban giám hiệu nhà trường và đặc biệt là sự nhiệt tình của các
giáo viên trong tổ.
Sân khấu hóa văn học dân gian là sân chơi bổ ích mà ở đó giáo viên và
học sinh thêm gần gũi và thân thiện.
Sân khấu hóa văn học dân gian giúp học sinh hiểu rõ thêm đặc trưng, vị trí, vai
trò, giá trị của Văn học dân gian với đời sống văn hóa dân tộc.
Qua đề tài giúp học sinh có thái độ đúng mực đối với di sản văn hóa tinh thần

của dân tộc, từ đó thêm yêu văn học dân gian Việt Nam.
2.2.2. Khó khăn
Để sân khấu hóa một tác phẩm
văn học thành công ngoài sự chuẩn bị chu đáo
6
của giáo viên thì rất cần sự hợp tác nhiệt tình của các em học sinh.


Học sinh còn lúng túng trong việc chuyển tải tác phẩm thành kịch bản.
Đặc biệt nhiều học sinh còn hờ hững với môn Ngữ Văn.
- Qua khảo sát thực tế các lớp 10C1; 10C2, 10B1 ở trường THPT Cầm Bá
Thước năm học 2017 - 2018 khi chưa áp dụng đề tài này, kết quả khảo sát học
sinh hiểu và yêu thích văn học dân gian theo số liệu thống kê theo các mức
như sau:
Phân loại

Giỏi/ Khá

Trung bình

Yếu/ Kém

Số lượng

%

Số lượng

%


Số lượng

%

10C1 = 40

05

12,5 %

30

75 %

05

12,5%

10C2 = 42

03

7,15 %

32

76.19%

07


16,66%

10B1 = 45

04

8.89%

34

75.56%

07

15.55%

Lớp

2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề
2.3.1. Định hướng chung
Sân khấu hóa tác phẩm văn học dân gian tức là chuyển tải các văn bản văn
học thành các hình thức nghệ thuật như kịch, múa, hát…
Sân khấu hóa văn bản văn học dân gian nhưng vẫn đảm bảo tính chân,
thiện, mĩ mà nhân dân gửi gắm trong tác phẩm.
7
Thời gian biểu diễn trên sân khấu của mỗi kịch bản khoảng 15 phút.
Giao nhiệm vụ cụ thể để học sinh chuẩn bị trước như sau: lớp 10C1 sân khấu



hóa phần một truyện cổ tích Tấm Cám (tức là khi Tấm còn sống chung với dì
ghẻ và Cám); 10C2 sân khấu hóa trích đoạn Mẹ Đốp - Lý trưởng (Trích trong
vở chèo Quan Âm Thị Kính); Lớp 10B1 sân khấu hoá truyện cười Tam
đại con gà và Nhưng nó phải bằng hai mày.
2.3.2. Xây dựng kịch bản
2.3.2.1. Sân khấu hóa Truyện cố tích Tấm Cám
a. Hệ thống nhân vật tham gia diễn xuất
Hoàng Long trong vai người dẫn chuyện.
Tuấn Anh trong vai nhà Vua.
Đinh Mai trong vai Cám.
Văn Hiếu trong vai Ông Bụt.
Ngọc Linh trong vai cô Tấm.
Thùy Linh trong vai Mẹ Cám.
Trần Đông, Lê Trung trong vai quân lính.
Vân, Hoa, Thùy Linh, Ngọc: nhóm múa.
b. Kịch bản và quá trình thực hiện
8
N
gười dẫn chuyện: Ngày xưa, có Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác
mẹ. Mẹ đẻ Tấm đã mất, Tấm ở với dì là mẹ của Cám. Dì rất cay nghiệt. Hàng


ngày Tấm phải làm lụng vất vả từ sáng đến tối, trong khi đó Cám được mẹ
nuông chiều, ăn trắng mặc trơn.
N
gày qua ngày, Tấm bị dì bắt nạt, chửi mắng. Nhưng Tấm luôn cam chịu,
ngoan ngoãn nghe lời, làm tốt mọi việc mà dì yêu cầu.
(
Dì và Cám ra sân khấu. Dì gọi Tấm).
D

ì ghẻ: Tấm. Tấm đâu? Tấm.
(
Tấm vừa ra vừa thưa).
T
ấm: Dạ dạ, con đây ạ!
D
ì ghẻ: Mấy giờ rồi mà chưa cho tôi ăn cơm hả?
T
ấm: Dạ, con dọn cơm ngay ạ!
N
gười dẫn chuyện: Tấm dọn cơm ra cho dì và Cám. Trong khi mẹ con Cám
ngồi nói chuyện với nhau, Tấm lén đưa cơm ra cho ra bống).
T
ấm: (Tấm gọi cá bống).
(
Nhạc…) “Bống bống bang bang, lên ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta, chớ ăn
cơm hẩm, cháo hoa nhà người”.
9


N
gười dẫn chuyện: Tấm gọi cá bống, mẹ con Cám rình nghe lén. Thế rồi nảy
sinh âm mưu bắt bống.
D
ì ghẻ: Tấm, mai con đi chăn trâu đồng xa nghe con. Chăn trâu đồng nhà làng
bắt trâu đấy con à!
T
ấm: Dạ! Vâng ạ!
N
gười dẫn chuyện: Sáng hôm sau Tấm đi chăn trâu thật xa. Ở nhà mẹ con

Cám tìm cách bắt bống rồi ăn thịt. Chiều Tấm dắt trâu về, nấu cơm nước
xong, Tấm lại lén mang cơm ra và gọi bống nhưng gọi mãi…gọi mãi không
thấy bống đâu.
T
ấm: Oà lên khóc.
(
Bụt ra sân khấu).
B
ụt: Làm sao con khóc?
(
Tấm kể lại sự việc cho bụt nghe…)
B
ụt: Thôi được rồi, con nín đi, con đi vào trong tìm lấy xương cá bống, bỏ vào
bốn cái lọ, rồi chôn vào bốn chân giường con nằm. Nói rồi Bụt biến mất.
10
gười dẫn chuyện: Tấm làm theo lời Bụt dặn. Tìm lấy xương cá bống, bỏ
vào bốn cái lọ, rồi chôn vào bốn chân giường. Ba ngày sau nhà Vua mở hội).

N


C
ám: Mẹ ơi, mẹ ơi… con thấy, hình như chị Tấm cũng muốn đi xem lễ hội đấy
mẹ!
D
ì ghẻ: Cái gì? Cái gì?. (la lớn) Tấm…
T
ấm: Dạ dạ! Con đây dì!
D
ì ghẻ: Mày muốn đi xem lễ hội à?

T
ấm: (Ngập ngừng, khúm núm, sợ hãi). Dạ thưa dì…con chỉ…!
D
ì ghẻ: Mày giặt đồ, rửa chén, nấu cơm, thái rau heo, quét nhà chưa hả?
T
ấm: Dạ, con làm xong hết rồi ạ!
C
ám và Dì: (cười mỉa mai) ha…ha…ha. Muốn đi xem hội à. Mày nghĩ mày
cũng được đi xem hội ư?. Cám! Vào lấy gạo và thóc ra đây.
C
ám: Làm gì hả mẹ? Để con đem ra ngay ạ.
(
Cám vào lấy thóc và gaọ ra. Rồi dì ghẻ trộn thóc gạo lẫn lộn).
D
ì ghẻ: Tấm, mày nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, xong rồi đi đâu hãy đi.
11
ấm: Tấm ngồi xuống nhặt thóc, khóc thút thít.

T


(
Bụt xuất hiện)
B
ụt: Làm sao con khóc?
T
ấm: (nức nở) dạ… dạ… con…
(
Tấm kể lại sự tình cho bụt nghe).
B

ụt: Con đừng khóc nữa. Để ta giúp con.
(
Âm nhạc…Bụt liền cho đàn chim sẻ xuống nhăt thóc. Chỉ một lát thóc đã ra
thóc, gạo đã ra gạo).
N
gười dẫn chuyện: Gạo và thóc đã được nhặt xong nhưng Tấm vẫn khóc vì
không có quần áo đẹp đi hội. Bụt giúp Tấm. Tấm làm theo lời bụt và ngay lập
tức đã có quần áo, hài và cả một con ngựa rất đẹp. Tấm liền đến kinh đô dự
hội. Nhưng trên đường đi Tấm đánh rơi chiếc hài. Đoàn xe nhà Vua đi sau,
nhà vua đã nhặt được chiếc hài ấy. Chiếc hài rất xinh. Vua liền mở hội thử
hài để kén vợ. Các cô gái lần lượt vào thử hài).
(
Lính ra sân khấu).
L
ính 2: Thử hài đi, thử hài đi…
12
ì ghẻ: (Háo hức). Ui da …ui da, sắp vừa rồi…

D


L
ính 2: Đi ra đi ra, rách hài bây giờ, vừa đâu mà vừa chân to quá.
L
ính 2: Người tiếp theo.
C
ám: Tới tui, tới tui… hè hè, vừa rồi nè…(Dì ghẻ: vừa rồi vừa rồi, hài này là
của con tui mà…).
L
ính 2: Qúa rộng, vừa gì mà vừa…

(
Mẹ con Cám tức tưởi lườm nguýt rồi đi ra).
L
ính 2: Người tiếp theo…
T
ấm: Ôi, chiếc hài của mình sao lại ở đây (chạy lại mang vào)
(
Lúc Tấm thử hài, dì ghẻ bĩu môi khinh bỉ: Chuông khánh còn chẳng ăn ai;
Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre).
(
Vua xuất hiện).
V
ua: Cô này đi hài rất vừa và đẹp. Đẹp thật!
(
Vua mừng rỡ và nói với Lính 2 cho dừng hội. Nhà Vua vui mừng thông báo).
13
ôi thấy cô gái kia đã đi vừa chiếc hài. Tôi phong cô ấy làm hoàng hậu. Làm lễ
rước cô gái ấy về cung.

T


(
Tất cả cùng rước Tấm về cung. Vào sân khấu)
N
gười dẫn chuyện: Từ đó nhà Vua và Tấm sống hạnh phúc bên nhau. Vua yêu
thương và chiều chuộng nâng niu Tấm hết mực. Tấm lên ngôi hoàng hậu, hạ
chỉ bắt giam mẹ con Cám nhốt trong vườn thượng uyển. Ngày ngày phải
trồng rau,chăn nuôi, dệt vải….phục vụ Tấm và nhà Vua).
Q

ua câu chuyện, nhân dân ta ca ngợi cô Tấm ngoan hiền, chăm chỉ, lễ phép;
phê phán dì ghẻ độc ác, cay nghiệt và đã rút ra bài học cho muôn đời: Ở hiền
gặp lành, ác giả ác báo.
2.3.2.2. Sân khấu hóa trích đoạn Mẹ Đốp - Lý trưởng (Trích trong vở chèo
Quan Âm Thị Kính).
a. Hệ thống nhân vật tham gia diễn xuất
Quỳnh Anh trong vai mẹ Đốp
Đức Hạnh trong vai bà Lý
Nhật Tân trong vai Lý trưởng
Đăng Nhât trong vai Bờm
b. Kịch bản và quá trình thực hiện
Cảnh I
14
Nhạc: Lý trưởng ra sân khấu, gọi mẹ Đốp).

(


L
ý trưởng: Đốp…Đốp đâu?
M
ẹ Đốp: (vừa ra sân khấu vừa nói). Dạ con đây!
L
ý trưởng: Mày làm gì mà để tao gọi mãi thế?
M
ẹ Đốp: Dạ, con đâu có nghe!
(
Bờm ra sân khấu, vuốt cái cằm, ngồi quạt).
L
ý trưởng: Mày…ông đây chả mù chả điếc gì đâu nhá!

Thằng bố Đốp mày đâu?
M
ẹ Đốp: Chồng con bận việc đồng xa, đâu rảnh rỗi như…(ngập ngừng)
L
ý trưởng: Á, à…mày xéo sắc gì ông đấy?
M
ẹ Đốp: Dạ, con đâu giám. Ông tìm chồng con có việc gì? Chả lẽ…?
L
ý trưởng: (chỉ gậy vào mặt Đốp). Mà này…(ngập ngừng) chồng mày vắng
thì mày thay chồng rao cho ông bài mõ.
M
ẹ Đốp: Rao bài gì hả ông? 15
L
ý trưởng: Nghe rõ đây “ Chiềng làng chiềng chạ, thượng hạ Tây Đông, con


gái phú ông, tên là Mầu thị, tư tình ngoại ý, mãn nguyệt có thai, già trẻ gái
trai, ra đình ăn khoán”.
M
ẹ Đốp: Chuyện nhà Lý trưởng, đâu phải nhà con…
(Bờm lẩm bẩm: Ông Lý làm cô Mầu có chửa…rồi đi ra hậu trường).
L
ý trưởng: Nghe rõ lần nữa đây “Chiềng làng chiềng chạ, thượng hạ Tây
Đông, con gái phú ông, tên là Mầu thị, tư tình ngoại ý, mãn nguyệt có thai,
già trẻ gái trai, ra đình ăn khoán”. Nhớ chưa?
M
ẹ Đốp: Dạ rồi ạ!
L
ý trưởng: Mày đi theo ông rao nhé…(vừa rao vừa lui vào sân khấu).
Cảnh II

(Bà Lý và Bờm ra).
B
à Lý ( nói với Bờm): Mày nghe ngóng chuyện gì rồi?
B
ờm: Dạ ông Lý tìm mẹ Đốp để rao mõ ạ! À mà chuyện ông Lý… gì gì cô
Mầu có chửa ấy…
B
à Lý (đứng hẳn dậy): Cái gì? Ông Lý…cô Mầu. Ông này giám mèo mả gà
đồng sau lưng bà. Bà cho biết tay.
(
Lý trưởng ra sân khấu, hát16
nghêu ngao):


L
ý trưởng: Tiền là tiền nhiều khi không mà có, tiền là tiền nhiều lúc có như
không…
B
à Lý: Ông Lý đâu. Ông được lắm. Ông giám ăn vụng hả?
L
ý trưởng: Tôi ăn vụng khi nào? Ăn vụng cái gì?
B
à Lý: Cái gì mà…mà cô Mầu có chửa…hả?
L
ý trưởng (Hét to): Ối dồi con mẹ Đốp.
B
à Lý: Á à, lại con mẹ Đốp. Đồ mèo mả gà đồng.
(Ngay lúc đó, mẹ Đốp tiến vào vừa đi vừa rao mõ).
Cảnh III
M

ẹ Đốp: Chiềng làng chiềng chạ, thượng hạ Tây Đông, con gái phú ông, tên là
Mầu thị, tư tình ngoại ý, mãn nguyệt có thai, già trẻ gái trai, ra đình ăn khoán.
B
à Lý: Cái thể loại có chồng có con mà còn ong với chả bướm.
M
ẹ Đốp: Bà nói gì con nghe không rõ ạ?
B
à Lý: Tao nói mày ong bướm đấy. Sao. Sao nào?
17
ẹ Đốp: Bà Lý hiểu biết quá nhỉ! Lỡ ăn vụng lại đổ thừa cho chó mèo à.

M


B
à Lý: Mày nói ai ăn vụng?
(Bờm sợ vạ lây. Chạy vào cánh gà sân khấu).
M
ẹ Đốp: Tôi nói trăng, nói gió, nói chó, nói mèo. Ai có tật thì giật mình đấy
thôi.
B
à Lý: Cái con mẹ nghèo hèn kia. Mày lấy quyền gì mà lên giọng với bà?
M
ẹ Đốp: Nghèo hèn à. Nghèo thì công an bắt phạt à. Nghèo mà sống ngay
thẳng, trong sạch thì đã sao? Còn hơn chúng mày, sống nhục nhã, luồn cúi.
Thật xấu hổ.
(
Bà Lý: Tát mẹ Đốp một cái. Mẹ Đốp trừng mắt nhìn bà Lý).
B
à Lý: Mày trừng mắt với ai con mụ kia?

(
Bà Lý tát mẹ Đốp lần hai. Mẹ Đốp ôm mặt).
B
à Lý: Bờm đâu? Cầm ra đây cho tao một mồi lửa.
(
Bờm cầm lửa chạy ra. Mẹ Đốp giật mồi lủa và giả vờ tự thiêu rồi la lớn: Ối
làng nước ơi, Bà Lý thiêu tôi làng nước ơi…).
(
Nhạc), (trong lúc náo loạn18
mọi người chạy vào cánh gà sân khấu).


Q
ua phần kịch, nhân dân ca ngợi những người nghèo khổ mà sống có nhân có dức.
Phê phán những kẻ giàu sang phú quý nhưng nhân cách thối tha, bẩn thỉu.
2.3.2.3. Sân khấu hóa truyện cười “Tam đại con gà” và “Nhưng nó phải
bằng hai mày” .
a. Hệ thống nhân vật tham gia diễn xuất
Nguyễn Quý trong vai thầy Đồ.
Đình Phương trong vai Cha học trò.
Trung Kiên trong vai Học trò.
Tuấn Anh trong vai thầy Lí.
Huyền Trang trong vai Người dẫn chuyện.
b. Kịch bản và quá trình thực hiện
Cảnh I:
(Thầy Đồ, cha học trò, học trò)
Người dẫn chuyện: Tiếng chó sủa vang khi nhìn thấy anh nông dân dắt
theo một đứa trẻ vào nhà. Thì ra, anh đến nhà thầy Đồ xin cho con học chữ.
Cha học trò: Thầy Đồ có nhà không? Đây có phải nhà thầy Đồ không?
Thầy Đồ: Ai đấy? Tôi đây! Nhà thầy Đồ đây. Mời vào, mời vào…

19 hôm nay con chọn được ngày lành tháng tốt, con
Cha học trò: Thưa thầy,
đưa cháu đến đây để xin thầy dạy cho cháu cái chữ cho nó rộng tai, sáng mắt ra
ạ.


Thầy Đồ: Chà! Việc này khó đây. Không biết nhà anh có lo nổi.
Cha học trò: Dạ! Mong thầy thương cho con cái hoàn cảnh gà trống nuôi
con lại không có chữ nghĩa. Con xin gửi cháu nhà thầy để nhặt chữ vơi, chữ vãi
nhà thầy.
Thầy Đồ: Được! Tôi thương cái hoàn cảnh cha con anh và trọng cái đức
hiếu học của nhà anh mà nhận nó.
Cha học trò: Xin thầy nhận của cha con con một cái lạy a.
Thầy Đồ: Thôi! Thôi! Ngày mai anh mang đến đây một cái lễ để tôi cúng
Thành Hoàng, Thổ công báo với các ngài để các ngài phù hộ cho con anh dược
sáng dạ.
Người dẫn chuyện: Sáng sớm ngày mai cha con anh học trò lại đến và
mang theo một cái lễ như lời thầy Đồ.
Thầy Đồ (khấn): Kính lạy Thành Hoàng, Thổ công! Con xin lạy bốn
phương trời, mười phương chư phật đã chỉ đường cho bố con nhà nó đến đây xin
học để con khỏi mang tiếng là thầy Đồ mà không có học trò. Con xin các Ngài
cho một đài âm dương để xem cái sự nghiệp của con có được hanh thông.
(Thầy Đồ tung đài âm dương được hai mặt sấp ngửa).
Tốt quá! Các ngài đã đồng ý rồi đấy! Số cha con nhà anh thật là có phúc.
Cha học trò (Lạy lia lịa): Tạ ơn các ngài! Quả là cha con nhà con thật có
phúc ạ.
Thầy Đồ: Hôm nay cũng là ngày lành tháng tốt để tôi dạy nó luôn.
- Ta bắt đầu học từ sách Tam Thiên Tự.
Học trò: Tam Thiên Tự là gì hả Thầy?
Thầy Đồ: Là sách vỡ

20 lòng con ạ. Muốn học được những điều cao sang
trước hết phải học nó trước đã. Con đọc theo thầy nhá!
- Đăng là đèn, Thăng là lên, Giáng là xuống.


Học trò (ngân nga theo): Đăng là đèn, Thăng là lên, Giáng là xuống...
Thầy Đồ: Tốt lắm ! Đọc to lên! To nữa lên! (Thầy Đồ đắc chí quay sang
nói với cha học trò: con nhà anh sáng dạ lắm. Rồi dạy tiếp).
- Đồng là trẻ, Tước là con chim sẻ (Rồi bảo học trò đọc thật to. Bổng chữ
tiếp theo rối quá).
- Mẹ kiếp! Chữ quái gì đây nhỉ? (Thầy lẩm bẩm một mình. Vừa lúc đó
học trò hỏi dồn).
Học trò: Thầy ơi! Chữ tiếp theo là gì ạ?
Thầy Đồ (lúng túng): Dủ dĩ là con dù dì (Rồi bảo học trò đọc bé bé kẻo
mệt).
Người dẫn chuyện: Dù thế, nhưng thầy Đồ không chắc bèn vào góc nhà
xin đài âm dương. Thầy tung ba đài được cả ba. Thầy đắc chí.
Thầy Đồ: Thì ra mình cũng thông minh phết! (Nói rồi thầy ra bảo học
trò đọc to lên. Cha học trò đang thiu thiu ngủ nghe thấy lạ giật mình chạy lại).
Cha học trò: Chết chửa! Chữ Kê là gà mà thầy lại dạy Dủ dĩ là con dù
dì?
Thầy Đồ (nói một mình):
- Mình đã dốt. Lão Thổ công còn dốt hơn cả mình.
(Rồi quay sang nói với cha học trò).
- Thì vẫn, tôi biết chữ ấy là chữ Kê. Kê nghĩa là gà. Nhưng tôi muốn dạy
cho cháu tận Tam đại con gà kia.
Cha học trò (băn khoăn): Là sao thưa Thầy?
Thầy Đồ: Anh nghe đây này! Dủ dĩ là con dù dì. Dù dì là chị con công,
con công là ông con gà.


21

Cha học trò (bán tín bán nghi rồi cương quyết): Vậy tôi và thầy đến gặp
thầy Lí hỏi cho ra nhẽ.


Cảnh II.
(Cha học trò, Thầy Lí, Thầy Đồ).
Người dẫn chuyện (Hai bên đến nhà Thầy Lí):
Cha học trò: Bẩm Thầy! Chữ Kê là gà mà thầy Đồ bảo: Dủ dĩ là con dù
dì và còn bảo dạy đến Tam đại con gà. Nhờ thầy phán xử hộ con.
Thầy Lí (Vuốt râu trên cái nốt ruồi to tướng. Tay phải ngón cái và ngón
trỏ xoa vào nhau):
- Việc này khó đây!
Cha học trò (móc túi lấy 5 đồng bạc):
- Dạ...dạ...mong Thầy giúp con.
Thầy Lí: Được! Được! Anh ra ngoài đi.
Người dẫn chuyện (Thầy Đồ bước vào hai người nhận ra nhau cùng thi
hỏng trong kì thi năm xưa):
Thầy Đồ: Chào anh Lí. Không ngờ lại gặp anh ở đây. Năm xưa anh thi
có đỗ đâu mà bây giờ lại làm quan phán xử nhỉ!?
Thầy Lí (mặt đỏ phừng phừng): Anh đến gặp tôi có việc gì?
Thầy Đồ (vênh vênh vì nắm được thóp của Thầy Lí): À! Tôi đến nhờ anh
phán xử tôi chuyện này (…) xem anh có giỏi thật không ấy mà.
(Thầy Đồ rỉ tai Thầy Lí và không quên dí vào tay ông ta tờ bạc 10 đồng)
Thầy Lí: Bay đâu! Cho người kia vào!
(quân lính cho cha học trò vào anh ta quỳ lạy thầy Lí).
- Anh kia! Anh tưởng anh là ai mà dám làm thầy cả thầy Đồ hả? Thầy Đồ
đã dạy con anh biết tận Tam đại con gà - như thế anh còn thắc mắc nỗi gì?
22

- Bay đâu! Nọc nó ra đánh cho ông chục roi.
Cha học trò (giơ 5 ngón tay ra hiệu): Xin thầy Lí xét lại. Lẽ phải thuộc
về con mà!


Thầy Lí (xoà 5 ngón tay trái úp lên 5 ngón tay phải): Ta biết mày phải,
nhưng nó phải bằng hai mày.
Thầy Đồ (gật gù lia lịa): Vâng! Thầy Lí xử quả là công minh quá ạ.
Cha học trò (ngơ ngác):
- Là sao ạ? Con không hiểu? (rồi chợt hiểu ra một điều gì đó anh nói
tiếp).
- Bẩm thầy! Nhờ có hai thầy mà con mới biết công và gà có họ với nhau,
mà công là ông còn gà là cháu nữa đấy ạ.
Thầy Lí (nghĩ trong đầu: mày dám đá xéo ông à, rồi ra lệnh):
- Bay đâu! Đánh nó trăm roi cho tao!
(Cha học trò bỏ chạy vì sợ đòn. Quân lính đuổi theo. Náo loạn.)
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, với dồng nghiệp và nhà trường

Qua quá trình chuẩn bị và thực hiện đề tài, tôi thấy học sinh thu nhận được
một số kết quả như sau:
Các em tự khám phá và thể hiện khả năng cảm nhận văn bản văn học.
- Rèn luyện thêm cho học sinh kĩ năng nói, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xử
lí tình huống, kĩ năng làm việc nhóm.
Trong quá trình thực hiện dù còn gặp khó khăn nhưng đây là sân chơi bổ ích để
phát hiện và phát triển tài năng của các em như hát, múa, diễn xuất…
23
Đặc biệt học sinh hứng thú và hiểu thêm văn học dân gian đồng thời biết trân
trọng hơn giá trị văn hóa dân tộc. Kết quả đạt được sau khi thực hiện đề tài
theo số liệu thống kê như sau:


-


Phân loại

Giỏi/ Khá

Trung bình

Yếu/ Kém

Số lượng

%

Số lượng

%

Số lượng

%

10C1 = 40

21

52,5 %


19

47,5 %

0

0%

10C2 = 42

18

42,9 %

34

57,1%

0

0%

10B1 = 45

14

31,1%

31


68,9%

0

0%

Lớp

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Đ
ể góp phần cải thiện thực trạng học sinh không hứng thú với môn Ngữ Văn,
thiết nghĩ hoạt động “Tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua biện
pháp sân khấu hóa mốt số tác phẩm, trích đoạn văn học dân gian” là bổ ích
và cần thiết. Sân khấu hóa văn học dân gian góp phần rèn luyện kĩ năng tư duy
độc lập, kĩ năng sáng tạo, kĩ năng làm việc nhóm của học sinh, học sinh hiểu
thêm về văn bản…; góp phần hoàn thiện năng lực chuyên môn, kĩ năng sư
phạm của người thầy trong quá trình chuẩn bị và "đồng hành" với học sinh
khám phá kho tàng văn hóa của dân tộc. Có thể nói đề tài “Tạo hứng thú học
tập cho học sinh thông qua biện pháp sân khấu hóa mốt số tác phẩm, trích
đoạn văn học dân gian” đã tạo ra những tiết học bổ ích và phù hợp với đặc
trưng thể loại văn hoc.
3.2. Kiến nghị
Đ
ể đề tài được ứng dụng phổ biến trong chương trình dạy học hàng năm thì cần có
sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường và đặc biệt là sự nỗ lực của tổ chuyên
môn.

24
Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài, tôi chỉ nêu ra một số giải pháp thực hiện.


Thiết nghĩ, những kinh nghiệm trên ít nhiều có thể giúp quý Thầy, Cô tham khảo và


ứng dụng trong quá trình dạy học văn học dân gian ở trường Trung học phổ
thông. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng không thể không có những thiếu sót, rất
mong nhận được sự góp ý chân thành của quý Thầy, Cô.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN

Thường Xuân, ngày 25 tháng 5 năm 2019

CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình, không sao chép nội
dung của người khác.
(ký và ghi rõ họ tên)

Giáo viên Lê Thị Tuyết

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. TS Nguyễn Thị Huế (2014). Mấy vấn đề nghiên cứu văn học
dân gian gần đây, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.
2. GS. Đinh Gia Khánh, Văn học dân gian Việt Nam, Nhà xuất bản
Giáo Dục Việt Nam 1997.
3. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) (2006), Sách giáo khoa Ngữ Văn
10, tập 1, Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam.
4. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên),(2006), Sách giáo viên Ngữ Văn
25 Dục Việt Nam.

10, tập 1, Nhà xuất bản Giáo
5. Tham khảo thêm trên Internet.


×