Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

ĐIỀU CHỈNH CHIẾN LƯỢC ĐỐI NGOẠI CỦA TRUNG QUỐC TỪ SAU ĐẠI HỘI 19 ĐẢNG CỘNG SẢN TRUNG QUỐC ĐẾN NAY VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.31 KB, 42 trang )

ĐIỀU CHỈNH CHIẾN LƯỢC ĐỐI NGOẠI CỦA TRUNG QUỐC TỪ SAU
ĐẠI HỘI 19 ĐẢNG CỘNG SẢN TRUNG QUỐC ĐẾN NAY
VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG
I. Bối cảnh thế giới và khu vực Châu Á-Thái Bình Dương tác động đến
điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc
1. Nước Mỹ dưới thời Donald Trump có nhiều điều chỉnh chính sách
quan trọng, tác động mạnh đến cục diện quốc tế, khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương cũng như quan hệ Mỹ - Trung
Từ khi Donald Trump lên cầm quyền tháng 1/2017, Mỹ đã thực hiện nhiều
điều chỉnh về đối ngoại theo hướng: (i) Thực dụng, đặt lợi ích Mỹ lên trên hết, coi
trọng lợi ích kinh tế ngắn hạn hơn giá trị và chiến lược dài hạn, triển khai đối
ngoại trước hết nhằm giải quyết các vấn đề trong nước (việc làm, thương mại, đầu
tư…); Sẵn sàng đổi chác, kể cả những vấn đề nhạy cảm trong quan hệ với cả đối
thủ và đồng minh, đối tác; (ii) Coi trọng quân sự hơn ngoại giao, song phương
hơn đa phương (tăng 9-10% ngân sách quốc phòng, giảm 30% ngân sách ngoại
giao và bảo vệ môi trường); (iii) Phủ nhận di sản của chính quyền cũ (tuyên bố
“khai tử” chính sách “tái cân bằng”, quyết định rút khỏi TPP, quay lại chính sách
cũ với Cuba, rút khỏi Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA),…); (iv) Khó
lường, dễ thay đổi do đang ở trong giai đoạn định hình chính sách, vấp phải những
khó khăn và lực cản lớn từ nội bộ Mỹ và chịu tác động mạnh bởi cá tính của
Trump (có phần thất thường, bốc đồng, hiếu thắng, thích đề cao cá nhân và dễ dị
ứng trước các chỉ trích).
Những điều chỉnh nói trên đã làm giảm độ tin cậy của các nước, nhất là các
đồng minh, đối tác của Mỹ, ảnh hưởng tiêu cực đến sức mạnh mềm và vai trò lãnh
đạo toàn cầu của Mỹ. Ở khu vực CA-TBD, việc Mỹ rút khỏi TPP đã tạo “khoảng
trống quyền lực” về kinh tế để Trung Quốc tranh thủ khai thác. Ở tầm toàn cầu,
1


việc chính quyền Trump thực hiện chính sách bảo hộ thương mại, giảm cam kết
quốc tế ở góc độ nào đó đã tạo điều kiện cho Trung Quốc thúc đẩy hình ảnh “lãnh


đạo” toàn cầu hóa, giành giật quyền dẫn dắt các tập hợp lực lượng để phục vụ ý đồ
vươn lên trở thành cường quốc thế giới sau này.
Sang đến năm thứ hai của nhiệm kỳ, Tổng thống Trump đã tiếp tục có nhiều điều chỉnh chính
sách đối với Trung Quốc. Trong chiến lược An ninh Quốc gia (12/2017) và Chiến lược Quân sự (1/2018),
Mỹ đã lần đầu tiên công khai xác định Trung Quốc là đối thủ chiến lược. Trong lĩnh vực khoa học công
nghệ, Mỹ liên tục gây sức ép để kiềm chế sự vươn lên của Trung Quốc, ngăn chặn, vô hiệu hóa Kế hoạch
“Made in China 2025” mà Trung Quốc đề ra từ năm 2015, điển hình là cấm các tập đoàn viễn thông hàng
đầu của Trung Quốc như ZTE nhập linh kiện hiện đại (chip, vi mạch) từ các công ty của Mỹ như Intel,
Qualcom. Về kinh tế - thương mại, Mỹ liên tục “ra đòn” với Trung Quốc bằng việc áp thuế nhập khẩu cao
đến nay là 250 tỷ USD hàng Trung Quốc xuất vào Mỹ năm 2018, đang có kế hoạch tiếp tục áp thuế lên
lượng hàng hóa trị giá hàng trăm tỷ USD của Trung Quốc 1. Trên thực tế, Mỹ đã phát động cuộc chiến
tranh thương mại với Trung Quốc trên quy mô lớn. Về các vấn đề an ninh khu vực, khác với các chính
quyền trước, chính quyền Trump đang thay đổi cách tiếp cận về vấn đề bán đảo Triều Tiên, hòa dịu hơn
và đối thoại trực tiếp với Triều Tiên nhằm vừa giải trừ hạt nhân, vừa tách Triều Tiên ra khỏi quỹ đạo
truyền thống của Trung Quốc. Với các vấn đề Đài Loan và Biển Đông, chính quyền Trump cũng ngày
càng thể hiện cách tiếp cận cứng rắn, không ngại va chạm.

Tất cả những điều chỉnh nói trên của Mỹ đều trực tiếp tác động đến môi
trường chiến lược xung quanh Trung Quốc cũng như ý đồ vươn lên trở thành
cường quốc thế giới vào giữa thế kỷ XXI như “hai mục tiêu trăm năm” đã đề ra.
2. Quan hệ giữa các nước lớn vẫn trong khuôn khổ vừa hợp tác vừa đấu
tranh, nhưng mặt cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt
Thay đổi nhanh chóng trong tương quan sức mạnh giữa Mỹ và các trung tâm
quyền lực khác khiến cạnh tranh chiến lược nước lớn ngày càng quyết liệt. Trước
khi ông Trump cầm quyền, bối cảnh nước Mỹ đang suy yếu tương đối, Trung Quốc
và Nga là hai nước lớn đang thách thức mạnh mẽ nhất trật tự thế giới do Mỹ và

1

Mỹ đã áp thuế bổ sung 25% lên 50 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc, và sau đó tiếp tục áp thuế từ 10 đến 25% lên 200

tỷ USD hàng hóa của Trung Quốc. Đồng thời, Tổng thống Trump còn dự kiến tiếp tục áp thêm thuế lên lượng hàng
267 tỷ USD của Trung Quốc.

2


phương Tây chi phối, khiến mặt cạnh tranh chiến lược trong quan hệ Trung – Mỹ
và Nga – Mỹ ngày càng rõ.
Cho nên, cần nhận thức rõ ràng rằng, dù là thao tác trên khía cạnh nào, bản
chất vấn đề là Trung – Mỹ và Nga – Mỹ cạnh tranh chiến lược. Ngoài mâu thuẫn
lợi ích địa – chiến lược, các lực lượng chống Trung Quốc và chống Nga trong nội
bộ Mỹ tương đối mạnh, khiến bất cử Tổng thống Mỹ nào cũng khó có thể thực
hiện chính sách hòa dịu với Trung Quốc và Nga. Trái với kỳ vọng ban đầu khi
Trump mới đắc cử, đến nay triển vọng sớm cải thiện quan hệ Mỹ - Nga hoặc Mỹ
“chơi con bài Nga” trong việc kiềm chế chiến lược Trung Quốc (như Nixon từng
“chơi con bài Trung Quốc” để kiềm chế Liên Xô) là rất khó. Mặc dù Trump vẫn để
ngỏ khả năng hợp tác chiến lược với Nga, song những đấu đá nội bộ và sự cản phá
quyết liệt của lực lượng bảo thủ “bài Nga” trong nội bộ Mỹ (nhất là việc không
ngừng xới xáo vấn đề Nga hậu thuẫn ê kíp tranh cử giúp Trump thắng cử năm
2016) và đảng Cộng hòa khiến Trump rất khó thực hiện ý muốn sớm cải thiện quan
hệ Mỹ - Nga. Đáng chú ý, sức ép cấm vận kéo dài của Mỹ và phương Tây sau vụ
Nga sáp nhập Crưm của Ukraina buộc Nga vẫn có nhu cầu ngả về phía Trung Quốc
cả về kinh tế và an ninh – chiến lược để đối trọng với Mỹ.
Điểm mới là xu hướng chính trị quyền lực trong quan hệ nước lớn rõ hơn
trước. Các nước lớn sẵn sàng sử dụng vũ lực với các nước nhỏ là “vệ tinh” của đối
thủ để răn đe, “thử” giới hạn của nhau, nhất là trong quan hệ Mỹ - Nga và Mỹ Trung. Các vụ Mỹ oanh kích Syria, và 3 lần điều tàu sân bay đến gần bán đảo Triều
Tiên trong năm 2017 là thông điệp răn đe đối với Nga, và Trung Quốc. Tuy nhiên,
các nước lớn vẫn tìm cách hợp tác trong những vấn đề có chung lợi ích như chống
khủng bố và phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Mặt cạnh tranh cũng có giới hạn là
không dẫn đến đối đầu hay đổ vỡ quan hệ; mặt hợp tác có giới hạn là không/chưa

dẫn tới những thỏa hiệp lớn mang tính chiến lược.
3


3. Trào lưu dân túy, dân tộc chủ nghĩa đang nổi lên mạnh mẽ, tác động
đáng kể đến tiến trình toàn cầu hóa, khu vực hóa, chủ nghĩa đa phương cũng
như vai trò của luật pháp quốc tế
Chủ nghĩa dân túy, dân tộc đang trỗi dậy mạnh mẽ, tác động đến chính trị
nội bộ và chính sách đối ngoại của nhiều nước. Điểm mới là làn sóng này đang trỗi
dậy mạnh mẽ ở chính các khu vực và các nước tư bản phát triển từng cổ xúy mạnh
mẽ nhất cho toàn cầu hóa như châu Âu, Bắc Mỹ. Trên chính trường Mỹ, Anh và
nhiều quốc gia thành viên chủ chốt của EU, các lực lượng dân túy hoặc đã lên cầm
quyền, hoặc giành được vai trò lớn hơn. Trong khi đó, các nước đang phát triển,
nhất là các quốc gia Châu Á lại thể hiện quan điểm bảo vệ toàn cầu hóa (theo khảo
sát, 75% người Trung Quốc và 68% người Ấn Độ có quan điểm tích cực về toàn
cầu hóa).
Dưới tác động của trào lưu dân túy và dân tộc chủ nghĩa, các nước có xu
hướng coi trọng lợi ích quốc gia – dân tộc hơn lợi ích chung của khu vực và quốc
tế. Đặc biệt, việc Mỹ dưới thời Donald Trump giảm quan tâm, giảm cam kết và
nguồn lực cho Liên hợp quốc, ứng phó biến đổi khí hậu,… cũng tác động mạnh
đến cách hành xử của các nước theo hướng giảm tin cậy vào các thể chế đa phương
và vai trò của luật pháp quốc tế, coi trọng hơn lợi ích dân tộc vị kỷ và tranh thủ các
nước lớn.
4. Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục đi đầu về phát triển, liên kết
kinh tế nhưng an ninh ngày càng bất ổn; cục diện “lưỡng siêu, đa cường” ngày
càng định hình rõ với vai trò chi phối của Mỹ và Trung Quốc
So với cục diện thế giới, cục diện khu vực Châu Á-TBD đang chuyển động
nhanh hơn do một số yếu tố: (i) Đây là khu vực phát triển năng động nhất trên thế
giới, có triển vọng trở thành trung tâm quyền lực mới của thế giới trong thế kỷ 21,
có sự hiện diện của hầu hết các cường quốc lớn mạnh nhất thế giới đang cạnh tranh

chiến lược quyết liệt với nhau; (ii) Đây là một trong những khu vực tập trung nhiều
4


nhất các điểm nóng tiềm tàng liên quan trực tiếp đến cạnh tranh chiến lược nước
lớn cũng như các thách thức an ninh phi truyền thống trên thế giới; (iii) So với các
khu vực khác như Châu Âu, Châu Mỹ, các thể chế đa phương ở khu vực Châu ÁThái Bình Dương chưa phát triển tới mức có đủ khả năng xử lý các thách thức an
ninh ở khu vực. Ở đây cũng chưa hình thành hệ thống an ninh tập thể như nhiều
khu vực khác trên thế giới.
Mỹ và Trung Quốc có sức mạnh tổng thể vượt trội so với các cường quốc
khác là Nhật Bản, Nga, Ấn Độ. Chỉ Mỹ và Trung Quốc có quy mô GDP trên
10.000 tỷ USD (năm 2016, GDP Mỹ là 18.561 tỷ USD và Trung Quốc là 11.391 tỷ
USD so với khoảng 4.900 tỷ USD của Nhật Bản, 2.500 tỷ USD của Ấn Độ và
1.500 tỷ USD của Nga). Mỹ và Trung Quốc cũng là hai cường quốc có ngân sách
quân sự lớn nhất thế giới: năm 2016, Mỹ chi 596 tỷ USD, chiếm 40% chi phí quân
sự toàn cầu trong khi con số của Trung Quốc là 147 tỷ USD và 9,7%.
Đến thời điểm 2017, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất
của trên 130 quốc gia, vùng lãnh thổ. Trong đó, gần như tất cả các nước khu vực,
kể cả các đồng minh thân cận của Mỹ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc…đều có quan
hệ thương mại số 1 với Trung Quốc. Đây là lợi thế quan trọng giúp Trung Quốc có
đòn bẩy quan trọng trong tập hợp lực lượng ở khu vực. Ngược lại, Mỹ vẫn có thế
mạnh về đầu tư (chỉ đứng sau Nhật Bản, EU về đầu tư ở Đông Nam Á) và vẫn chi
phối hệ thống “trục và nan hoa” – xương sống của cấu trúc an ninh khu vực Châu
Á-TBD. Nhìn cơ bản, các nước khu vực vẫn “đi với Trung Quốc về kinh tế, đi với
Mỹ về an ninh”.
Khu vực Đông Á đã trở thành nơi tập trung nhiều điểm nóng an ninh truyền
thống và phi truyền thống nhất thế giới trong khi cấu trúc khu vực vẫn đang trong
quá trình định hình, các thể chế đa phương còn yếu và thiếu tính ràng buộc, chưa
đủ khả năng giải quyết các vấn đề ở khu vực. Bốn điểm nóng tiềm tàng khả năng
xảy ra xung đột ở khu vực là bán đảo Triều Tiên, biển Hoa Đông, eo biển Đài Loan

5


và Biển Đông đều liên quan trực tiếp đến cạnh tranh chiến lược Trung - Mỹ và
chắc chắn sẽ lôi kéo sự can thiệp quân sự trực tiếp của ba cường quốc lớn nhất thế
giới là Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản trong kịch bản nổ ra xung đột. Trong các
điểm nóng đó, bán đảo Triều Tiên và Biển Đông được coi là các điểm nóng có
nhiều rủi ro xảy ra xung đột nhất.
ASEAN hình thành Cộng đồng với dân số 630 triệu USD và ở thời điểm triển
khai xây dựng Cộng đồng đạt tổng GDP đạt 2.400 tỷ USD (đứng thứ 7 thế giới và
dự báo sẽ lên vị trí nền kinh tế lớn thứ tư thế giới vào năm 2050). Vai trò của
ASEAN vẫn được các nước lớn và các đối tác coi trọng. Tuy nhiên, ASEAN nhưng
chưa trở thành thực thể thống nhất có vai trò lớn hơn trước, thậm chí “vai trò trung
tâm” của ASEAN đang có dấu hiệu giảm do thách thức nội bộ và điều chỉnh chính
sách của các nước lớn. Trước Đại hội XIX, Cộng đồng ASEAN đã được thành lập
hơn một năm, song mức độ hợp tác thực chất còn tương đối thấp. ASEAN cơ bản
vẫn là một tổ chức liên chính phủ, chứ chưa thực sự là một Cộng đồng với các
chính sách chung. Mức độ gắn kết kinh tế nội khối rất thấp: thương mại giữa các
nước ASEAN chỉ chiếm khoảng 24% tổng thương mại của ASEAN trong khi tỷ lệ
này của EU là khoảng 60%.
ASEAN đang gặp thách thức cả từ bên trong và bên ngoài. Về các vấn đề
bên trong, trừ Singapore, 4 trong số 5 nước thành viên sáng lập ASEAN đang gặp
vấn đề trong nước cần giải quyết. Các nước như Campuchia, Lào, Myanmar cũng
đối mặt với nhiều khó khăn khác nhau liên quan chính trị, kinh tế, và chủ nghĩa ly
khai do mâu thuẫn tôn giáo và sắc tộc, trong đó Campuchia và Lào đang phụ thuộc
nặng vào Trung Quốc. Thực trạng đó đang ảnh hưởng không thuận tới đoàn kết,
đồng thuận ASEAN, nhất là về vấn đề Biển Đông.
Đặc biệt, vấn đề Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp cả trên thực địa cũng
như về mặt chính trị - ngoại giao, pháp lý và tập hợp lực lượng. Trung Quốc đã
6



hoàn thành việc tôn tạo các cấu trúc ở Trường Sa2; một mặt tăng cường hiện diện
trên thực địa, ráo riết kết hợp quân sự hóa với dân sự hóa nhằm buộc các nước khu
vực dần chấp nhận nguyên trạng mới, mặt khác tỏ hòa dịu về ngoại giao nhằm
phân hóa các nước khu vực, chia rẽ ASEAN, không để ASEAN trở thành thực thể
thống nhất có thể phần nào đối trọng với Trung Quốc, ngăn các nước ASEAN ngả
về phía Mỹ, ngăn Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ… can dự vào vấn đề Biển Đông. Mỹ chưa
coi Biển Đông là ưu tiên trong chính sách khu vực, vẫn tập trung xử lý các vấn đề
quan trọng hơn với Mỹ là hạt nhân Triều Tiên và thâm hụt thương mại với Trung
Quốc. Trong năm 2017, mặc dù tăng cường hiện diện quân sự ở Biển Đông hơn so
với thời Obama, song chính quyền Trump vẫn chưa có chính sách rõ ràng, bài bản
về Biển Đông, chưa quan tâm đến tập hợp lực lượng chính trị - ngoại giao hay kết
hợp tổng thể các biện pháp quân sự, chính trị - ngoại giao và kinh tế - thương mại
để ngăn chặn các hành vi vi phạm LPQT của Trung Quốc ở Biển Đông. Các nước
lớn khác như Nhật Bản, Ấn Độ và một số cường quốc trong EU có dấu hiệu muốn
can dự sâu hơn vào Biển Đông, nhưng do hạn chế nguồn lực nên không đủ khả
năng tác động đến hành vi của Trung Quốc.
Thực trạng trên khiến cục diện Biển Đông ngày càng có lợi hơn cho Trung
Quốc và bất lợi hơn cho các nước tranh chấp trong ASEAN, trong đó có Việt Nam.
Khoảng cách so sánh lực lượng giữa Trung Quốc và các nước tranh chấp ở Biển
Đông đang ngày càng doãng ra theo hướng có lợi cho Trung Quốc. Sự thiếu chắc
chắn, tin cậy trong cam kết an ninh của Mỹ đối với khu vực cũng khiến nội bộ
ASEAN chia rẽ, suy yếu hơn về vấn đề Biển Đông. Không chỉ các nước thực dụng
như Campuchia, Philippines, mà cả một số nước vốn nguyên tắc như Singapore,
Indonesia cũng điều chỉnh cách tiếp cận theo hướng hòa dịu hơn với Trung Quốc.
Tình hình thực địa cũng như tập hợp lực lượng về vấn đề Biển Đông đang tạo thêm
2

Trong 3 năm từ 2014-2017, Trung Quốc đã tôn tạo tổng cộng 1.300 héc-ta trên 7 cấu trúc ở Trường Sa, lớn gấp 20

lần tổng diện tích tôn tạo của tất cả các nước có tranh chấp khác ở Trường Sa cộng lại trong 40 năm qua.

7


cơ sở cho Trung Quốc hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò” để khống chế, tiến
tới thực hiện mục tiêu độc chiếm Biển Đông.
II. Chiến lược quốc tế của Trung Quốc xác định tại Đại hội XIX
Báo cáo chính trị của Tập Cận Bình trình bày tại Đại hội lần thứ XIX
ĐCSTQ đã xác định những mục tiêu, nhiệm vụ to lớn và quan trọng cho giai đoạn
phát triển tiếp theo của Trung Quốc, trong đó chỉ rõ mục tiêu chiến lược đài hạn là
đưa Trung Quốc trở thành cường quốc xã hội chủ nghĩa hiện đại, có sức mạnh tổng
hợp quốc gia và tầm ảnh hưởng quốc tế đứng hàng đầu thể giới vào năm 2050
(hàm ý mục tiêu siêu cường rõ ràng). Để đạt được mục tiêu đó, Trung Quốc sẽ tiếp
tục bố cục ngoại giao toàn phương vị, và chính sách ngoại giao nước lớn đặc sắc
Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực, nhiều tầng nấc.
Báo cáo của Tập Cận Bình chỉ rõ, trong 5 năm qua kể từ sau Đại hội 18
(10/2012), Trung Quốc đã giành được những thành tựu to lớn mang tính lịch sử và
toàn diện, đem lại nhiều thay đổi sâu sắc, căn bản cho đất nước Trung Quốc; đã
giải quyết được những vấn đề nan giải mà nhiều năm qua chưa giải quyết được,
làm được những việc lớn mà nhiều năm qua chưa làm được. Trong đó, về kinh tế xã hội, Trung Quốc tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình cao, GDP từ
54.000 tỷ NDT năm 2012 (tương đương 8.130 tỷ USD) đã tăng lên 80.000 tỷ NDT
(12.000 tỷ USD), giữ vững vị trí nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, đóng góp trên
30% cho tăng trưởng GDP toàn cầu; kim ngạch thương mại, đầu tư ra nước ngoài
và dự trữ ngoại hối đều liên tục đứng đầu thế giới; thu nhập của người dân tăng cao
hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Về đối ngoại, bố cục ngoại giao toàn phương vị tiếp
tục được mở rộng và đi vào chiều sâu, ngoại giao nước lớn đặc sắc Trung Quốc
được triển khai toàn diện trên nhiều lĩnh vực, nhiều tầng nấc; môi trường bên ngoài
hòa bình, ổn định được giữ vững, tầm ảnh hưởng quốc tế, sức hiệu triệu và năng
lực kiến tạo của Trung Quốc được nâng cao một bước; Trung Quốc đã triển khai

8


một loạt sáng kiến lớn như “Vành đai và Con đường,” Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ
tầng châu Á; tổ chức nhiều sự kiện quan trọng như Hội nghị cấp cao APEC
(11/2014), Hội nghị Thượng đỉnh G20 tại Hàng Châu (9/2016), Diễn đàn cấp cao
họp tác quốc tế “Vành đai và Con đường” (5/2017), Hội nghị thượng đỉnh BRICS
tại Hạ Môn (9/2017); Trung Quốc đã có những đóng góp to lớn mới cho hòa bình
và phạt triển của khu vực và trên thế giói.
Tuy nhiên, Báo cáo của Tập Cận Bình trình bày tại Đại hội XIX cũng chỉ
rõ, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Trung Quốc vẫn còn tồn tại không ít
khó khăn, thách thức như tình trạng phát triển không cân bằng, không đồng đều
vẫn chưa được giải quyết; chất lượng và hiệu quả phát triển chưa cao; năng lực
sáng tạo chưa mạnh; trình độ phát triển của kinh tế thực sự còn thấp; nhiệm vụ bảo
vệ môi trường còn nặng nề; các vấn đề dân sinh như việc làm, giáo dục, y tế còn
không ít khó khăn; khoảng cách phát triển và thu nhập giữa thành thị và nông thôn
còn lớn; nhiều biện pháp cải cách chưa được triển khai đến nơi đến chốn; an ninh
quốc gia đang đứng trước tình hình mới phức tạp do các nhân tố không ổn định,
không xác định nổi lên, các điểm nóng khu vực diễn biến phức tạp, các nguy cơ an
ninh phi truyền thống tiếp tục lan rộng.
Trên cơ sở đánh giá, phân tích đầy đủ những thành tựu và hạn chế trong
giai đoạn 5 năm qua, Báo cáo chính trị của Tập Cận Bình trình bày tại Đại hội XIX
đã xác định những mục tiêu, nhiệm vụ to lớn và quan trọng cho giai đoạn phát triển
tiếp theo của Trung Quốc, trong đó chỉ rõ mục tiêu chiến lược dài hạn là đưa Trung
Quôc trở thành cường quốc xã hội chủ nghĩa hiện đại, có sức mạnh tổng hợp quốc gia
và tầm ảnh hưởng quốc tể đứng hàng đầu thế giới vào năm 2050. Tập Cận Bình nhấn
mạnh, Đại hội XIX đã đưa Trung Quốc bước vào thời đại mới 3 của CNXH đặc sắc
Trung Quốc và chuyển sang giai đoạn phát triển thứ ba, sau khi đất nước Trung
3


Trong Báo cáo chính trị do Tổng Bí thư Tập Cận Bình đọc tại Đại hội XIX, cụm từ “thời đại mới” xuất hiện 34
lần.

9


Quốc đã “đứng lên” (dưới thời đại Mao Trạch Đông), đã “giàu lên” (dưới thời đại
Đặng Tiểu Bình), nay sẽ “mạnh lên” (dưới thời đại Tập Cận Bình). Cùng với đó,
các mục tiêu chiến lược và chính sách đối ngoại của Trung Quốc thời gian tói cũng
sẽ có những chuyển biến mới, tác động sâu sắc tới cục diện thế giới, khu vực và
tình hình chính trị quốc tế trong những năm tiếp theo.
1. Mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược
Báo cáo chính trị của Tập Cận Bình tiếp tục khẳng định mục tiêu phát
triển chiến lược trong thời đại mới là thực hiện thắng lợi công cuộc hiện đại hóa
XHCN, đến giữa thế kỷ XXI Trung Quốc trở thành cường quốc XHCN hiện đại,
giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa và tươi đẹp; nhấn mạnh giai đoạn từ Đại hội
XIX đến Đại hội XX (năm 2022) là thời kỳ giao thoa của hai “mục tiêu 100 năm”
theo đó vừa phải thực hiện thắng lợi “mục tiêu 100 năm” lần thứ nhất là xây dựng
toàn diện xã hội khá giả vào năm 2021 (kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng), vừa
phải mở ra tiến trình mới, tạo đà cho viêc hoàn thành “mục tiêu 100 năm” lần thứ
hai vào năm 2049 (100 năm thành lập Nước).
Trên cơ sở đó, Tập Cận Bình lần đầu tiên xác định lộ trình 2 bước nhằm cụ
thể hóa việc thực hiện “mục tiêu 100 năm” lần thứ hai: (i) từ năm 2021 đến năm
2035, cơ bản hoàn thành công cuộc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa; (ii) từ năm 2035
đến năm 2049, xây dựng Trung Quốc thành cường quốc xã hội chủ nghĩa hiện đại,
giàu mạnh, dân chủ, văn minh, hài hòa và tươi đẹp. Như vậy về cơ bản, mục tiêu
lâu dài trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc sau Đại hội XIX vẫn là vươn lên
trở thành cường quốc hàng đầu thế giới, đóng vai trò chủ đạo và có tiếng nói mang
tính quyết định đối với các vấn đề toàn cầu.
Trong đó, Tập Cận Bình nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ quốc tế là mở

rộng không gian phát triển tạo lập vị thế và tầm ảnh hưởng quốc tế mới, để
thông qua chiến lược quốc tế góp phần trực tiếp và quan trọng thực hiện thắng lợi các mục
tiêu phát triển chiến lược trang và dài hạn nói trên. Báo cáo chính trị của Tập Cận Bình
10


trình bày tại Đại hội XIX đã xác định các mục tiêu, nhiệm vụ bao trùm của Trung
Quốc trong chiến lược quốc tế thời gian tới là: Kiên trì thúc đẩy xây dựng cộng
đồng chung vận mệnh nhân loại (trên cơ sở nâng cấp “cộng đồng chung vận
mệnh châu Á”); thúc đấy xây dựng quan hệ quốc tế kiểu mới (trên cơ sở nâng cấp
“quan hệ nước lớn kiểu mới” đã đề xuất với Mỹ từ năm 2013); xây dựng mạng
lưới quan hệ đối tác toàn cầu; kiên quyết bảo vệ chủ quyền, an ninh và lợi ích
phát triển quốc gia.
Trong bài viết về Tư tưởng ngoại giao của Tổng Bí thư Tập Cận Bình, Bộ
trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị ngay trước thềm Đại hội XIX cũng chỉ
rõ mục tiêu, nhiệm vụ then chốt của công tác đối ngoại thời gian tới là “mở ra cục
diện mới cho nền ngoại giao nước lớn đặc sắc Trung Quốc” thông qua thúc đẩy
xây dựng “cộng đồng chung vận mệnh nhân loại,” xây dựng “quan hệ quốc tế kiểu
mới,” xây dựng “mạng lưới quan hệ đối tác toàn cầu” đồng thời làm rõ hơn về nội
hàm của các khái niệm này, trong đó: cộng đồng chung vận mệnh nhân loại là chủ
trương xây dựng thế giới với 5 đặc trưng hòa bình lâu dài, an ninh rộng rãi, cùng
phồn vinh thịnh vượng, cởi mở bao dung, tươi đẹp trong lành; quan hệ quốc tế kiểu
mới có nội hàm là tôn trọng lẫn nhau, công bằng chính nghĩa, lấy hợp tác thay cho
đối kháng, lấy cùng thắng thay cho độc chiếm; xây dựng mạng lưới quan hệ đổi tác
toàn cầu là chủ trương mở rộng quan hệ bạn bè dưới tiền đề nguyên tắc không liên
minh liên kết, xây dựng quan hệ đối tác mang tính bình đẳng, hòa bình, bao dung,
không phân chia mặt trận, không đặt kẻ thù giả định, không nhằm vào bên thứ ba4.
Căn cứ các mục tiêu, nhiệm vụ tổng thể được nêu tại Đại hội XIX, có thể
thấy, Trung Quốc sẽ tập trung triển khai thực hiện một số mục tiêu, nhiệm vụ trên
các mặt là:

Về an ninh: Mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là duy trì môi trường
bên ngoài hòa bình, ổn định, củng cố môi trường quốc tế thuận lợi nhằm giữ vững
4

Bài viết đăng trên “Thời báo Học tập” - Tạp chí của Trường Đảng Trung ương Trung Quốc, ngày 01/9/2017.

11


và kéo dài thời kỳ cơ hội chiến lược cho sự phát triển của Trung Quốc; bảo vệ
vững chắc “lợi ích cốt lõi”5 nhất là chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc
gia và các lợi ích phát triển; tăng cường tập hợp lực lượng, thúc đẩy hình thành các
khuôn khổ, trật tự mới về an ninh khu vực dựa theo lợi ích quốc gia.
Về phát triển: Mở rộng tối đa phạm vi và không gian lợi ích quốc gia thông
qua tăng cường đan xen lợi ích với các nước, thúc đẩy xây dựng mạng lưới đối tác
toàn cầu trên cơ sở họp tác cùng có lợi, lấy chia sẻ lợi ích phát triển làm chất keo
gắn kết; triệt để khai thác thế mạnh của thị trường khu vực và thế giới, đặc biệt là
thị trường năng lượng và tài nguyên, tích cực thu hút vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm
quản lý của nước ngoài để phục vụ phát triển trong nước, tăng cường sức mạnh
tổng họp quốc gia. Nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn này là thúc đẩy triển khai
các sáng kiến, kết nối kinh tế khu vực và liên khu vực do Trung Quốc khởi xướng
và dẫn dắt, nhất là chiến lược “Vành đai và Con đường” tiếp tục đẩy mạnh chiến
lược cường quốc biển nhằm mở rộng không gian phát triển kinh té biển.
Về vị thế quốc tế: Tiếp tục mở rộng phạm vi ảnh hưởng, nâng cao hơn nữa
vai trò và tiếng nói của Trung Quốc trong các vấn đề quốc tế, trước hết là ở khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương; nỗ lực tạo dựng và củng cố hình ảnh “nước lớn có
trách nhiệm” tích cực tham gia dẫn dắt các cơ chế, thể chế chính trị - kinh tế quốc
tế, chủ động tham gia xây dụng “luật chơi,” định hình chương trình nghị sự trong
các vấn đề toàn cầu. Mục tiêu sâu xa của Trung Quốc là tạo lập vị thế quốc tế mới
tương xứng với sức mạnh tổng hợp quốc gia đang ngày càng gia tăng, từng bước

thúc đẩy hình thành trật tự khu vực và quốc tế có lợi cho Trung Quốc.

5

Sách trắng về “Phát triển hòa bình của Trung Quốc” ban hành tháng 9/2011 xác định nội hàm “lợi ích cốt lõi” của
Trung Quốc bao gồm 6 điểm sau: (i) chủ quyền quốc gia; (ii) an ninh quốc gia; (iii) toàn vẹn lãnh thổ; (iv) thống
nhất đất nước; (v) chế độ chính trị quốc gia do Hiến pháp quy định và ổn định đại cục xã hội; (vi) bảo đảm cơ bản
cho sự phát triển bền vững của kinh tế xã hội.

12


2. Chủ trương, đường lối để đạt được mục tiêu chiến lươc
Phát biểu của Tập Cận Bình tại Đại hội XIX tiếp tục khẳng định chủ trương
chiến lược của Trung Quốc thời gian tới là: Kiên trì đi con đường phát triển hòa
bình, thực hiện chiến lược mở cửa cùng có lợi, cùng thắng; kiên trì đi con đường
mới trong quan hệ giữa quốc gia với quốc gia là tôn trọng lẫn nhau, hiệp thương
bình đẳng, đối thoại không đối đầu, kết bạn không liên minh; kiên trì giải quyết
tranh chấp bằng đối thoại và hiệp thương; kiên trì quan điểm đúng đắn về đạo
nghĩa và lợi ích; tích cực đóng góp cho hòa bình thế giới, và phát triển toàn cầu
cũng như giữ gìn trật tự thế giới. Đồng thời, Trung Quốc cũng xác định rõ một số
phương châm, nguyên tắc lớn trong các công việc quốc tế: Thực hiện chính sách
ngoại giao hòa bình, độc lập, tự chủ; thúc đẩy xây dựng quan hệ quốc tế kiểu mới
tôn trọng lẫn nhau, công bằng, chính nghĩa, hợp tác cùng thắng; tôn trọng quyền tự
lựa chọn con đường phát triển của nhân dân các nước, giữ gìn công bằng và chính
nghĩa quốc tế, phản đối áp đặt ý chí của mình cho người khác, phản đối can thiệp
vào công việc nội bộ của nước khác, phản đối nước mạnh ức hiếp nước yếu. Nhấn
mạnh Trung Quốc quyết không phát triển bản thân mình bằng việc hy sinh lợi ích
của nước khác, cũng quyết không từ bỏ quyền lợi chính đáng của mình, bất cứ ai
cũng không nên ảo tưởng về việc Trung Quốc sẽ “nuốt quả đắng” phương hại lợi

ích của mình. Sự phát triển của Trung Quốc không gây đe dọa đối với bất cứ nước
nào; cho dù phát triển đến trình độ nào đi nữa, Trung Quốc cũng sẽ không bao giờ
xưng bá, không bao giờ bành trướng.6
Theo quan điểm của Đại hội XIX và tư tưởng chỉ đạo của Tập Cận Bình, về
bố trí chiến lược để mở rộng tầm ảnh hưởng ra toàn cầu tập trung vào mấy điểm:
Về chính trị đối ngoại, tích cực phát triển quan hệ đối tác toàn cầu, mở rộng
giao thoa lợi ích với các nước; xây dựng khuôn khổ quan hệ nước lớn tổng thể ổn
định, phát triển cân bằng; làm sâu sắc quan hệ với các nước láng giềng theo quan
6

Nguồn: Báo cáo chính trị Đại hội XIX.

13


điểm “thân, thành, huệ, dung”7 và phương châm “thân thiện với láng giềng, làm
bạn với láng giềng;” tăng cường đoàn kết và hợp tác với các nước đang phát triển
theo quan điểm “chân, thực, thân, thành” 8 tăng cường giao lưu hợp tác với các
chính đảng và tổ chức chính trị các nước, thúc đẩy giao lưu đối ngoại của Quốc
hội, Chính hiệp, quân đội, địa phương và đoàn thể nhân dân.
Về kinh tế đối ngoại, kiên trì mở cửa đối ngoại, tích cực thúc đẩy hợp tác
cùng xây dựng “Vành đai, con đường;” đẩy mạnh viện trợ cho các nước đang phát
triển, đặc biệt là các nước kém phát triển nhất, thúc đẩy thu hẹp khoảng cách phát
triển Nam - Bắc; ủng hộ các thể chế thương mại đa phương, ủng hộ tự do hóa, tiện
lợi hóa thương mại và đầu tư; thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa kinh tế phát triển theo
hướng ngày càng cởi mở, bao dung, cân bằng và cùng thắng.
Về phát huy vai trò chủ chốt, dẫn dắt trong các cơ chế đa phương, tích cực
đóng góp trí tuệ và phương án của Trung Quốc trong các vấn đề quốc tế; tích cực
tham gia cải cách và xây dựng hệ thống quản trị toàn cầu, thúc đẩy dân chủ hóa
quan hệ quốc tế, kiên trì bình đẳng giữa các quốc gia; ủng hộ Liên hợp quốc phát

huy vai trò tích cực, ủng hộ mở rộng tính đại diện và tiếng nói của các nước đang
phát triển trong các vấn đề quốc tế.
3. Phương thức triển khai
Trong Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội XIX, Tập Cận Bình nhấn
mạnh mấy điểm quan trọng về phương thức triển khai để đạt được mục tiêu của
chiến lược quốc tế, bao gồm:
Triển khai toàn diện chỉnh sách ngoại giao nước lớn
Trọng tâm chiến lược đối ngoại xuyên suốt của Trung Quốc trong thời gian
tới là đẩy mạnh xây dựng nền “ngoại giao nước lớn đặc sắc Trung Quốc” xứng tầm
với sức mạnh tổng hợp quốc gia, nhất là sức mạnh kinh tế và quân sự đang gia
7

Thân thiện, chân thành, cùng có lợi, bao dung.
Thật tâm, thực chất, thân thiện, chân thành.

8

14


tăng. Trong đó, biện pháp thực hiện là tiếp tục làm sâu săc hơn nữa cục diện đối
ngoại “toàn phương vị, đa lĩnh vực, nhiều tầng nấc” thông qua triển khai mạnh mẽ
hoạt động đối ngoại trên cả 5 cấp độ là ngoại giao nước lớn, ngoại giao láng giềng
và khu vực, ngoại giao với các nước đang phát triển, ngoại giao đa phương và
ngoại giao nhân dân; mở rộng thiêt lập các mối quan hệ đối tác hợp tác trên toàn
thế giới, tạo dựng “vòng tròn bạn bè,” mà thực chất là tập hợp lực lượng dựa trên
cơ sở chia sẻ lợi ích về phát triển; củng cố và nâng cao vị thế chiến lược chủ động
của Trung Quốc trong quan hệ quốc tế, dần thể hiện rõ hơn vai trò “cường quốc thế
giới.”
Lấy “tích cực hành động” thay cho “giấu mình chờ thời”

Với việc xác lập mục tiêu đưa Trung Quốc trở thành cường quốc hàng đầu
thế giới vào giữa thế kỷ XXI, quan điểm của Tập Cận Bình tại Đại hội XIX là dấu
mốc thể hiện Trung Quốc đã hoàn toàn từ bỏ phưong châm đối ngoại “giấu mình
chờ thời” (do Đặng Tiểu Bình khởi xướng) để chuyển sang giai đoạn ngoại giao
“tích cực hành động” Theo đó, về cả tư duy và hành xử đối ngoại, Trung Quốc sẽ
có những điều chỉnh theo hướng chủ động và quả quyết hơn trong việc triển khai
chính sách ngoại giao nước lớn, tích cực thúc đẩy xây dựng khuôn khổ quan hệ
quốc tế kiểu mới dưới ngọn cờ “cộng đồng chung vận mệnh nhân loại” (thực chất
là xây dựng cấu trúc chính trị quốc tế trong đó Trung Quốc được nhìn nhận như
một trung tâm quyền lực mới của thế giới); kiên quyết và cứng rắn hơn trong việc
thực hiện các mục tiêu chiến lược cũng như bảo vệ lợi ích cốt lõi quốc gia, nhất là
chủ quyền lãnh thổ; chủ động tạo dựng luật chơi để đạt được mục tiêu chiến lược
lâu dài; không lập tức thách thức nhưng quyết tâm từng bước thay đổi nguyên
trạng về an ninh và kinh tế, tiến tới xây dựng một trật tự chính trị an ninh - kinh tế
mới ở khu vực theo hướng có lợi hơn cho Trung Quốc; không liên minh liên kết
nhưng tìm cách thiết lập mạng lưới đối tác toàn cầu theo xu hướng thực dụng hơn,
không dựa vào ý thức hệ mà căn cứ nhiều hơn vào lợi ích quốc gia; không can
15


thiệp nhưng can dự có điều kiện, có lựa chọn vào các công việc chính trị, an ninh
quốc tế để thể hiện vai trò và bảo vệ các lợi ích của mình; chủ động tham gia các
cơ chế khu vực và liên khu vực mà Trung Quốc cólợi ích đồng thời hướng các cơ
chế này vào các nội dung chủ đề phục vụ tối đa cho lợi ích của Trung Quốc.
4. Các trọng điểm triển khai chính sách sau Đại hội XIX
Đối với các nước lớn
Ngoại giao nước lớn là thành tố then chốt trong tổng thể chiến lược đối
ngoại của Trung Quốc, với những phương hướng triển khai chính: (i) xây dựng và
củng cố khuôn khổ quan hệ ổn định lâu dài với các trung tâm quyền lực thế giới,
nhất là Mỹ, Nga, EU, Ấn Độ nhằm mở rộng dư địa chiến lược của Trung Quốc; (ii)

thúc đẩy hình thành trật tự thế giới đa cực, đa trung tâm, thực hiện sách lược “hợp
tung” tập hợp lực lượng đưa Trung Quốc trở thành một cực mạnh của thế giới, kết
hợp sách lược “liên hoành” chia rẽ, phân hóa các tập hợp lực lượng kiềm chế
Trung Quốc; (iii) tích cực can dự nhằm xây dựng “luật chơi” mới trong quan hệ
quốc tế, nhất là quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng có lợi hơn cho Trung Quốc;
(iv) xây dựng hình ảnh nước lớn có trách nhiệm, tích cực tham gia định hình các
chương trình nghị sự toàn cầu và tham gia vào việc giải quyêt các vấn đề điểm
nóng an ninh thế giới.
Với Mỹ: Trung Quốc xác định đây là cặp quan hệ song phưong quan trọng
nhất, là đòn bẩy để thực hiện mục tiêu xây dựng khuôn khổ quan hệ nước lớn tổng
thể ổn định, phát triển cân bằng; duy trì quan hệ Trung- Mỹ ổn định, hợp tác là
điều kiện thuận lợi để Trung Quốc tập trung thực hiện các mục tiêu phát triển chiến
lược đã đề ra tại Đại hội XIX. Các biện pháp chính sách của Trung Quốc đối với
Mỹ về cơ bản sẽ tiếp tục kế thừa những chủ trương, đường lối lâu nay, trong đó
sách lược cơ bản là quản lý quan hệ Mỹ - Trung trong khuôn khổ “vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh” hướng quan hệ Trung - Mỹ vào quỹ đạo “không xung đột, không đổi
kháng, tôn trọng lẫn nhau, họp tác cùng có lợi” Trung Quốc tiếp tục theo đuổi
16


chính sách hai mặt và phương châm hòa hoãn chiến thuật, tránh đối đầu trực diện
với Mỹ; một mặt thể hiện thiện chí hợp tác, mong muốn cùng Mỹ chia sẻ lợi ích,
trách nhiệm và vai trò ở khu vực, hướng tới cục diện “cùng thắng”; mặt khác kiên
quyết, thậm chí cứng rắn hơn trong các vấn đề mà Trung Quốc cho là liên quan đến
lợi ích cốt lõi như Đài Loan, Biển Đông; tiếp tục tranh giành ảnh hưởng vói Mỹ
trên phạm vi toàn cầu.
Trong triển khai chính sách cụ thể, Trung Quốc sẽ chú trọng: (i) tiếp tục
thúc đẩy ngoại giao nguyên thủ, duy trì trao đổi cấp cao với Mỹ, củng cố và mở
rộng các cơ chế đối thoại chiến lược mới thiết lập giữa hai bên 9 nhằm tăng cường
tin cậy, thúc đẩy hợp tác, kiểm soát bất đồng; (ii) tăng cường đan xen lợi ích và

mức độ tùỵ thuộc lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác thực chất với Mỹ trên các lĩnh vực
kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học công nghệ, giao lưu nhân dân nhằm làm nổi
bật mặt hợp tác và điểm đồng giữa hai bên, làm dịu những vấn đề mâu thuẫn và bất
đồng; (iii) dàn xếp hoặc xuống thang với Mỹ trong một số vấn đề về kinh tế (cân
bằng thửơng mại, chống bán phá giá, sở hữu trí tuệ), dân chủ nhân quyền, an ninh
mạng, hạt nhân Triều Tiên... để giữ ổn định quan hệ Trung - Mỹ; (iv) trong vấn đề
Biển Hoa Đông, Biển Đông, Trung Quốc sẽ thực hiện sách lược vừa kiên quyết giữ
vững “giới hạn đỏ” vừa thỏa hiệp và linh hoạt thích ứng, không tạo cớ để Mỹ gia
tăng hiện diện quân sự, tránh thách thức trực tiếp, đe dọa đến “lợi ích an ninh hàng
hải” của Mỹ; (v) theo đuổi lập trường cứng rắn hơn trong vấn đề Đài Loan, thúc ép
Mỹ tuân thủ chính sách “một Trung Quố,” quyết liệt cản phá Mỹ bán vũ khí cho
Đài Loan.
Nhìn chung, tại Đại hội XIX Trung Quốc xác định, trong thời gian tới, quan
hệ Trung - Mỹ vẫn tiếp tục là cặp quan hệ có ảnh hưởng lớn nhất đến cục diện khu
vực châu Á - Thái Bình Dưong nói riêng và trên thế giới nói chung. Tại Đại hội
9

Từ tháng 4/2017 đến nay, Trung - Mỹ đã thành lập mới 05 cơ chế Đối thoại cấp cao gồm: Đối thoại Ngoại giao - An
ninh, Đối thoại Kinh tế tổng hợp, Đối thoại Thực thi pháp luật và An ninh mạng, Đối thoại Văn hóa và Xã hội, Đối
thoại Bộ Tham mưu liên họp giữa hai quân đội.

17


XIX, Trung Quốc nhìn nhận, về dài hạn cả Trung Quốc và Mỹ đều cố gắng hạn chế
xung đột trực diện, thúc đẩy họp tác trên những lĩnh vực có lợi ích chung. Tuy
nhiên, Trung Quốc đánh giá, do mâu thuẫn chiến lược giữa hai bên sẽ ngày càng
gia tăng nên ít có khả năng Trung - Mỹ quay lại mức độ câu kết, thỏa hiệp như đã
từng xảy ra trong lịch sử, có thể xảy ra những “biến số” khó lường trong quan hệ
hai bên, nhất là những biến số có thể đến từ sự chủ động của Mỹ (dự đoán này của

Trung Quốc đã thành hiện thực khi Mỹ thúc đẩy chủ nghĩa bảo hộ và chiến tranh
thương mại nhằm chính vào Trung Quốc). Cạnh tranh ảnh hưởng Trung - Mỹ sẽ tác
động sâu sắc tới lợi ích và phương thức bảo đảm lợi ích của các nước trong khu
vực, về cơ bản sẽ chưa đến mức buộc các nước phải “chọn bên” giữa Trung Quốc
hoặc Mỹ, song trong một số vấn đề cụ thể, các nước sẽ gặp khó khăn lớn hơn trong
việc duy trì lập trường cân bằng.
Với Nga: Trung Quốc cơ bản duy trì khuôn khổ chính sách vừa tăng cường
hợp tác sâu rộng vừa cạnh tranh ngầm với Nga, trong đó hợp tác toàn diện là xu
thế chủ đạo do cả hai bên đều có nhu cầu tập hợp lực lượng nhằm đối trọng với
liên minh Mỹ - Nhật, thúc đẩy hình thành trật tự thế giới đa cực. Phương châm
chính sách của Trung Quốc với Nga là: (i) duy trì quan hệ chính tộ tin cậy, ổn định,
triển khai các cơ chế trao đổi, hơp tác sâu rộng về ngoại giao, an ninh, quốc phòng;
(ii) mở rộng họp tác thực chất trên các lĩnh vực kinh tế - thương mại, đầu tư, kết
nối Vành đai (vành đai kinh tế theo Con đường tơ lụa trên bộ) với Liên minh kinh
tế Á - Âu, xây dựng cơ sở hạ tầng, năng lượng, khoa học kỹ thuật, công nghệ quân
sự, vũ khí; (iii) tăng cường ủng hộ lẫn nhau trong các vấn đề liên quan đến “lợi ích
cốt lõi” như an ninh quốc gia, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; lôi kéo Nga ủng hộ lập
trường của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông, Biển Hoa Đông; (iv) tích cực phối
hợp lập trường và hành động trong các khuôn khổ đa phương (Liên hợp quốc, G20,
APEC...), các vấn đề an ninh toàn cầu và điểm nóng khu vực như hạt nhân Triều
18


Tiên, Syria, Iran, Afghanistan...; (v) phối hợp xây dựng các thể chế an ninh và kinh
tế khu vực không có sự tham gia của Mỹ như CICA, SCO, BRICS.
Nhiều ý kiến cho rằng, quan hệ Trung - Nga hiện nay dù chưa phải là một
hình thức “liên minh” nhưng đẵ có đầy đủ các thành tố của một mô hình hợp tác
chặt chẽ hơn khuôn khổ đối tác chiến lược thông thường, thậm chí phần nào là biểu
hiện của quan hệ “cận đồng minh” hoặc “gần như đồng minh”. Tuy nhiên, sự xích
lại gần nhau giữa Trung Quốc và Nga còn mang tính tình thế, chưa có những yếu

tố bền chặt. Đây có thể chỉ là sự liên minh tạm thời khi các lợi ích của Nga chưa
xung đột với lợi ích của Trung Quốc và trước mắt hai bên cần hợp tác để đối phó
với chiến lược kiềm chế của Mỹ và đồng minh. Trên thực tế, quan hệ Trung - Nga
vẫn có những giới hạn do hai bên có sự cạnh tranh ảnh hưởng ở khu vực Trung Á
(vốn là vành đai an ninh sát sườn của Nga), đồng thời nội bộ Nga còn nhiều lo ngại
về tham vọng bành trướng, mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực Viễn
Đông, nhìn nhận Trung Quốc là mối đe dọa đối với lợi ích chiến lược của Nga ở
các khu vực này về lâu dài.
Với Nhật Bản: Trung Quốc luôn coi Nhật Bản là đối thủ cạnh tranh trực tiếp
trên con đường trở thành cường quốc khu vực. Khác với quan hệ giữa Trung Quốc
với các nước láng giềng ở khu vực Đông Á, cạnh tranh Trung - Nhật là cạnh tranh
giữa hai nước lớn về cả kinh tế, văn hóa và quân sự, thể hiện qua các góc độ: (i)
mô hình phát triển kinh tế, văn hóa, phần nào là chính trị của Nhật Bản hiện vẫn là
thách thức đối với Trung Quốc về tính hiệu quả và sự hấp dẫn; (ii) Nhật đã tạo
được một vùng ảnh hưởng đáng kể ở khu vực, nhất là tại Đông Nam Á, là kết quả
của thời gian dài phát triển quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa ở khu vực này; (iii)
Nhật có tiềm lực kinh tế, quốc phòng đủ sức đương đầu với Trung Quốc trong các
xung đột quân sự trên biển, hơn nữa sức mạnh tổng hợp của khối đồng minh Mỹ Nhật đang tạo ra thách thức đối với chiến lược của Trung Quốc mở rộng ảnh
19


hưởng sang hướng Đông; (iv) trong giới lãnh đạo và người dân hai nước, nhất là
Trung Quốc, còn nặng tâm lý ác cảm, nghi kỵ lẫn nhau.
Để đối phó với việc Nhật Bản đang triển khai mạnh mẽ chính sách ngoại
giao tầm nhìn toàn cầu với trụ cột quan trọng nhất là tăng cường đồng minh Nhật Mỹ và gia tăng ảnh hưởng tại Đông Nam Á, Trung Quốc sẽ theo đuổi chính sách
vừa thúc đẩy hợp tác, vừa cạnh tranh kiềm chế. Một mặt tiếp tục nhấn mạnh việc
cải thiện quan hệ với Nhật Bản trên cơ sở 4 văn kiện chính trị Trung - Nhật 10, tranh
thủ hợp tác cùng có lợi với Nhật Bản về kinh tế, khoa học công nghệ; mặt khác đẩy
mạnh cạnh tranh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng với Nhật Bản theo hướng toàn
diện hơn trong các vấn đề tranh chấp ở Biển Hoa Đông, đảo Điếu Ngư/Senkaku,

vấn đề lịch sử, các sáng kiến liên kết khu vực 11 và trong các diễn đàn đa phương,
gia tăng kiềm chế, cạnh tranh ảnh hưởng nhằm ngăn cản việc can dự của Nhật Bản
trong vấn đề Biển Đông.
Với Ấn Độ: Trang Quốc vẫn sẽ duy trì xu thế vừa tăng cường hợp tác vừa
cạnh tranh chiến lược, trong đó Trung Quốc sẽ đẩy mạnh quan hệ hợp tác với Ấn
Độ về kinh tế - thương mại, mở rộng đầu tư vào những lĩnh vực mà Ấn Độ có nhu
cầu và phù hợp với lợi ích của Trung Quốc, đẩy mạnh khai thác thị trường to lớn
của Ấn Độ cho hàng hóa và nguồn vốn của Trung Quốc; lấy hợp tác về kinh tế làm
đòn bẩy thúc đẩy quan hệ chính trị, cải thiện lòng tin chiến lược, giảm bớt nghi kỵ
lẫn nhau giữa hai nước về biên giới lãnh thổ trên bộ, an ninh, dân chủ nhân quyền,
ngăn chặn và giảm thiểu ảnh hưởng của việc Ấn Độ tham gia liên minh với Mỹ Bốn văn kiện chính trị chỉ đạo quan hệ Trung - Nhật: (i) Năm 1972, Trung Quốc và Nhật Bản thiết lập quan hệ
ngoại giao, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai và Thủ tướng Nhật Bản Tanaka Kakuei ra “Thông cáo chung Trung Nhật.” (ii) Năm 1998, trong chuyến thăm Nhật Bản của Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân, hai bên ra tuyên bố
xây dựng “quan hệ đối tác hợp tác hữu nghị vì hòa bình và phát triển.” (iii) Tháng 9/2006, trong chuyến thăm Trung
Quốc của Thủ tướng Nhật Bản Abe, hai bên đã nhất trí thiết lập khuôn khổ quan hệ “hợp tác chiến Ịược cùng có
lợi.” (iv) Tháng 5/2008, trong chuyến thăm Nhật Bản của Chủ tịch Trung Quốc Hồ cẩm Đào, hai nước ký Tuyên bố
chung vê thúc đẩy toàn diện “quan hệ chiến lược cùng có lợi.”
11
Nhật Bản đề ra chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở” nhằm cạnh tranh với đại chiến
lược “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc.
10

20


Nhật – Australia (trong “tứ giác kim cương” của chiến lược Ấn Độ- Thái Bình
Dương), tạo thế vòng cung bao vây kiềm chế Trung Quốc. Đồng thời, để đối phó
với chiến lược ngoại giao toàn diện “Liên kết với phương Tây và hướng về phương
Đông” của Ấn Độ, Trung Quốc sẽ triển khai cạnh tranh chiến lược theo hướng: (i)
về kinh tế, đẩy mạnh cạnh tranh ảnh hưởng tại khu vực Nam Á thông qua sáng kiến
“Vành đai, con đường,” đẩy mạnh đầu tư vào hai hành lang kinh tế Trung Quốc Pakistan và Bangladesh - Ấn Độ - Trung Quốc - Myanmar, thúc đẩy kết nối hàng

loạt các cảng biển ở Pakistan, Bangladesh, Nepal, Sri Lanka, (ii) về an ninh, dùng
vấn đề biên giới lãnh thổ và tăng cường quan hệ đổi tác chiến lược về quốc phòng,
an ninh với Pakistan để kiềm chế sự phát triển của Ấn Độ. (iii) về dân chủ, nhân
quyền, tiếp tục gây sức ép với Ấn Độ trong một số vấn đề liên quan đến “lợi ích
cốt lõi” của Trung Quốc như Tây Tạng, Đài Loan.
Nhìn chung, mặc dù có mâu thuẫn về lợi ích chiến lược, nhưng so với các
cặp quan hệ khác như quan hệ Trung - Mỹ và Trung - Nhật, cạnh tranh Trung - Ấn
có phần bớt gay gắt hơn do sức mạnh tổng hợp quốc gia và vị thế chính trị quốc tế
của Ấn Độ còn thua kém Trung Quốc, Ấn Độ cũng chưa thách thức trực tiếp mục
tiêu cường quốc tại khu vực của Trung Quốc. Ngược lại, do lợi ích an ninh biên
giới, chống khủng bố và lợi ích kinh tế, Trung Quốc suy đoán Ấn Độ không thể
đứng hoàn toàn về phía Mỹ để kiềm chế Trung Quốc, mà cũng phải tăng cường
quan hệ an ninh và phát triển với Trung Quốc.
Đối với láng giềng
Phát biểu của Tập Cận Bình tại Đại hội XIX xác định Trung Quốc tiếp tục
coi việc phát triển quan hệ toàn diện với các nước láng giềng trong khu vực, nhất là
các nước ASEAN là hướng trọng tâm trong chính sách đối ngoại12. Về công khai,
Trung Quốc sẽ tích cực khẳng định vai trò quan trọng của láng giềng, đẩy mạnh
12

Sau Đại hội 18 (11/2012), Trung Quốc lần đầu tiên xác định rõ ASEAN là “ưu tiên” trong chính sách ngoại giao
láng giềng (Ngoại trưởng Trung Quốc VưongNghị trả lời báo chí ngày 05/5/2013).

21


tuyên truyền về chính sách “mục lân, an lân, phú lân” (hữu hảo với láng giềng, yên
ổn với láng giềng, làm giàu với láng giềng) và quan điểm họp tác “thân, thành, huệ,
dung” (thân thiện, chân thành, cùng có lợi, bao dung); thúc đẩy xây dựng khuôn
khổ quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện và ổn định lâu dài với các nước

ở các mức độ khác nhau. Trung Quốc triển khai chính sách ngoại giao láng giềng
với nhiều biện pháp linh hoạt, mềm dẻo và thực dụng hơn, chú trọng hơn đến tính
tương tác, giao thoa lợi ích với các đối tác láng giềng và tận dụng tối đa ưu thế về
kinh tế, kết hợp sức mạnh cứng và sức mạnh mềm để mở rộng ảnh hưởng đối với
các nước láng giềng, coi đây là bàn đạp vươn lên trở thành cường quốc thế giới,
cạnh tranh với chiến lược can dự của các nước lớn, tạo vành đai an ninh vững chắc
và ảnh hưởng sâu rộng ở khu vực xung quanh; duy trì môi trường ổn định phục vụ
cho cải cách và phát triển của Trung Quốc.
Về tổng thể, Trung Quốc tiếp tục theo đuổi phương châm “lấy kinh tế thúc
đẩy chính trị” và chính sách ngoại giao “cây gậy và củ cà rốt”. Với những nước
không tồn tại tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và cạnh tranh chiến lược khu vực với
Trung Quốc, Trung Quốc sẽ triệt để áp dụng chính sách ngoại giao “quyến rũ” tăng
cường quan hệ hữu hảo, sử dụng sức mạnh mềm về kinh tế (viện trợ, đầu tư) để lôi
kéo, gia tăng ảnh hưởng. Đối với những nước có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và
là đối thủ cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc ở khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ
và một số nước Đông Nam Á (Việt Nam, Philippines), Trung Quốc sẽ có những
cách tiếp cận đa chiều, vừa tranh thủ hợp tác, vừa răn đe áp đặt, thậm chí có thể sử
dụng các biện pháp cứng rắn trong xử lý tranh chấp chủ quyền lãnh thổ.
Riêng với ASEAN: Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện chính sách hai mặt, vừa
xoa dịu, vừa áp đặt. Một mặt, tích cực vận động về “thập kỷ kim cương” trong hợp
tác Trung Quốc - ASEAN, thúc đẩy ý tưởng xây dựng Cộng đồng chung vận mệnh
và khuôn khổ hợp tác mới; lôi kéo các nước ASEAN tham gia xây dựng “Con
đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI” vận động một số nước liên quan tham gia sâu
22


hơn vào sáng kiến hợp tác Mê Công - Lan Thương. Mặt khác, triệt để sử dụng đòn
bẩy kinh tế, tài chính nhằm hướng các nước Đông Nam Á vào quỹ đạo hợp tác do
Trung Quốc dẫn dắt, tìm cách lôi kéo, chia rẽ và phân hóa ASEAN trên vấn đề
Biển Đông và an ninh khu vực, chủ động ngăn cản sự can dự của Mỹ và các nước

ngoài khu vực. Sự can dự sâu hơn của Trung Quốc và các nước lớn khác vào khu
vực sẽ tiếp tục tạo ra những thách thức to lớn đối với sự đoàn kết, thống nhất và
vai trò chủ đạo của ASEAN trong các cơ chế khu vực.
Đối với các cơ chế đa phương
Trung Quốc xác định ngoại giao đa phương là “vũ đài quốc tế” quan trọng,
là “sân khấu” để thể hiện hình ảnh “nước lớn có trách nhiệm”; chủ trương tích cực,
chủ động tham gia tiến trình cải cách và xây dựng hệ thống quản trị toàn cầu với
mục tiêu nhằm: (i) hướng tới xây dựng các cơ chế, thể chế mới có lợi hơn cho
Trung Quốc; (ii) bảo vệ và thúc đẩy các lợi ích an ninh - phát triển của Trung Quốc
ở bên ngoài; (iii) thúc đẩy đa phương hóa trật tự quốc tế, xác lập lại trật tự và luật
chơi mới trong khu vực và trên thế giới; (iv) tranh thủ tập hợp lực lượng trong các
chương trình nghị sự toàn cầu, nâng cao vị thế quốc tế của Trung Quốc.
Trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ tiếp tục chủ động đẩy mạnh hoạt động
ngoại giao tại các cơ chế/diễn đàn quốc tế và khu vực mà Trung Quốc có lợi ích,
tích cực phát huy vai trò, tiếng nói và sức mạnh “lá phiếu” trong các thể chế đa
phương quan trọng như Liên Hợp quốc và các cơ quan thuộc Liên Hợp quốc, thông
qua đó tác động và tham gia dẫn dắt tiến trình cải cách, hoàn thiện hệ thống quản
trị toàn cầu, thúc đẩy hình thành trật tự chính trị - kinh tế quốc tế đa cực, đa trung
tâm có lợi cho Trung Quốc; tiếp tục có tiếng nói mạnh mẽ ủng hộ vai trò của các
thể chế thương mại đa phương, thể hiện hình ảnh đi đầu bảo vệ toàn cầu hóa kinh
tế, chống chủ nghĩa bảo hộ, thúc đẩy tự do hóa thương mại - đầu tư quốc tế; chủ
động dẫn dắt, định hình chương trình nghị sự trong một số cơ chế/diễn đàn kinh tế
quốc tế quan trọng như WEF, WTO, G20, APEC.
23


Thúc đẩy các cơ chế, sáng kiến về an ninh, kinh tế khu vực
Về an ninh, Trung Quốc sẽ thúc đẩy xây dựng các cơ chế, tái định hình cấu
trúc an ninh khu vực thông qua tăng cường và mở rộng vai trò của các tổ chức/diễn
đàn mà Trung Quốc có nhiều ảnh hưởng như CICA, SCO, Diễn đàn Hương Sơn,

Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+); tích cực phối hợp
với Nga đóng vai trò chủ đạo, dẫn dắt để nâng cao vị thế của SCO trong khu vực,
một mặt nhằm thúc đẩy hình thành một liên minh quan trọng trong khuôn khổ cơ
chế này để ngăn chặn 3 thế lực “khủng bố, ly khai, tôn giáo cực đoan” duy trì hòa
bình, ổn định ở khu vực biên giới của Trung Quốc, mặt khác tranh thủ một tổ chức
không có Mỹ và phương Tây để phát huy vai trò, ảnh hưởng của Trung Quốc trong
các vấn đề quốc tế và khu vực. Bên cạnh đó, đối với một số sáng kiến về an ninh
như “quan niệm an ninh Châu Á mới” chưa đạt kết quả đáng kể trong thời gian
qua, Trung Quốc sẽ tiếp tục “nuôi” vấn đề này tại cấc diễn đàn đa phương của quốc
tế và khu vực nhằm duy trì lợi ích chiến lược của mình, tiếp tục nêu cao luận điểm
“công việc của Châu Á do người Châu Á giải quyết” nhằm hạn chế và tiến tới loại
bỏ sự can dự của các cường quốc bên ngoài, đặc biệt là Mỹ. Về thực chất, Trung
Quốc muốn “khoanh vùng” Châu Á thuộc phạm vi ảnh hưởng của mình, gạt ảnh
hưởng của Mỹ ra khỏi khu vực.
Về kinh tế, Trung Quốc với tiềm lực kinh tế - tài chính ngày càng gia tăng,
đang và sẽ tìm cách thách thức trật tự kinh tế thế giới do Mỹ dẫn dắt từ sau Chiến
tranh Thế giới thứ hai thông qua các bước đi sau: (i) Trọng tâm là quyết liệt triển
khai trên thực tế sáng kiến “Vành đai, con đường,” nhất là các dự án trọng điểm
dọc tuyến “Vành đai kinh tế Con đường tơ lụa”(lấy Con đường tơ lụa cũ làm trục
chính) thúc đẩy kết nối với Liên minh kinh tế Âu - Á, mở rộng không gian và ảnh
hưởng của kinh tế Trung Quốc tại khu vực Châu Á, Châu Âu; (ii) củng cố và mở
rộng các định chế kinh tế - tài chính mới song song với các định chế hiện có như
Ngân hàng AIIB, Ngân hàng BRICS, Ngân hàng SCO, Quỹ Con đường tơ lụa
24


(hiện tổng vốn khoảng 200 tỷ USD, riêng Quỹ Con đường tơ lụa 40 tỷ USD); (iii)
tập trung thúc đẩy các FTA song phương và đa phương, nhất là Hiệp định RCEP
(là cơ chế không có Mỹ), ACFTA 2.0 (FTA của Trung Quốc với các nước ASEAN
phiên bản mới, thay cho phiên bản đã thực hiện từ 2010), FTAAP (FTA của toàn bộ

khu vực châu Á- Thái Bình Dương) nhằm cạnh tranh với các định chế do Mỹ, Nhật
làm chủ đạo; (iv) tiếp tục đẩy mạnh quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ, tạo dựng vị trí
là một đồng tiền thanh toán và dự trữ chủ chốt của thế giới; (v) đẩy mạnh triển khai
sáng kiến họp tác Mê Công - Lan Thương nhằm cạnh tranh với các cơ chế hợp tác
hiện có giữa các nước tiểu vùng Mê Công với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Mỹ.
Triển khai chiến lược cường quốc biển
Trên cơ sở tiềm lực, mục tiêu và lợi ích chiến lược trong việc vươn lên
thành cường quốc toàn cầu, thời gian tới Trung Quốc sẽ tiếp tục đẩy mạnh triển
khai chiến lược “cường quốc biển” trên tất cả các mặt, trong đó Biển Đông sẽ trở
thành hướng trọng điểm. Việc Trung Quốc triển khai chiến lược này trong bối cảnh
tranh chấp lãnh thổ, biển đảo giữa Trung Quốc với các nước láng giềng chưa giải
quyết xong và ngày càng diễn biến phức tạp sẽ làm cho tranh chấp chủ quyền giữa
Trung Quốc và các nước trong khu vực ngày càng gay gắt hơn, nếu không có biện
pháp kỉểm soát hiệu quả thì việc xảy ra va chạm, thậm chí xung đột cục bộ là
không loại trừ. Về tư duy và cách hành xử, Trung Quốc một mặt sẽ duy trì tối đa
các nhân tố hòa dịu, ổn định để thúc đẩy hợp tác, nhất là vấn đề “cùng khai thác”
song mặt khác sẽ kiên quyết và cứng rắn hơn trong bảo vệ chủ quyền và lợi ích
biển13; tăng cường vận động, gây áp lực ở cả kênh song phương và đa phương để
buộc các nước đối tượng phải nhân nhượng cường độ thấp, thậm chí Trung Quốc
có thể chấp nhận va chạm và xung đột ở phạm vi nhỏ với một số đối tượng cá biệt
13

Các phát ngôn của lãnh đạo Trung Quốc ngày càng có xu hướng mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa, thường viện dẫn
“chủ quyền từ ngàn xưa” “là con cháu Viêm Hoàng phải bảo vệ chủ quyền của cha ông”, “không thể nhìn mặt tổ tiên
con cháu nếu nhượng bộ về Biển Đông”... Lãnh đạo cấp cao Trung Quốc gần đây luôn nhẩn mạnh việc tăng cường
tư duy về “giới hạn đỏ” trong bảo vệ chủ quyền, an ninh và lợi ích phát triển quốc gia.

25



×