Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

SKKN vận dụng kĩ thuật liên văn bản vào dạy đọc hiểu hai đoạn trích người lái đò sông đà (nguyễn tuân) và ai đã đặt tên cho dòng sông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.15 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ....................................Error: Reference source not found
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.............................. Error: Reference source not found
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH...............Error: Reference source not found
III. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI..................... Error: Reference source not found
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ..............................................................................4
I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI...................................................................................4
1. Cơ sở lý luận..............................................................................................4
2. Cơ sở thực tiễn..........................................................................................9
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP VẬN DỤNG KĨ THUẬT LIÊN VĂN BẢN VÀO
DẠY HỌC HAI ĐOẠN TRÍCH......................................................................11
1. Một số hình thức kết nối các văn bản với nhau..................................11
1.1 Liên kết văn bản văn học với các loại văn bản khác.............................11
1.2. Liên kết văn bản văn học với các phương diện, lĩnh vực khác............11
1.3. Liên kết văn bản văn học với phong cách của nhà văn........................13
1.4. Liên kết văn bản văn học với thể loại...................................................14
1.5. Liên kết văn bản văn học với giai đoạn văn học..................................15
2. Nguyên tắc vận dụng.............................................................................17
2.1. Kết hợp các văn bản phù hợp với mục tiêu cụ thể của giờ học............17
2.2. Giữ vai trò chủ đạo của văn bản chính.................................................18
2.3. Đảm bảo cách thể hiện hiện riêng của văn bản đang học....................18
2.4. Sử dụng tranh ảnh minh họa phù hợp..................................................19
3. Kết quả vận dụng ..................................................................................20
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT......................................................................23
I. Kết luận........................................................................................................23
II. Đề xuất........................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1



A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Đổi mới phương pháp dạy học đã và đang được Đảng, Nhà nước, Quốc
hội, nghành Giáo dục và nhân dân hết sức quan tâm. Chiến lược phát triển giáo
dục và đào tạo đến năm 2020 đã khẳng định một trong những giải pháp quan
trọng để phát triển giáo dục là “Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, thi,
kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo dục”. Hội nghị lần thứ VIII BCH Trung
ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết 29 - NQ/TW về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo. Nghị quyết chỉ đạo: “…Giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân; đầu tư
cho giáo dục là đầu tư cho phát triển nhằm tạo “chuyển biến căn bản, mạnh mẽ
về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo, đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân”. Nghị quyết đã
hướng tới xây dựng một nền giáo dục nước nhà có những chuyển biến mạnh mẽ,
vận động theo quỹ đạo chung của giáo dục thế giới, chú trọng triển phẩm chất,
năng lực người học. Hơn nữa, mục tiêu của Dự thảo chương trình giáo dục phổ
thơng (Áp dụng từ năm 2018 - 2019), đã chỉ rõ: Giúp học sinh phát triển hài
hòa cả thể chất lẫn tinh thần; trở thành người học tích cực, tự tin có ý thức lựa
chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời; có phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần
thiết để trở thành cơng dân có trách nhiệm, người lao động có văn hóa cần cù,
sáng tạo. Với mục tiêu này, chúng ta có thể thấy thấy chương trình giáo dục phổ
thơng mới hướng đến đề cao vai trị, vị trí của người học, phát triển một cách
toàn diện và sâu sắc hơn cho các em.
2. Bản thân tơi trong q trình giảng dạy đã cố gắng tìm tịi, học hỏi và
nghiên cứu để rút ra kinh nghiệm nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học
và nâng cao chất lượng giáo dục. Thực tế trải nghiệm giảng dạy khiến tơi có
nhiều trăn trở đối với mơn Ngữ Văn thuộc chương trình THPT nói chung và hai
đoạn trích: Người lái đị Sơng Đà của Nguyễn Tn và Ai đã đặt tên cho dịng
sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường trong Sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 12 nói
riêng. Tơi cũng thường xun đi dự giờ các đồng nghiệp để tích lũy và học hỏi

kinh nghiệm dạy học cho mình. Dù đã áp dụng nhiều phương pháp dạy học cả
truyền thống lẫn hiện đại song tôi thật sự chưa thấy hài lòng và thỏa mãn với các
tiết dạy của mình cũng như của các giáo viên khác. Cái khó của người dạy và
người học tác phẩm của Nguyễn Tn và Hồng Phủ Ngọc Tường là ở chỗ: hai
ơng không chỉ là những nhà văn xuất sắc của nền văn học VNHĐ mà cịn là hai
nhà văn hóa, có vốn sống phong phú, vốn hiểu biết uyên bác về nhiều lĩnh vực.
Để tiếp cận được những văn bản này đòi hỏi người dạy mà cả người học cần
2


được trang bị phơng văn hóa chung ở mức tối thiểu như các tư liệu về lịch sử, địa
lí, văn chương cổ, … các văn bản của tác giả hoặc nhiều văn bản khác liên quan
tới tác phẩm.
Từ những vấn đề trên là nguyên nhân thôi thúc chúng tôi thực hiện đề tài:
"Vận dụng kĩ thuật liên văn bản vào dạy đọc hiểu hai đoạn trích: Người lái đị
Sơng Đà (Nguyễn Tn) và Ai đã đặt tên cho dịng sơng ? (Hoàng Phủ Ngọc
Tường) giúp nâng cao hiệu quả dạy học và học cho học sinh lớp 12 trường
THPT Thạch Thành 4”. Đây là một vấn đề bổ ích, thiết thực đối với nghề
nghiệp của chúng tôi. Qua bài viết này, tơi mong muốn tìm ra giải pháp giảng
dạy hai tác phẩm trên đạt hiệu quả hơn, góp phần nâng cao chất lượng dạy học
văn cho học sinh THPT, giúp các em khai thác đúng hướng thể loại kí, cũng như
khơi gợi trong các em những rung động đích thực và sự đồng cảm sâu sắc đối
với hai nhà văn – hai nhà văn hóa ưu tú của nền văn học Việt Nam hiện đại.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
Đề tài vận dụng kết hợp nhiều phương pháp:
- Phương pháp thống kê…
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích tổng hợp
III. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngồi phần đặt vấn đề, phần kết luận thì phần giải quyết vấn đề có các nội

dung sau:
- Cơ sở của đề tài
- Một số biện pháp vận dụng kĩ thuật liên văn bản vào dạy học hai đoạn trích trên
- Hiệu quả ứng dụng của đề tài

3


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
1.1. Lý thuyết liên văn bản và kỹ thuật liên văn bản.
1.1.1. Khái niệm liên văn bản và đặc điểm của kỹ thuật liên văn bản
Liên văn bản là một trong những khái niệm trọng yếu nhất trong các lý
thuyết văn học thế giới từ nửa sau thế kỷ 20 đến nay, có sức hút mạnh mẽ với các
học giả quốc tế nói chung và các lý thuyết gia nghiên cứu phê bình văn học nói
riêng.
Thuật ngữ liên văn bản là thuật ngữ xuất hiện trong ngành lí luận văn học
hiện đại. Khái niệm liên văn bản gắn liền với ba tên tuổi: J.Derrida, R.Barthes
và J.Kristeva - các lý thuyết gia tiên phong trong trào lưu Giải cấu trúc và phê
bình Hậu hiện đại. "Nếu Jacques Derrida là người đầu tiên khơi động ý tưởng
“khơng có gì ngồi văn bản” để manh nha những ý thức phơi thai về vai trị của
intertextuality thì, Roland Barthes mới là kẻ đi đầu trong sự cổ xuý và quảng bá
tư tưởng này như một bước đột phá lớn - đưa văn học từ điểm nhìn gị bó và tù
hãm dựa trên hệ lý thuyết cấu trúc luận (structualism), sang một cách nhìn rộng
hơn, sâu hơn và nhiều tự do hơn của lý thuyết giải cấu trúc (deconstruction), qua
tác phẩm Cái chết của tác giả (The Death of the Author, 1968) – lần đầu tiên,
một nhà phê bình đánh dấu sự cáo chung vai trò của người viết áp đặt lên nguồn
gốc của một tác phẩm văn học…" .
Khái niệm liên văn bản xuất hiện lần đầu tiên trong tiểu luận “Bakhtine, từ

ngữ, đối thoại và tiểu thuyết” do J.Kristeva khởi xướng vào mùa thu năm 1966,
đọc tại seminar do R.Barthes chủ trì. Đối với J.K risteva: “Văn bản khơng được
hình thành từ những ý đồ sáng tác riêng tây của tác giả mà chủ yếu là từ những
văn bản khác đã hiện hữu trước đó: mỗi văn bản là một sự hốn vị của các văn
bản, nơi lời nói từ các văn bản khác gặp gỡ nhau, tan loãng vào nhau và trung
hịa sắc độ của nhau”. Nói cách khác, khơng có văn bản nào thực sự cơ lập, một
mình một cõi, như một sự sáng tạo tuyệt đối: văn bản nào cũng chịu sự tác động
của văn bản văn hóa, cũng chứa đựng ít nhiều những cấu trúc ý thức hệ quyền
lực thể hiện qua các hình thức diễn ngơn khác nhau trong xã hội. Từ đó có thể
thấy: " Khái niệm liên văn bản nhắc nhở cho người đọc nhận biết một cách có ý
thức rằng, mỗi văn bản tồn tại trong sự liên hệ với văn bản khác, có thể xuất hiện
trước hoặc cùng thời; thực tế, văn bản lệ thuộc vào những văn bản khác còn
nhiều hơn vào chính người tạo ra nó" . Trong ý nghĩa này, Kristeva xem văn bản
có tính sản xuất, lúc nào cũng là quá trình vận động và tương tác liên tục. Có thể
nói, R.Brathes là người thành cơng hơn cả trong việc phát triển lý thuyết liên văn
bản. Phân tích mối quan hệ từ tác phẩm đến văn bản, ông cho rằng “Sáng tạo ra
tác phẩm, mỗi tác giả tất yếu sẽ chắt từ “kho lưu trữ” văn bản vô tận, kiến tạo
4


cấu trúc ngữ nghĩa của mình với sự hỗ trợ của chất liệu được cất giữ trong văn
bản, có thể là những lời, những câu riêng lẻ hay cả một đoạn văn được cố ý vay
mượn từ tác phẩm của người khác, đọc được trên báo chí, nghe được ngồi
đường phố, từ màn hình ti vi... những diễn văn thuyết trình đủ loại, những thể
loại, phong cách, mã xã hội, diễn ngơn... tức là những gì tạo nên các ngữ cảnh
văn hóa riêng lẻ cũng như văn bản văn hóa nói chung. Người nói/người viết
khơng mấy hiểu rõ “văn bản” riêng của mình (ký ức văn hóa của mình) nhưng
ngồi ý muốn, ký ức ấy vẫn chi phối họ ngay từ thời thơ ấu.
Bên cạnh đó, nhận định của Barthes: “Liên văn bản được hiểu như là
thuộc tính bản thể của mọi văn bản…bất kỳ văn bản nào cũng là liên văn bản” tức là được nhận định như là sự xóa nhịa ranh giới giữa các văn bản của các tác

giả riêng rẽ, giữa văn bản văn học cá nhân và văn bản vĩ mô của truyền thống,
giữa các văn bản thuộc các thể loại và loại hình khác nhau (khơng nhất thiết là
mang tính nghệ thuật) giữa văn bản và độc giả và cuối cùng, giữa các văn bản và
hiện thực. Tác phẩm và văn bản liên quan tới hai dạng khác nhau của ý thức con
người. Tác phẩm gắn với ý thức cá nhân của chủ thể ý chí (tác giả) cịn văn bản như đã nêu trên - gắn với ký ức vô thức của văn hóa. Văn bản có sự phong phú
ngữ nghĩa vơ hạn, cịn phạm vi đọc và kinh nghiệm văn hóa của người tiếp nhận
lại hữu hạn. Thực sự đời sống được kiến tạo và xây dựng lên từ văn bản ở một
mức độ vơ cùng lớn lao và sâu rộng, nó đã trở nên tự động hóa chính đối tượng
tiếp nhận như chúng ta thường lãng quên.
Từ đó đến nay, học giới quốc tế đã tiếp nhận và vận dụng rộng rãi khái
niệm liên văn bản trên nhiều lĩnh vực. Liên văn bản là một hệ thống lý thuyết
phức tạp, kỹ thuật liên văn bản cũng muôn màu muôn vẻ trong sáng tác và tiếp
nhận. Những tư tưởng, diễn ngôn được triển khai từ khái niệm liên văn bản đã
trở nên vơ cùng phong phú trong đó hàm chứa khơng ít quan điểm đối lập đồng
thời cũng được làm chỗ dựa để mở rộng sang các địa hạt khác nhau: tôn giáo,
lịch sử, xã hội học...
1.1.2. Vận dụng kỹ thuật liên văn bản trong sáng tác và tiếp nhận văn bản
Thực tế đã cho thấy, liên văn bản như là một thuộc tính cố hữu của văn
bản. Lý thuyết liên văn bản được xây dựng trên thế giới quan của thế kỷ 20
bởi các lý thuyết gia hiện đại và hậu hiện đại; vì thế nó tương ứng với những
sáng tác của thời hậu hiện đại - vài chục năm trở lại đây. Như vậy có thể thấy:
"Một khi bắt đầu, từ một góc độ văn hố, một quan niệm đạo đức hay một ẩn dụ
trong văn bản, tính chất liên văn bản của việc đọc sẽ càng lúc dẫn chúng ta đi xa
và đi sâu trong sự phân tích. Khi đạt đến mức độ đủ sức phá vỡ tính chất trung
tâm của cấu trúc, sự hoạt tác của các yếu tố trong cấu trúc/hệ thống (văn bản) tự
thân sẽ trở thành các yếu tố tự do và tương tác lẫn nhau trong bối cảnh của một
trị chơi ngơn ngữ". Tuy nhiên, do bản thân liên văn bản ôm chứa nhiều vấn đề
của sáng tác, của tồn tại, trong đó có những vấn đề mang tính “xuyên thời
5



gian” nên nó hồn tồn có thể được vận dụng trong dạy học Ngữ Văn ở trường
phổ thông đối với đối tượng khám phá của chúng ta là những văn bản thuộc
các thế kỷ trước.
Sáng tạo ra tác phẩm, mỗi tác giả sẽ chắt từ “kho lưu trữ” văn bản vơ tận
của mình với sự hỗ trợ của chất liệu được cất giữ trong văn bản; có thể là những
lời, những câu riêng lẻ hay cả một đoạn văn được vay mượn từ tác phẩm của
người khác, đọc được trên báo chí, nghe được ngồi đường phố, từ màn hình ti
vi... những diễn văn thuyết trình đủ loại, những thể loại, phong cách, mã xã hội,
diễn ngôn... tạo nên các ngữ cảnh văn hóa riêng lẻ cũng như văn bản văn hóa nói
chung. Mọi văn bản đều là tấm vải mới đan dệt từ những trích dẫn đã từng được
sử dụng. Như vậy khi vận dụng kỹ thuật liên văn bản trong sáng tác trong dạy
học Ngữ Văn ở THPT, chúng ta cần rất uyển chuyển, linh hoạt trong việc thực
hiện các thao tác nhằm rèn tập cho học sinh một tư duy mới với những kỹ
năng cần thiết để các em có thể có thể đọc hiểu văn bản văn học một cách
sống động, ham thích, mang đầy tính độc lập, khám phá và sáng tạo theo tinh
thần liên văn bản.
Khái niệm liên văn bản định hướng cho người đọc nhận biết một cách có ý
thức rằng: mỗi văn bản tồn tại trong sự liên hệ với văn bản khác, có thể xuất hiện
trước đó hoặc cùng thời và thực tế thì văn bản lệ thuộc vào những văn bản khác
cịn nhiều hơn vào chính người tạo ra nó. Điều này đã được M.Foucault, một lý
thuyết gia hậu hiện đại nhấn mạnh:" Những biên giới của một cuốn sách khơng
bao giờ rõ ràng: bên kia trang bìa ghi ra tựa đề cuốn sách, bắt đầu từ những dòng
đầu tiên cho đến khi cuốn sách ngưng lại ở dấu chấm cuối cùng, vượt ra ngồi
cấu trúc nội tại và hình thức tự thân của cuốn sách ấy; thực chất, cuốn sách bị
trói chặt vào một mạng nhện các trích dẫn từ nhiều cuốn sách khác, những văn
bản khác, hay những dòng văn lắng lại trong ký ức thu nhận được, trong nhiều
quá trình đọc trước đây. Cuốn sách chỉ là một điểm nối kết nhỏ bé trong một
mạng lưới vô cùng rộng lớn... trong nhiều trường hợp viết chỉ là một “Trị chơi
của ngơn ngữ”: người viết tạo ra càng nhiều yếu tố tự do trong ngôn ngữ bao

nhiêu sẽ càng tốt bấy nhiêu và việc tạo nghĩa từ các trò chơi này tùy thuộc vào
người đọc. Người đọc - trong nhiều trường hợp có vai trị to lớn trong việc tạo ý
nghĩa cho “trị chơi ngơn ngữ” này.
Như thế, theo lý thuyết liên văn bản - vai trò người đọc nói chung và đọc
hiểu văn bản văn học nói riêng - là rất quan trọng. Thừa nhận vai trò của người
đọc không đồng nghĩa với việc phủ nhận vai trị của nhà văn bởi nhiều nhà
nghiên cứu phê bình văn học cũng hàm chứa đầy tài năng, tâm hồn, trí tuệ và trái
tim nhạy cảm của chính những người sáng tác.

6


1.2. Tùy bút/bút kí Người lái đị Sơng Đà của Nguyễn Tn và Ai đã đặt tên
cho dịng sơng ? của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường đều là những gương mặt tiêu
biểu, xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt ở thể loại ký. Cả hai
nhà văn đã có những đóng góp đáng kể trong sự vận động và phát triển của nền
văn học nước nhà. Mỗi người một phong cách, một dấu ấn cá nhân rất riêng
nhưng họ đều rất thành công ở thể loại ký (gồm tùy bút và bút kí). Để từ đó, nhắc
tới tùy bút, khơng ai là không nhớ đến Nguyễn Tuân. Và ở thể loại bút kí, mọi
người đều nhớ ngay đến nhà văn của mảnh đất cố đơ Hồng Phủ Ngọc Tường.
Nguyễn Tn là một tác giả lớn có nhiều đóng góp cho nền văn học dân
tộc. Trong quá trình sáng tạo văn học hơn nửa thế kỷ của mình, nhà văn đã hình
thành cho mình một phong cách nghệ thuật hết sức độc đáo. Nguyễn Tuân sáng
tác và thành công trên nhiều thể loại nhưng dường như "đo ni đóng giày" cho
nhà văn phải kể đến đó là tùy bút. Ở thể loại này, tác giả đã cho ra đời những đứa
con tinh thần hết sức đặc sắc như: Tùy bút Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi,
Kháng chiến và hịa bình...Trong đó, đoạn trích Người lái đị Sơng Đà in trong
tập Sông Đà đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ Văn của bậc
THPT. Tác phẩm gồm 15 bài tùy bút và một bài thơ dạng phác thảo. Đề tài của

Sông Đà là cuộc sống, con người Tây Bắc trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa
xã hội. Qua tác phẩm, nhà văn đã cho mọi người thấy cái không khí phấn chấn
trong cuộc sống mới khơng chỉ diễn ra ở những thành phố lớn, những đô thị sầm
uất mà ngay cả ở những nơi heo hút nhất, xa xôi nhất và ngút ngàn nhất cũng rạo
rực không kém. Tác giả đã khám phá ra "chất vàng mười" ẩn dấu trong tâm hồn
của người dân Tây Bắc mộc mạc, thuần hậu. Qua đoạn trích Người lái đị sơng
Đà và tác phẩm Sông Đà, người đọc sẽ thấy rất rõ không khí của thời đại lan
toản khắp khơng gian và núi rừng đại ngàn Tây Bắc xa xôi, phản ánh rõ bức
tranh chuyển mình của Tây Bắc, "cuộc đời mới đang bén rễ đâm chồi mạnh và
nơi đây đang kết tinh nhiều giống hoa say nồng chưa nở một lần trên đồi lũng
Thái Mèo".
Ra đời sau tùy bút Sông Đà, Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là tập bút ký
xuất sắc viết tại Huế năm 1981, rút từ sáng tác cùng tên của nhà văn Hoàng Phủ
Ngọc Tường. Tác phẩm gồm 8 bài ký, viết ngay sau năm 1975, trong đó thấm
đẫm lịng u nước, tinh thần dân tộc và chủ nghĩa anh hùng. Những cảm hứng
ấy được thể hiện rõ nét trong tình u, lịng tự hào sâu sắc của nhà văn đối với vẻ
đẹp thơ mộng và hùng vĩ của thiên nhiên đất nước, với truyền thống lịch sử văn
hóa lâu đời của dân tộc, với những phẩm chất cách mạng kiên cường của con
người Việt Nam thời đại mới. Những nội dung ấy được truyền đạt bởi một ngòi
bút tài hoa với những hiểu biết sâu rộng, lối hành văn hướng nội, đẹp đẽ sang
trọng, súc tích và tinh tế được xuất phát từ cảm hứng về dịng sơng Hương thơ
mộng của xứ Huế. Dịng sơng q hương được soi chiếu từ nhiều góc độ của lịch
7


sử, địa lý, văn hóa... Qua những suy tư và liên tưởng, dịng sơng đã trở thành
biểu tượng cho vẻ đẹp của đất cố đô với trang sử vẻ vang, với cảnh sắc thiên
nhiên thơ mộng, trở thành biểu tượng cho văn hóa và tâm hồn con người xứ Huế.
Bài tùy bút mang đậm phong cách tùy bút bởi giọng văn phóng túng và sự bộc lộ
cái “tơi” suy tư, trữ tình của nhà văn.

Như vậy, hai đoạn trích trên đều là những tác phẩm đặc sắc của hai đại diện
tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Mỗi văn bản đều có những đặc sắc rất
riêng, thể hiện rất đậm nét phong cách cá nhân của mỗi tác giả.
1.3. Các cơng trình nghiên cứu về phương pháp giảng dạy tác phẩm kí/tùy
bút ở nhà trường phổ thơng.
Trong bức tranh thể loại của văn học Việt Nam, kí chiếm một số lượng lớn
tác phẩm và cũng có nhiều tác phẩm đặc sắc từ trung đại đến hiện đại. Chính vì
vậy, trong chương trình Ngữ Văn của học sinh THPT, các em đã được làm quen
với thể loại này qua một số đoạn trích tiêu biểu như: Vào phủ chúa Trịnh trích
Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác; Người lái đị Sơng Đà in trong tập Sơng Đà
của Nguyễn Tn và Ai đã đặt tên cho dịng sơng? rút từ tập bút kí cùng tên của
nhà văn Hồng Phủ Ngọc Tường. Dẫu số lượng tác phẩm chưa nhiều nhưng
phần nào đó phản ánh được diện mạo của thế loại kí trong tiến trình vận động và
phát triển của thể loại văn học Việt Nam.
Hiện nay theo quan sát, thống kê và tìm hiểu của chúng tơi, các cơng
trình, bài viết hướng dẫn dạy đọc hiểu theo đặc trưng của thể loại ký/ bút kí
khơng nhiều, có thể kể đến một số ví dụ điển hình như: Tác phẩm văn học trong
nhà trường phổ thơng, một góc nhìn một cách đọc của tác giả Phan Huy Dũng;
Chuyên đề dạy - học Ngữ Văn 12: Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Lê Thị
Hường; Về việc giảng dạy thể ký và ký Hồng Phủ Ngọc Tường trong chương
trình văn học phổ thông của tác giả Lê Trà My, in trên Tạp chí Giáo dục (2003);
Rèn luyện kĩ năng đọc hiểu cho học sinh phổ thông qua dạy học tùy bút "Ai đã
đặt tên cho dịng sơng? luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Hồng Mai (2005);
Người lái đò Sơng Đà, vẻ đẹp của một dịng sơng chữ in trong tác phẩm Nghĩ từ
công việc dạy Văn của Giáo sư Đỗ Kim Hồi…
Nhìn chung, các chuyên đề, bài viết trên đều có chung một hướng tiếp cận
theo đặc trưng thể loại. Khai thác hai văn bản kí của Nguyễn Tn và Hồng Phủ
Ngọc Tường trong chương trình Ngữ văn 12 theo đặc trưng thể loại là một
hướng tiếp cận khoa học, phù hợp với đặc thù môn Ngữ Văn. Nó sẽ hình thành ở
giáo viên phương pháp phù hợp để đi vào khám phá tác phẩm, từ đó thấy được

cái hay cũng như vẻ đẹp riêng của kí so với các thể văn xi khác. Giáo viên có
cơ sở khoa học để soạn giảng giáo án và lên lớp một cách hợp lí. Cịn về phía
học sinh, các em sẽ được trang bị một “chìa khóa” để “mở cửa” vào thế giới
nghệ thuật của hai tác phẩm kí. Nhờ đó, học sinh vừa hiểu được đối tượng miêu
tả, vừa thấy được vẻ đẹp, chất thơ duyên dáng của mỗi bài kí. Hơn nữa, học sinh
8


có điều kiện để rèn luyện tư duy văn học theo thể loại. Tuy nhiên, như trên đã
nói, những cơng trình này cũng chỉ mới dừng lại ở phương pháp tiếp cận tác
phẩm theo đặc trưng thể loại. Nghĩa là các giá trị văn học khám phá được cịn bị
“đóng khung” trong nội tại tác phẩm. Nó chưa có được sự mở rộng ý nghĩa đến
vơ hạn như hình thức tiếp cận theo hướng liên văn bản.
2. Cơ sở thực tiễn
Qua thực tế giảng dạy, dự giờ và tham khảo ý kiến những đồng nghiệp
khác trên địa bàn, chúng tôi nhận thấy việc vận dụng kĩ thuật liên văn bản vào
đọc hiểu văn bản nói chung và hai đoạn trích: Người lái đị Sơng Đà của Nguyễn
Tn và Ai đã đặt tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường nói riêng có
một số vấn đề cần lưu ý sau:
Để tiếp cận đến cái đích này, người giáo viên Ngữ Văn ở nhà trường
THPT hiện nay có khá nhiều thuận lợi. Trước hết đó là việc đổi mới chương
trình - sách giáo khoa THPT từ hơn một thập kỷ qua trong đó có bộ sách giáo
khoa Ngữ văn hiện hành biên soạn theo tinh thần tích hợp. Có nhiều điểm mới
trong bộ sách này, đổi mới cả về mặt nội dung của chương trình Ngữ văn và cả
về mặt hình thức chương trình. Tiêu chí tuyển chọn các tác phẩm văn học vào
sách giáo khoa Ngữ Văn - nhất là văn học hiện đại - khơng cịn nằm trong phạm
trù “đúng - sai” mà cơ bản đã chuyển sang phạm trù “hay - dở”. Nhiều tác phẩm
văn chương mang tâm thức của thời đại mới và chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa
hậu hiện đại - những sáng tác gắn liền với nhận thức mới về quyền năng của tác
gỉa; về tính chức năng của người viết trong quan hệ với văn bản; về sự tương đối

của điều mà trước đây người ta gọi là tính độc sáng trong một tác phẩm văn học đã có mặt trong chương trình Ngữ Văn THPT.
Theo khảo sát của chúng tôi, hiện nay không ít giáo viên THPT đã có sự
đầu tư trong cơng việc soạn giáo án theo hướng: phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh; có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trí thức
chuyên mơn, trí thức về phương pháp dạy học, tiếp nhận các lý thuyết mới về
phê bình, nghiên cứu và giảng dạy văn học. Điều đáng mừng là trong đó một bộ
phận, một số ít giáo viên đã biết vận dụng kỹ thuật liên văn bản một cách tự
giác trên cơ sở hiểu biết lý thuyết liên văn bản ở các mức độ khác nhau.
Tuy nhiên bên cạnh đó vần cịn khơng ít tồn tại trong việc vận dụng kĩ
thuật này vào dạy đọc hiểu văn bản. Trước hết, nhiều giáo viên hầu như chưa có
ý thức vận dụng kĩ thuật liên văn bản như một thao tác giúp học sinh đọc hiểu
văn bản. Nhiều giáo viên có vận dụng nhưng khơng thường xun, chỉ mang tính
ngẫu nhiên, tự phát. Thậm chí, có người cịn khơng hiểu kĩ thuật liên văn bản là
gì? Trong các cấp độ của liên văn bản có yếu tố trích dẫn và giáo viên khi thực
hiện một thao tác so sánh, liên tưởng... hoặc xếp chồng văn bản một cách manh
mún, thiếu hệ thống, nhất là chưa làm nổi bật cách thức mà nhà văn “đối thoại”,
luận giải nhiều vấn đề trong trường ý nghĩa của tác phẩm văn chương... Trong
9


việc này, nhiều giáo viên thường “mượn ý” của các tư liệu tham khảo, các bài
phê bình, bình giảng các tác phẩm văn học một cách bị động, thiếu sáng tạo...
Hơn thế nữa, giáo viên chưa thực sự coi trọng vai trò của người đọc - học
sinh - trong giờ đọc hiểu văn bản văn học (trong khi R.Barthes đã tuyên bố “Tác
giả đã chết” và lý thuyết liên văn bản đã đưa đến “sự lên ngơi của người đọc”).
Nói đúng hơn là: cách thức làm thế nào để người đọc trở thành trung tâm thì
người giáo viên Ngữ Văn THPT hiện nay vẫn còn lúng túng, chưa thực hiện
được một cách nhuần nhị, linh hoạt và thường xuyên.
Không thể phủ nhận một thực tế là, trong mươi năm trở lại đây, cùng với
sự thay đổi chương trình - sách giáo khoa, việc đổi mới cách dạy - học Văn đã

được tiến hành rộng khắp trong cả nước, trong đó, mối quan hệ giữa người dạy
và người học đã khác trước, các phương tiện dạy học trong các trường THPT
cũng phong phú hơn. Cả giáo viên và học sinh đã có những sự tương tác nhất
định. Nhưng nói một cách khách quan thì chưa có sự đổi mới căn bản, triệt để
dựa trên đặc thù môn Ngữ Văn phản ánh trong mối quan hệ bộ ba tương liên:
giáo viên (người hướng dẫn, tổ chức) - học sinh (chủ thể tiếp nhận) - văn bản văn
học (đối tượng của sự tiếp nhận). Vận dụng kỹ thuật liên văn bản trong dạy đọc
hiểu văn bản văn học ở THPT càng cấp thiết yêu cầu cả người dạy và người học
phải tiếp xúc với văn bản; tạo cho người học tâm thế đón nhận văn bản - tác
phẩm văn học - với nội hàm đúng nghĩa liên văn bản của nó.
Đặc biệt qua tìm hiểu thực tế, chúng tơi nhận thấy với các giờ dạy văn bản
ký nói chung và hai đoạn trích trên nói riêng, giáo viên vẫn gặp khơng ít khó
khăn như: Giáo viên vẫn đang thuyết trình nhiều, hoạt động nhiều, ôm đồm
nhiều lượng kiến thức hoặc dạy đọc chép, hàn lâm, trừu tượng, thiếu sự tương
tác giữa thầy với trò và cả giữa trò với trò, chưa thấy được đặc trưng của thể loại
văn xuôi hiên đại này. Điều đó đã khiến học sinh rất thụ động, mệt mỏi và chán
nản. Cộng thêm, một số giáo viên quá lệ thuộc vào Thiết kế bài dạy hoặc Giới
thiệu giáo án, thậm chí có người cịn tải và dùng y ngun giáo án trên mạng mà
không chỉnh sửa, không đào sâu nghiên cứu, đổi mới cách dạy. Bút kí và tùy bút
là loại tác phẩm thường có quy mơ khá lớn, chuyển tải nhiều thông điệp, nhiều
nội dung - kiến thức, nếu người dạy khơng đầu tư, tìm hiểu kĩ lưỡng và có
phương pháp tiếp cận phù hợp thì sẽ khơng mang lại hiệu quả dạy học như mong
muốn. Liệu các em học sinh có thể nhớ điều gì về tác phẩm nếu cứ dạy như thế
hay khơng?
Thực tế cịn cho thấy khi vận dụng kỹ thuật liên văn bản trong giờ dạy học
đọc hiểu văn bản, giáo viên thường tiến hành kết nối văn bản văn học với các
văn bản thuộc loại hình nghệ thuật khác khơng đạt mấy hiệu quả. Đó là việc áp
dụng cơng nghệ thơng tin với những tranh ảnh, clip, những đoạn phim, đoạn tư
liệu, những sự kiện lịch sử... trong dạy học Ngữ Văn ở THPT được cho là cứng
nhắc bởi chúng ta quan niệm nó đơn thuần chỉ là phương tiện hỗ trợ. Nhưng theo

10


các lý thuyết gia liên văn bản thì: một bức tranh, một đoạn phim... như thế đều
được coi là một văn bản. Nhận thức đúng điều này, chúng ta có thể thấy việc ứng
dụng công nghệ thông tin - một trong những thao tác vận dụng kỹ thuật liên văn
bản vào dạy học đọc hiểu văn bản văn học sẽ hiệu quả hơn.
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP VẬN DỤNG KĨ THUẬT LIÊN VĂN BẢN VÀO
DẠY HỌC HAI ĐOẠN TRÍCH
1. Một số hình thức kết nối các văn bản với nhau
1.1 Liên kết văn bản văn học với các loại văn bản khác
Văn bản văn học không bao giờ tồn tại độc lập, hoàn toàn tách biệt khỏi
những loại văn bản khác. "Trong cách tiếp cận này, bất cứ một văn bản nào cũng
có tiềm năng trở thành chất liệu của một văn bản khác ra đời sau nó, bất cứ một
văn bản nào cũng được giả thiết là sự đối thoại, chồng xếp, đồng quy vô số văn
bản khác nhau" . Do vậy, khi tiếp cận một tác phẩm, một đoạn trích văn chương
khơng bao giờ có thể nó đứng riêng, chỉ là duy nhất mình nó. Ngược lại, người
dạy và người học ln phải có ý thức đặt văn bản văn học trong sự soi chiếu với
các loại văn bản khác. Từ đó, liên kết văn bản văn học với các văn bản khác là
để:
Một là: Hướng tới mục tiêu làm rõ đặc trưng của nghệ thuật (nếu liên hệ
với các văn bản thuộc khoa học địa lý, lịch sử hoặc văn bản thuyết minh đơn
thuần – như cẩm nang du lịch chẳng hạn)
Hai là: Hướng tới mục tiêu làm rõ sự giống nhau và khác nhau giữa các
loại hình nghệ thuật trong phương tiện, “ngơn ngữ” thể hiện (ảnh về sông Đà,
bức tranh sơn mài Cảnh chợ Bờ của nhóm tác giả thuộc trường Cao đẳng mỹ
thuật Đơng Dương trước cách mạng so với bài ký của Nguyễn Tuân; ảnh về sông
Hương, tranh Thuyền trên sông Hương của Tô Ngọc Vân, tranh Sông Hương
của Lương Xuân Nhị, phim Cô gái trên sông của Đặng Nhật Minh, nhạc của
Dương Thiệu Tước, Đặng Thế Phong, Trương Tuyết Mai, An Thuyên… so với

bài ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường).
Như vậy, khi liên kết các văn bản với nhau thì người dạy cần chú ý tới đặc
điểm cơ bản, nổi bật và riêng biệt của văn bản văn học đó là tính nghệ thuật, đó
là sự nổi trội của yếu tố văn chương thuộc về văn bản đó.
1.2. Liên kết văn bản văn học với các phương diện, lĩnh vực khác
Trên một ý nghĩa nhất định, văn học không phải là một loại hình nghệ
thuật tổng hợp thơng thường như điện ảnh, sân khấu,... mà là một loại hình nghệ
thuật tổng hợp gián tiếp. Điều đặc biệt hơn, văn học lại có mối liên hệ, qua lại
với tất cả các loại hình nghệ thuật, khoa học cũng như nhiều lĩnh vực đời sống
khác. Nói như nhà thơ Sóng Hồng:" Thơ là thơ, đồng thời cũng là vẽ, là nhạc, là
chạm khắc theo một cách riêng". Như vậy, văn học ln có sự dịch chuyển đối
với các loại hình nghệ thuật khác như: Hội họa, kiến trúc, âm nhạc, tôn giáo,
khoa học, lịch sử, triết học, điện ảnh.....
11


Trở lại với hai đoạn trích: Người lái đị Sơng Đà và Ai đã đặt tên cho dịng
sơng? có thể thấy: Cả hai đoạn trích đều có sự tham gia của rất nhiều phương
diện kiến thức, lĩnh vực khác trong đời sống. Cụ thể: Trong đoạn trích Người lái
đó Sơng Đà, Nguyễn Tuân đã sử dụng rất tài tình, khéo léo và linh hoạt những
kiến thức về: Địa lý, xây dựng, quân sự, điện ảnh, thể thao, binh pháp, lịch sử…
tạo nên một đoạn trích vơ cùng đặc sắc. Đoạn trích Ai đã đặt tên cho dịng sơng?
cũng vậy. Nhà văn tài tình của mảnh đất cố đơ đã thổi hồn cho dịng sơng, khiến
dịng sơng vốn dĩ vơ tri vơ giác trở nên vơ cùng sống động, rất TÌNH và cũng rất
NGƯỜI. Trong đoạn trích này nói riêng và tác phẩm nói chung, Hồng Phủ
Ngọc Tường cũng đã sử dụng vốn hiểu biết uyên thâm và sâu rộng của mình ở
các lĩnh vực như: Địa lý, lịch sử, thi ca, triết học, âm nhạc…Từ đó, nhà văn đã
tạo nên một thiên bút kí ấn tượng khi viết về Huế, về sơng Hương.
Do đó, trong dạy đọc hiểu văn bản văn học ở THPT, chúng ta không chỉ
thực hiện việc kết nối văn bản văn học với văn bản văn học mà còn cần phải kết

nối chúng với những văn bản thuộc các loại hình sáng tác khơng thuộc phạm trù
văn học như: hội họa, điện ảnh, âm nhạc..., những tri thức về lịch sử, địa lý, xã
hội, dân tộc, tôn giáo... của hoạt động ngôn ngữ, của tập quán xã hội, của tinh
thần dân tộc và thời đại. Hiện nay, các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới đều
hướng tới "phát triển năng lực" và chú trọng giúp học sinh "làm được gì từ
những điều đã học, như Albert Hubbart đã khẳng định: "Mục tiêu của việc dạy
dỗ học trị là làm cho học trị có khả năng thích nghi với việc khơng có người
thầy".
Lâu nay, trong thực tế dạy học Ngữ Văn ở trường phổ thông, giáo viên đã
thực hiện việc “kết nối” này bằng nhiều hình thức: từ giới thiệu những “tác
phẩm” hiện diện trước mắt học sinh như các bức tranh, tấm ảnh, vật thật... hay
qua các phương tiện khác từ radio cassete đến máy chiếu đa năng để giới thiệu
các “văn bản” tác phẩm hội họa, âm nhạc, điện ảnh... tương hợp với văn bản
đang được dạy học (và có thể kết hợp với hoạt động ngoài giờ học như tổ chức
cho học sinh đến học tập ở các bảo tàng mỹ thuật, xem phim, xem các vở diễn
sân khấu hay nghe các buổi ca nhạc...). Người dạy cần làm cho người học nhìn ra
được thế giới rộng lớn bên ngoài trường học từ quá khứ, hiện tại và có thể tương
lai, từ trong nước và cả ngồi nước. Từ đó, "Văn học làm cho con người thêm
phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều
hơn.” (M.L.Kalinine). Đó là q trình hồn thiện mình, hướng đến những giá trị
tốt đẹp và bền vững của nhân loại sau những giờ học Ngữ Văn trên ghế nhà
trường mà không phải môn học nào cũng làm được điều thiêng liêng và cao cả
đó.
Ngày nay, văn hóa nghe nhìn với sự phát triển ồ ạt của nó đã lấn át văn
hóa đọc ở học sinh. Giáo viên cần định hướng cho học sinh cách kết nối với các
“văn bản ngoại tại” này trên cơ sở tận dụng tốt mọi cơ hội trong và ngoài giờ
12


học. Vận dụng sự phát triển của công nghệ thông tin và các thiết bị hiện đại hỗ

trợ cho việc dạy và học một cách hiệu quả nhất.
1.3. Liên kết văn bản văn học với phong cách của nhà văn
Phong cách cá nhân của tác giả hay cũng chính là phong cách nghệ thuật
của nhà văn. Đây là một phạm trù thẩm mỹ, "chỉ sự thống nhất tương đối ổn định
của hệ thống hình tượng của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái
nhìn độc đáo trong sáng tác của nhà văn". Đó cũng là người tạo ra các giá trị văn
học mới trong sự kết hợp độc đáo sáng tạo của cá nhân, từ đó tạo nên những cá
tính sáng tác riêng, khơng "xóa nhịa" lẫn nhau của các tác giả. trong nghệ thuật,
qua tác phẩm mà người ta nhận ra bộ mặt tác giả. Nghệ thuật u cầu người nghệ
sĩ phải có cá tính sáng tạo, phải có khn mặt sáng tạo, có tiếng nói, giọng nói
riêng. Ðó là bản lĩnh sáng tạo hay bản sắc sáng tác của nghệ sĩ. Các đặc điểm
phẩm chất toàn vẹn của một nghệ sĩ bao gồm các mặt triết học, mĩ học, tâm lí xã
hội, thị hiếu, phong cách, ngôn ngữ nghệ thuật,…
Phong cách nghệ thuật của nhà văn hay cũng chính là cá tính trong sáng
tạo. Đó chính là biểu hiện rực rỡ của các phạm trù cái chủ quan, cái cá biệt, cái
đặc thù, cái không lặp lại trong tài năng của nghệ sĩ. Nó khơng mâu thuẫn với
các phạm trù cái khách quan, cái chung, cái điển hình, cái lặp lại, mà ngược lại,
nó gắn bó hữu cơ với chúng, và cũng chỉ trong sự thống nhất đó thì nghệ sĩ mới
khám phá được cái mới trong lĩnh vực nghệ thuật. Mỗi nhà văn có cái tạng riêng,
có cá tính sáng tạo riêng của họ, khơng nhà văn nào giống nhà văn nào. Mỗi nhà
văn bằng tài năng và cá tính sáng tạo của mình đều có thể trực tiếp đóng góp cho
sự phong phú, đa dạng của một nền văn học. Do nhà văn là chủ thể sáng tạo
nghệ thuật, tác phẩm văn chương bao giờ cũng in đậm dấu ấn cá nhân, cá tính và
phong cách của nhà văn nên sự xuất hiện những nghệ sĩ lớn bao giờ cũng góp
phần thúc đẩy sự phát triển của văn học, thậm chí đưa nền văn học của những
dân tộc rẽ sang một bước ngoặt lớn.
Cá tính sáng tạo biểu hiện tập trung ở cái nhìn nghệ thuật độc đáo, ở cách
cảm nghĩ của nhà văn có khả năng đề xuất những nguyên tắc, biện pháp nghệ
thuật mới mẻ, tạo thành một ngôn ngữ nghệ thuật mới trong việc biểu hiện
những nội dung mới của đời sống và tư tưởng. Chẳng hạn Nguyễn Du có con

mắt tinh đời trong việc biểu hiện các ngõ ngách phức tạp của cuộc sống con
người, lại có biệt tài nắm bắt và miêu tả chính xác một cách thần tình các tâm
trạng, thần thái nhân vật chỉ qua vài nét, ông là người có khả năng sử dụng tiếng
Việt một cách uyển chuyển, mềm mại, tạo thành điểm phạm của ngơn từ nghệ
thuật. Nhà văn Nga Ph. Đốt-xtơi-ep-xki có thể nắm bắt những cuộc đối thoại của
thời đại, tính nhiều tiếng nói của cuộc sống, tính lưỡng tính của thực tại ngay ở
nơi mà người khác chỉ thấy có độc thoại, tính đơn giọng và tính đồng nhất. Hoặc
khi dạy đọc hiểu đoạn trích Người lái đị Sơng Đà, giáo viên nên cho học sinh
liên hệ với tác phẩm Chữ người tử tù để thấy được sự thống nhất và vận động
13


trong phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân. Học sinh sẽ khắc ghi
được kiến thức quan trọng là: Về sự thống nhất: Nguyễn Tuân vẫn tiếp cận con
người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ; Ông vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch
lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau
trong miêu tả và biểu hiện. Đặc biệt nhà văn họ Nguyễn vẫn sử dụng vốn ngôn từ
hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổ chức câu văn xi đầy giá trị
tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Các phép tu từ được
nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện. Bên cạnh đó, phong cách nhà văn theo
thời gian đã có sự vận động rất phù hợp với biến động của lịch sử dân tộc, cụ
thể: Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi
là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau Cách mạng
tháng Tám, nhân vật tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tn có thể tìm thấy ngay trong
cuộc chiến đấu, lao động hàng ngày của nhân dân; Trước Cách mạng tháng Tám,
Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi “ngơng”, mắc cái bệnh ham mê
thanh sắc, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái Đẹp và nhấm nháp những cảm giác
mới lạ. Sau Cách mạng tháng Tám, nhà văn nhạy cảm với con người mới, cuộc
sống mới từ góc độ thẩm mĩ của nó. Nhưng khơng cịn là một Nguyễn Tn
“nghệ thuật vị nghệ thuật” nữa. Ơng đã nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn

với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nẩy nở sinh sôi, đồng thời lên án, tố
cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới.
Cịn Hồng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút
kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí
tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ
vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí... Tất cả được thể
hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Các tác phẩm gắn
liền với tên tuổi của ông như: Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971); Rất nhiều
ánh lửa (1979); Ai đã đặt tên cho dịng sơng? (1984); Bản di chúc của cỏ lau
(truyện ký, 1984)….Tác phẩm thơ gồm: Những dấu chân qua thành phố (1976),
Người hái phù dung (1992)… Ký không chỉ là nơi nhà văn gửi trọn niềm say mê,
tâm huyết mà cịn là lĩnh vực để Hồng Phủ Ngọc Tường khẳng định tài năng
nghệ thuật và bản lĩnh của người nghệ sĩ trước cuộc đời và trong sáng tạo nghệ
thuật.
Việc đối chiếu, so sánh, liên hệ văn bản văn học với văn bản văn học giúp
làm sáng tỏ phong cách nghệ thuật của nhà văn là một việc làm đúng đắn. Phong
cách nghệ thuật của tác giả có tính ổn định, có sự vận động trong sự thống nhất
hữu cơ nào đó.
1.4. Liên kết văn bản văn học với thể loại
Chúng tơi thấy rằng việc giảng dạy kí địi hỏi người dạy phải nắm chắc
đặc trưng cơ bản của thể kí: Đó là tính xác thực. Tác phẩm kí thường không hư
14


cấu mà tác giả chỉ lựa chọn ngay những sự việc, những con người vốn đã có giá
trị nổi bật trong cuộc sống để phóng bút. Nếu giáo viên chỉ thỏa mãn với những
kiến thức có sẵn trong bài văn thì khó mà giảng hay được, dẫn đến giờ học bài kí
diễn ra rất khơ khan, học sinh khó tiếp nhận được tác phẩm.
Thực tế ấy đòi hỏi giáo viên khi dạy tác phẩm kí phải có ý thức nghiên
cứu lí luận về thể kí và phải biết vận dụng linh hoạt phương pháp giảng dạy một

thể loại văn học vốn lấy người thực, việc thực làm đối tượng phản ánh; giúp cho
học sinh hiểu biết và cảm thụ được cái hay, cái đẹp của những sự việc, con người
có tính tiêu biểu và ý nghĩa của nó được nhà văn nêu ra trong tác phẩm kí. Như
vậy, lấy đặc trưng thể loại làm nền tảng để lựa chọn phương pháp, hướng tiếp
cận văn bản kí là hết sức cần thiết.
Tùy bút và bút kí là những thể loại văn học thuộc thể kí. Trong nền văn
học viết Việt Nam từ trung đại đến hiện đại không thiếu những tác phẩm kí xuất
sắc, ra đời trong những bối cảnh lịch sử đặc biệt của dân tộc.
Sau năm 1954, báo Văn học tổ chức một cuộc thi bút kí và phóng sự. Sự kiện đã
thu hút được sự tham gia của đông đảo các văn nghệ sĩ và đã cho ra đời nhiều tác
phẩm có giá trị. Cùng thể loại và cùng giai đoạn với tùy bút Sông Đà của
Nguyễn Tuân cịn có thể kể đến: Hiên ngang Cu-ba (1962), Điện Biên Phủ- một
danh từ Việt Nam đều của Thép Mới; Bức thư Cà Mau (1963)….của Anh Đức và
còn rất nhiều tác giả khác cũng thăng hoa ở thể loại tùy bút.
Bài kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng ? in trong tập bút kí cùng tên. Tập sách
gồm tám bài kí, viết ngay sau chiến thắng mùa xuân 1975, đang bừng bừng cảm
hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Ngoài các nhà văn đã khẳng định
tên tuổi ở giai đoạn trước, giờ vẫn đều đặn sáng tác (Nguyễn Tn, Tơ Hồi,
Ngun Ngọc,...), những cây bút có tác phẩm tuỳ bút tiêu biểu ở thời kì này phải
kể đến: Nguyễn Khải, Mai Văn Tạo, Băng Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Võ
Văn Trực…Hay một số bài viết, tác phẩm tiêu biểu như: Cái đêm hơm ấy đếm gì
(Phùng Gia Lộc); Chuyện ông vua lốp (Nhật Linh); Người đàn bà quỳ (Trần
Khắc).
Như vậy, trong tiến trình vận động của thể loại văn học Việt Nam, kí có
một vị trí quan trọng, góp phần thúc đẩy vào sự phát triển của nền văn học dân
tộc.
1.5. Liên kết văn bản văn học với giai đoạn văn học
Văn học ln có mối quan hệ mật thiết với thời đại, lịch sử và bối cảnh xã
hội. Cũng chính vì vậy "Văn học là người thư kí trung thành của thời đại", là tấm
gương phản chiếu một cách chân thực, sinh động và sâu sắc tình hình xã hội.

Qua mỗi chữ, mỗi câu, mỗi dịng, mỗi trang viết của nhà văn người đọc có thể
hiểu được hiện thực đời sống, trình độ văn hóa, tâm tư tình cảm của con người
xã hội lúc bấy giờ như thế nào?

15


Ở hai đoạn trích: Người lái đị sơng Đà của Nguyễn Tn và Ai đã đặt tên
cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường cũng vậy. Tác phẩm Sơng Đà ra
đời trong bối cảnh lịch sử đặc biệt của dân tộc. Sau hiệp định Giơ - ne- vơ kí kết
với thực dân Pháp năm 1954, miền Bắc nước ta được hịa bình, độc lập, bước
vào cơng cuộc tái thiết và xây dựng đất nước theo con đường Xã hội chủ nghĩa.
Miền Bắc lúc bấy giờ là cả một công trýờng lớn, từ đồng bằng lên miền núi, từ
thành thị đến nông thôn đâu đâu cũng sôi động, khẩn trương, một khơng khí
nhộn nhịp, rộn rã chưa từng thấy để lao động sản xuất, vừa hàn gắn vết thương
chiến tranh, vừa làm hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn là miền Nam ruột thịt.
Các nhà văn, nhà thơ đã nhanh chóng nhập cuộc, đến với những vùng đất mới xa
xôi ở mọi miền Tổ quốc, thấm nhuần trong huyết quản quan niệm: Sống đã rồi
hãy viết (Nam Cao).
Tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân là thành quả đẹp đẽ của chuyến đi thực
tế Tây Bắc năm 1958 của tác giả. Tác phẩm gốm 15 bài tùy bút và một bài thơ
dạng phác thảo. Đề tài của Sông Đà là cuộc sống, con người Tây Bắc trong công
cuộc xây dựng Chủ nghĩa xă hội. Qua tác phẩm, nhà văn đã cho mọi người thấy
cái khơng khí phấn chấn trong cuộc sống mới không chỉ diễn ra ở những thành
phố lớn, những đô thị sầm uất mà ngay cả ở những nơi heo hút nhất, xa xôi nhất
và ngút ngàn nhất cũng rạo rực không kém. Tác giả đã khám phá ra "chất vàng
mười" ẩn dấu trong tâm hồn của người dân Tây Bắc mộc mạc, thuần hậu. Qua
đoạn trích Người lái đị sông Đà và tác phẩm Sông Đà, người đọc sẽ thấy rất rơ
khơng khí của thời đại lan toản khắp không gian và núi rừng đại ngàn Tây Bắc
xa xôi, phản ánh rõ bức tranh chuyển mình của Tây Bắc, "cuộc đời mới đang bén

rễ đâm chồi mạnh và nơi đây đang kết tinh nhiều giống hoa say nồng chưa nở
một lần trên đồi lũng Thái Mèo".
Đến với Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là bài tùy bút xuất sắc viết tại Huế
năm 1981, rút từ tập bút ký cùng tên. Tác phẩm gồm 8 bài ký, viết ngay sau năm
1975, trong đó thấm đẫm lịng u nước, tinh thần dân tộc và chủ nghĩa anh
hùng. Những cảm hứng ấy được thể hiện rõ nét trong tình u, lịng tự hào sâu
sắc của nhà văn đối với vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ của thiên nhiên đất nước,
với truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời của dân tộc, với những phẩm chất cách
mạng kiên cường của con người Việt Nam thời đại mới. Tất cả đều được truyền
đạt bởi một ngòi bút tài hoa với những hiểu biết sâu rộng, lối hành văn hướng
nội, đẹp sang trọng, súc tích và tinh tế. Xuất phát từ cảm hứng về dịng sơng
Hương thơ mộng của xứ Huế. Dịng sơng quê hương được soi chiếu từ nhiều góc
độ của lịch sử, địa lý, văn hóa... Qua những suy tư và liên tưởng, dịng sơng đã
trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của đất cố đô với trang sử vẻ vang, với cảnh sắc
thiên nhiên thơ mộng, trở thành biểu tượng cho văn hóa và tâm hồn con người
xứ Huế. Bài tùy bút mang đậm phong cách tùy bút bởi giọng văn phóng túng và
sự bộc lộ cái “tơi” suy tư, trữ tình của nhà văn.
16


Văn học và thời đại ln có một mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
Hiện thực cuộc sống được soi chiếu và khúc xạ qua tác phẩm văn học. Và ngược
lại, văn học lại đem đến cho hiện thực một cuộc sống khác, một sự sống khác,
được kiểm nghiệm bằng những suy tư và chiêm nghiệm từ người đọc. Do đó,
khám phá cái hay cái đẹp của văn bản khơng có nghĩa là thốt ly khỏi đặc trưng
thẩm mĩ của một giai đoạn văn học.
2. Nguyên tắc vận dụng
2.1. Kết hợp các văn bản phù hợp với mục tiêu cụ thể của giờ học
Để kĩ thuật liên văn bản phát huy tác dụng cao nhất khi dạy đọc hiểu văn
bản thì bản thân người dạy phải có cách sử dụng hợp lí và khoa học, tức là có

những nguyên tắc vận dụng riêng vừa linh hoạt, vừa phù hợp.
Khi nói đến Nguyên tắc vận dụng kỹ thuật liên văn bản, trước hết phải
nhấn mạnh tính tự nhiên của sự liên hệ. Liên hệ tự nhiên thực chất là việc tôn
trọng quy luật tâm lý của hoạt động giao tiếp; Từ đó, liên hệ tự nhiên chứng tỏ
người dạy đã làm chủ được kỹ thuật liên văn bản; Liên hệ tự nhiên cho thấy
mạch chính của giờ học khơng hề bị gián đoạn... Khi nói sang ý phù hợp với mục
tiêu của từng bài học cụ thể, giáo viên đã biết:
Một là: Mục tiêu dạy học khác nhau sẽ có những cách liên hệ, mở rộng,
nối kết khác nhau (với bài cần chốt lại kiến thức về thể loại thì phải liên hệ đến
những tác phẩm cùng đề tài nhưng thuộc thể loại khác; với bài cần tô đậm đặc
điểm một hình tượng thì phải liên hệ tới cách miêu tả hình tượng ấy từ những
góc độ khác nhau của các tác giả khác nhau...);
Hai là: Mục tiêu của từng bước lên lớp khác nhau nên sự liên hệ cũng phải
khác nhau, chẳng hạn, khi mới vào giờ học, chỉ cần nhắc tên một loạt tác phẩm
có liên quan, không buộc học sinh phải nhớ, nhưng khi đã thực sự phân tích thì
mọi liên hệ so sánh đều phải được tiến hành kỹ lưỡng và rút ra những nhận xét
sát hợp...
Trong mục tiêu dạy học cần phải đạt tới của giờ học, cần xác định rõ trật
tự ưu tiên: các tri thức về phương pháp, tri thức về cách đọc là quan trọng hơn và
phải đứng ở vị trí hàng đầu so với tri thức cụ thể về một văn bản cụ thể (bởi vì,
tri thức cụ thể kia rõ ràng sẽ bị/ được thay đổi qua từng lần đọc, qua từng trường
hợp đọc). Đưa tinh thần lý thuyết liên văn bản vào dạy học đọc hiểu văn bản,
chúng ta sẽ nhận ra những bất cập của kiểu “tổng kết” bài học lâu nay, của cách
thiết kế nội dung cho mục Yêu cầu cần đạt hay mục Ghi nhớ trong sách giáo
khoa Ngữ văn hiện hành. Chính mục tiêu dạy học mới yêu cầu việc vận dụng kỹ
thuật liên văn bản trong dạy học đọc hiểu văn bản văn học ở THPT hiện nay.
Cụ thể, dạy đọc hiểu đoạn trích Người lái đị Sơng Đà của Nguyễn Tn
giáo viên sẽ tổ chức 5 hoạt động, mỗi hoạt động lại có những mục tiêu riêng:
Mục tiêu của hoạt động khởi động là: Hoạt động khởi động giúp tạo tâm thế học
tập cho học sinh. Hoạt động này nhằm giúp học sinh ý thức được nhiệm vụ học

17


tập, hứng thú học tập. Giáo viên sẽ tạo tình huống học tập được dựa trên việc
huy động những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm, hiểu biết của bản thân về các
vấn đề có liên quan đến nội dung bài học (bài mới), giúp các em nhận ra cái chưa
biết, cái muốn biết. Từ đó, người học có nhu cầu tìm hiểu về chủ đề. Thời gian
tối đa cho hoạt động này chỉ có 5 phút. Như vậy, từ đó giáo viên cần có cân nhắc,
lựa chọn trong việc kết nối văn bản, có thể chọn một trong số những gợi ý sau:
Nhắc gợi những tác phẩm cùng đề tài, cùng tác giả, cùng thể loại, cùng giai
đoạn…Như vậy, khi kết hợp các văn bản, người dạy cần chú ý tới mục tiêu của
các hoạt động để có sự vận dụng phát huy hiệu quả cao nhất có thể cho người
học.
2.2. Giữ vai trị chủ đạo của văn bản chính
Một điều quan trọng cần chú ý là trong khi thực hiện việc kết “kết nối văn
bản văn học với văn bản văn học, với những văn bản thuộc các loại hình sáng tác
khác, với văn bản đời sống, văn bản văn hóa” - như đã trình bày ở phần trên trong dạy đọc hiểu văn bản văn học ở THPT, người giáo viên đừng để cho các
“văn bản ngoại tại” ấy “lấn át”, làm nhòe mờ đi văn bản đang được dạy học - chủ
thể tiếp cận và khám phá của người dạy và người học.
Mặt khác, thực hiện phương châm "giữ vai trị chủ đạo của văn bản chính"
cũng có nghĩa là “khơng để khách lấn át chủ” hướng tới mục tiêu thực hiện vừa
đúng thời gian quy định cho một tiết học cùng với việc quán triệt “mục tiêu cần
đạt” luôn được xác định nghiêm ngặt cho một tiết dạy học đọc hiểu văn bản văn
học ở THPT. Nếu người giáo viên Ngữ Văn quá say sưa với việc làm “nổ tung
văn bản”, sa đà vào việc cùng với học sinh thực hiện “kết nối” với các văn bản thành tố văn bản ngoài văn bản văn học được dạy học đến mức để “khách lấn át
chủ” thì khó tránh khỏi nguy cơ “cháy giáo án” đồng thời khó hiện thực hóa
“mục tiêu cần đạt” của tiết học cũng như dẫn đến việc học sinh khó phân biệt
được những tìm tịi, phát hiện sáng giá với những kiến giải tầm thường, không
hàm chứa một nhận thức nào mang ý nghĩa, giá trị đáng kể.
Điều này ta có thể được thấy rất rõ qua đoạn trích Ai đã đặt tên cho dịng

sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường. Huế và Sông Hương vốn là hai đề tài rất
quen thuộc trong các loại hình nghệ thuật của Việt Nam. Khơng chỉ là mảnh đất
màu mỡ của văn học mà nó cịn là miền hứa của hội họa, âm nhạc, thi ca…Trong
nền văn học Việt Nam, đã có khơng biết biết bao tác phẩm viết về Huế, về
Hương giang rất hay, rất đắc sắc, rất ấn tượng. Và Hoàng Phủ Ngọc Tường là
một trong số đó. Trong q trình dạy đoạn trích, người dạy không được say sưa,
mải miết kết nối hết văn bản này đến văn khác….quên đi vai trò chủ đạo của
đoạn trích.
2.3. Đảm bảo cách thể hiện hiện riêng của văn bản đang học

18


So sánh là cách đặt các đối tượng khác nhau cạnh nhau để soi chiếu, tìm
tịi và phát hiện ra điểm giống cũng như điểm khác nhau giữa chúng. Đối với hai
đoạn trích trên, người dạy có thể định hướng để người học có cái nhìn tồn diện
về văn bản đang học bằng cách so sánh với các cách thể hiện khác.
Đối với đoạn trích Người lái đị Sơng Đà của Nguyễn Tuân, giáo viên có thể giao
nhiệm vụ học tập để học sinh nhận diện được vấn đề này đó là: So sánh cách thể
hiện Sơng Đà trong sáng tác của Nguyễn Tuân với trong bức tranh Cảnh chợ Bờ,
trong những sáng tác khác về Sông Đà như: Đêm trị chuyện với Sơng Đà (Thúc
Hà); Với Sơng Đà (Vũ Quần Phương); Nhớ Sơng Đà (Quang Lâm)…Từ đó,
khẳng định nét độc đáo, sáng tạo trong cách thể hiện của Nguyễn Tuân so với
các tác giả khác.
Với đoạn trích Ai đã đặt tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường
cũng tương tự như thế. Giáo viên giao nhiệm vụ học tập để học sinh thực hiện:
So sánh cách thể hiện sơng Hương trong bút kí của Hồng Phủ Ngọc Tường với
cách thể hiện của các tác giả khác như: ảnh về sông Hương, tranh Thuyền trên
sông Hương của Tô Ngọc Vân, tranh Sông Hương của Lương Xuân Nhị, phim
Cô gái trên sông của Đặng Nhật Minh, nhạc của Dương Thiệu Tước, Đặng Thế

Phong, Trương Tuyết Mai, An Thuyên... Từ đó, học sinh sẽ nhận ra sự khác biệt
mang tính độc đáo trong cách thể hiện của nhà văn họ Hoàng xứ Huế.
2.4. Sử dụng tranh ảnh minh họa phù hợp
Dạy học trực quan (hay cịn gọi là trình bày trực quan) là phương pháp dạy học
sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật dạy học trước, trong
và sau khi nắm tài liệu mới, khi ôn tập, khi củng cố, hệ thống hóa và kiểm tra tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo. Phương pháp này được thể hiện dưới hình thức là minh họa
và trình bày: Minh họa thường trưng bày những đồ dùng trực quan có tính chất
minh họa như bản mẫu, bản đồ, bức tranh, tranh chân dung, hình vẽ trên
bảng,...Trình bày thường gắn liền với việc trình bày thí nghiệm, những thiết bị kĩ
thuật, chiếu phim đèn chiếu, phim điện ảnh, băng video. Trình bày thí nghiệm là
trình bày mơ hình đại diện cho hiện thực khách quan được lựa chọn cẩn thận về
mặt sư phạm. Nó là cơ sở, là điểm xuất phát cho quá trình nhận thức - học tập
của học sinh là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn. Thơng qua sự trình bày của
giáo viên mà học sinh khơng chỉ lĩnh hội dễ dàng tri thức mà còn giúp họ học tập
được những thao tác mẫu của giáo viên từ đó hình thành kĩ năng, kĩ xảo,...Quy
trình thực hiện được tiến hành như sau: giáo viên treo những đồ dùng trực quan
có tính chất minh họa hoặc giới thiệu về các vật dụng thí nghiệm, các thiết bị kĩ
thuật, ...và nêu yêu cầu định hướng cho sự quan sát của học sinh. Người dạy
trình bày các nội dung trong lược đồ, sơ đồ, bản đồ,... tiến hành làm thí nghiệm,
trình chiếu các thiết bị kĩ thuật, phim đèn chiếu, phim điện ảnh,.., yêu cầu một số
học sinh trình bày lại, giải thích nội dung sơ đồ, biểu đồ, trình bày những gì thu
19


nhận được qua thí nghiệm hoặc qua những phương tiện kĩ thuật, phim đèn chiếu,
phim điện ảnh. Từ những chi tiết, thông tin học sinh thu được từ phương tiện
trực quan, giáo viên nêu câu hỏi yêu cầu học sinh rút ra kết luận khái quát về vấn
đề mà phương tiện trực quan cần chuyển tải.
Đối với hai đoạn trích: Người lái đị Sơng Đà của Nguyễn Tn và Ai đã

đặt tên cho dịng sơng? của Hồng Phủ Ngọc Tường thì đây là thao tác khá thuận
lợi, dễ dàng và mang lại hiệu quả cao trong dạy học. Cả hai trích đoạn đều là
những lát cắt đặc sắc trong tổng thể văn bản. Ở mỗi đoạn trích, người dạy có thể
minh họa bằng nhiều dụng cụ trực quan, hỗ trợ rất lớn cho giờ dạy của mình.
Chẳng hạn, ở đoạn trích “Người lái Sơng Đà", giáo viên có thể cho học sinh
xem những tranh ảnh về chân dung tác giả, bìa các tác phẩm của ơng, hình ảnh
Sơng Đà, hình ảnh người lái đị trên Sơng Đà, cảnh hai bên bờ sơng…..Đoạn
trích Ai đã đặt tên cho dịng sơng? cũng tương tự như thế. Giáo viên có thể trình
chiếu hình ảnh về xứ Huế mộng mơ, thành quách, đền chùa miếu mạo, sông
Hương, núi Ngự, cảnh hai bên bờ sông….Học sinh có thể tư duy, cảm nhận tác
phẩm từ những chất liệu có liên quan như thế một cách chủ động hơn.
3. Kết quả vận dụng
Để kiểm nghiệm tính thực tế của đề tài, chúng tôi đã tiến hành khảo sát học sinh
khối 12 trường THPT Thạch Thành 4 tại những thời điểm khác nhau, đối tượng học
sinh khác nhau. Cũng là đối tượng ở các lớp khối A, B; khối C, D và các lớp thường
nhưng qua 2 năm học khác nhau: năm học 2016 – 2017 khi chưa vận dụng kĩ thuật
liên văn bản để đọc hiểu 2 đoạn trích; và năm học 2017 -2018 khi vận dụng kĩ thuật
liên văn bản để đọc hiểu 2 đoạn trích Người lái đị Sơng Đà và Ai đã đặt tên cho
dịng sơng?. Kết quả khảo sát vì thế mang tính khách quan và tồn diện hơn.
• Kết quả khảo sát
* Đối với lớp khối A, B
Năm học 2016 - 2017
Năm học 2017 - 2018
Kết quả tổng hợp
Lớp 12A1 Lớp 12A2 Lớp 12C1 Lớp 12C2
38 hs
36 hs
34 hs
37 hs
HS

%
HS % HS % HS
%
Số HS nắm được kiến thức cơ
bản về thể loại bút kí và tùy bút
17
44, 13 36, 23 67,6 22 59,4
7
1
Số HS nắm được kiến thức cơ
bản về tác phẩm (Nội dung và
15
39, 15 41. 25 73,5 21 56,7
nghệ thuật)
4
6
Số HS nắm được các yếu tố
14
36, 15 41, 22 64,7 20 54,0
ngồi văn bản.
8
6
Số HS có hứng thú học hai đoạn 15
39, 14 38, 25 73,5 21 56,7

20


trích


4

9

* Đối với lớp khối C, D
Kết quả tổng hợp
Số HS nắm được kiến thức cơ
bản về thể loại bút kí và tùy
bút
Số HS nắm được kiến thức cơ
bản về tác phẩm (Nội dung và
nghệ thuật)
Số HS nắm được các yếu tố
ngồi văn bản.
Số HS có hứng thú học hai
đoạn trích

Năm học 2016 - 2017
Lớp 12A3 Lớp 12A4
37 hs
40 hs
HS
%
HS %

Năm học 2017 - 2018
Lớp 123 Lớp 12C4
34 hs
36 hs
HS % HS

%

22

55

16

41,
0

30

78,9

25

71,
4

21

52,
5
52,
5
47,
5

18


46,
1
42,
5
46,
1

32

84,2

27

28

73,6

26

32

84,2

26

77,
1
74,
2

74,
2

21
19

17
18

* Đối với lớp bình thường
Kết quả tổng hợp
Số HS nắm được kiến thức cơ
bản về thể loại bút kí và tùy
bút
Số HS nắm được kiến thức cơ
bản về tác phẩm (Nội dung và
nghệ thuật)
Số HS nắm được các yếu tố
ngồi văn bản.
Số HS có hứng thú học hai
đoạn trích

Năm học 2016 - 2017
Lớp 12A5 Lớp 12A6
40 hs
38 hs
HS
%
HS %


Năm học 2017 - 2018
Lớp 12C5 Lớp 12C6
36 hs
39 hs
HS % HS
%

12

30,
0

11

28,
9

19

52,
7

17

43,
5

14

35,

0
32,
5
35,
0

10

26,
3
23,
6
28,
9

21

58,
3
55,
5
58,
3

19

48,
7
46,
1

48,
7

13
14

9
11

20
21

18
19

* Phân tích kết quả khảo sát
Qua kết quả khảo có thể thấy so với năm học 2016 - 2017 tỉ lệ học sinh
nắm được kiến thức cơ bản về thể loại, về nội dung, nghệ thuật, các yếu tố ngoài
văn bản cũng như hứng thú học tập tăng lên rõ rệt. Cụ thể:
21


Bảng so sánh tỉ lệ giữa 2 năm học : đơn vị %
Năm học 2016 - 2017
Kết quả tổng hợp
Lớp
Lớp Lớp
khối
khối bình
A, B C , D thường


Năm học 2017 - 2018
Lớp
Lớp
Lớp
khối
khối
bình
A, B
C,D
thườn
g

Số HS nắm được kiến thức cơ
bản về thể loại bút kí và tùy
40,5
49,4
29,5
63,4
78,6
48,0
bút
Số HS nắm được kiến thức cơ
bản về tác phẩm (Nội dung và 40,5
50,6
30,8
64,7
84,3
53,3
nghệ thuật)

Số HS nắm được các yếu tố
39,1
49,4
28,2
59,1
77,1
50,7
ngồi văn bản.
Số HS có hứng thú học hai
39,1
48,0
32,1
64,8
82,9
53,3
đoạn trích
Qua bảng số liệu trên có thể thấy tỉ lệ học sinh nắm được các nội dung khảo
sát và hứng thú học tập sau khi vận dụng kĩ thuật liên văn bản trong việc đọc
hiểu hai đoạn trích Người lái đị Sơng Đà và Ai đã đặt tên cho dịng sơng? Tăng
lên gấp 1,5 lần. Rõ ràng kĩ thuật này đã giúp khơi gợi ở học sinh niềm đam mê
hứng thú và nâng cao hiệu quả cho tiết dạy.
• Kết quả vận dụng:
- Chúng tơi tiến hành cho học sinh làm bài làm văn 90 phút để kiểm tra khả năng
vận dụng cao của học sinh.
Đề bài: Qua hình tượng nhân vật ơng lái đị trong đoạn trích Người lái đị
Sơng Đà (Sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 12, tập 1, Nxb Giáo dục năm 2008) hãy
làm sáng tỏ nhận định sau:"…phẩm chất tuỳ bút của Nguyễn Tuân…vẫn là sự
hiểu biết thâm hậu về đời sống, văn hoá, con người Việt Nam".
- Sau khi thu và tiến hành chấm bài của học sinh, chúng tôi thu được kết quả
như sau:


Lớp

Số HS

12C1
12C2
12C3

34
37
34

Điểm
Giỏi
5
3
1

Tỉ lệ
%
12,5
7,8
2,8

Bảng kết quả
Điểm số
Điểm Tỉ lệ Điểm
Khá
%

TB
25
62,5
10
22
55,0
13
17
48,5
17

Tỉ lệ
%
2,5
34,2
48,5

Điểm
yếu
0
0
0

Tỉ lệ
%
0
0
0
22



12C4
12C5

36
36

3
1

7,5
3,0

27
12

62,5
36,3

10
16

2,5
48,4

0
4

0
12,1


Từ kết quả của các bài kiểm tra trên có thể thấy: Tỉ lệ học sinh đạt điểm
khá giỏi khá cao. Học sinh từ chỗ hiểu bài, nẵm vững kiến thức đã được học, vận
dụng vào trong bài kiểm tra một cách linh hoạt và hiệu quả. Học sinh không chỉ
kiểm chứng được chất và lượng của việc học mà còn phát triển được những kĩ
năng cơ bản, những năng lực thiết yếu khác có ích cho thực tế cuộc sống. Đánh
giá kết quả học tập đối với các môn học và hoạt động giáo dục ở mỗi lớp và sau
cấp học là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học,
có vai trị quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập của học sinh. Hay nói
cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kỹ năng và thái độ
trong bối cảnh có ý nghĩa .
C . KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. Kết luận
Liên văn bản là một trong những khái niệm lý thuyết trọng yếu có tầm ảnh
hưởng sâu xa trong hệ thống lý thuyết văn học thế giới suốt nửa sau thế kỷ XX
và những năm đầu thế kỷ XXI. Đối với giáo viên dạy Ngữ Văn ở bậc THPT,
không nên xem lý thuyết liên văn bản chỉ mang tính thời thượng, phong trào mà
cần biết tiếp cận, sử dụng nó như một phương thức hiệu quả nhằm góp phần đổi
mới phương pháp dạy học Ngữ Văn, đặc biệt là dạy học đọc hiểu văn bản văn
học. Cho đến nay, việc vận dụng kỹ thuật liên văn bản trong dạy đọc hiểu văn
bản văn học ở trường THPT hầu như cịn ít được nghiên cứu, thể nghiệm trong
các nhà trường. Trong cơng trình nhỏ này, chúng tơi muốn thông qua việc thuyết
minh làm rõ các khái niệm then chốt của lý thuyết liên văn bản; phân tích khả
năng, điều kiện và ý nghĩa của việc vận dụng kỹ thuật liên văn bản; tìm hiểu thực
tế vận dụng kỹ thuật liên văn bản; nghiên cứu phạm vi, nội dung và phương pháp
vận dụng đồng thời tiến hành thực nghiệm để khả năng vận dụng kỹ thuật liên
văn bản nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học đọc hiểu văn bản văn học ở
trường THPT. Ý thức rõ điều này, bản thân tơi đã tìm tịi, vận dụng và thực sự đã
mang lại hiệu quả trong quá trình giảng dạy. Tôi đã trực tiếp trao đổi nội dung
của đề tài này với nhiều đồng nghiệp và nhận được nhiều phản hồi đồng quan

điểm. Đề tài được hội đồng khoa học Trường THPT Thạch Thành 4 đánh giá
cao, có khả năng vận dụng hiệu quả trong giảng dạy các đoạn trích trên trong
chương trình Ngữ văn lớp 12 THPT. Đặc biệt, trong bối cảnh nền giáo dục đang
có những bước chuyển mình đáng kể về thay đổi phương pháp dạy học, chương
23


trình Sách giáo khoa. Tuy vậy, đề tài cũng khơng tránh khỏi những hạn chế. Tôi
rất mong bạn bè, đồng nghiệp và Hội đồng khoa học cấp tỉnh góp ý, bổ sung,
phản biện để bản thân tơi tiếp tục hồn thành đề tài này.
II. Đề xuất
1. Với giáo viên khi thực hiện đề tài.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần được trang bị thêm những kiến thức
về văn hóa, lịch sử, địa lý, xây dựng, điện ảnh, thể thao, quân sự, âm nhạc, hội
họa…cũng như các phương pháp dạy - học cụ thể trong từng trích đoạn. Từ đó,
người dạy phải hết sức linh hoạt, có sự lựa chọn phương pháp phù hợp cho từng
đối tượng học sinh. Vận dụng kĩ thuật liên văn bản vào hai đoạn trích trên là
hướng tiếp cận độc đáo, sẽ luôn tạo được nhu cầu, hứng thú, thẩm mỹ cho học
sinh. Trong quá trình dạy - học, học sinh vừa được trang bị những kiến thức về
thể loại ký (tùy bút, bút kí) trên cơ sở đó trang bị cho học sinh những kiến thức ở
các lĩnh vực khác nhằm trang bị cho các em kĩ năng sống, hiểu biết mang tính
tổng hợp và phát triển các năng lực thiết yếu trong đời sống của xã hội hiện đại
hơm nay. Nó đáp ứng như cầu tăng cường hội nhập, giao lưu văn hóa giữa các
dân tộc, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc đã và đang
được đặt ra như một vấn đề cấp thiết.
Tôi đã áp dụng phương pháp dạy – học này ở các khối lớp 12 trong năm
học 2017 - 2018 tại trường THPT Thạch Thành 4. Các đồng nghiệp trong tổ và
đều tán thành, đánh giá cao và khẳng định tính khả thi của đề tài này.
2. Với học sinh khi học và vận dụng
"Lý thuyết liên văn bản cho thấy việc “khai sinh ra người đọc” là để tạo nên

tính đối thoại giữa tác giả - người đọc. Mỗi người đọc sẽ tạo ra cho mình một
văn bản phái sinh…". Việc học tập các trích đoạn sử thi từ góc nhìn văn hóa sẽ
khiến cho bài học khơng khơ khan, nhàm chán mà nó ln tạo được nhu cầu,
hứng thú, thẩm mỹ cho học sinh. Tạo bầu khơng khí dân chủ trong lớp học, kích
thích sự tham gia đóng góp ý kiến xây dựng bài, và sẽ tạo ra nhiều mới mẻ trong
nhận thức của các em. Vì thế trong quá trình tiếp nhận các em cần chủ động đưa
ra các ý kiến, quan điểm của mình bổ sung và tự hồn thiện kiến thức cho bản
thân. Từ tự phát đến tự giác, từ kiến thức bên ngồi được chuyển hóa vào đời
sống tâm hồn của học sinh đó chính là mục đích cao nhất của tơi khi thực hiện đề
tài này.
3. Với hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài trong Sách giáo khoa
Câu hỏi đưa ra trong phần Hướng dẫn học bài có liên quan chặt chẽ đến q
trình dạy của giáo viên và học của học sinh. Theo quan sát của tơi, trong số mười
câu hỏi thì có tới tám câu thiên về tìm hiểu phân tích, tái hiện vẻ ðẹp của hai
dịng sơng và hành động, tâm trạng nhân vật ơng lái đị và đặc sắc nghệ thuật.
Chỉ có hai câu hỏi trong mỗi đoạn trích có đề cập đến việc vân dụng kiến thức
24


liên văn bản, đó là: Ở đoạn trích Người lái đị sơng Đà có câu: Chứng minh rằng
Nguyễn Tn đã quan sát cơng phu và tìm hiểu kĩ càng khi viết về sơng Đà và
người lái đị sơng Đà? (Ngữ văn 12, tập một, Nxb Giáo dục, 2008, tr.192) ; ở
đoạn trích Ai đã đặt tên cho dịng sơng? có câu: Tác giả đã tơ đậm những phẩm
chất gì của sông Hương trong lịch sử và thơ ca? (Ngữ văn 12, tập một, Nxb
Giáo dục, 2008, tr.203). Theo tôi, sách giáo khoa cần điều chỉnh bổ sung nhiều
câu hỏi liên quan tới liên văn bản để tăng thêm tính hứng thú tìm tịi, phám phá,
phát hiện và nâng cao kiến thức - kĩ năng cho học sinh cũng như mang đến cái
nhìn tổng hợp khái qt và tồn diện hơn cho các em.
Xin trân trọng cảm ơn!


25


×