Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

ĐẢM bảo NGUYÊN tắc TRANH TỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG xét xử của tòa án NHÂN dân từ THỰC TIỄN TỈNH đăk NÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.36 KB, 71 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG CHƯƠNG

ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐĂK NÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

ĐẮK LẮK - NĂM 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG CHƯƠNG

ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐĂK NÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8. 38. 01. 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS - TS. ĐINH NGỌC VƯỢNG

ĐẮK LẮK - NĂM 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của cá nhân tôi.
Nội dung cũng như các số liệu trình bày trong luận văn hoàn toàn trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ các
công trình nghiên cứu khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

NGUYỄN HỒNG CHƯƠNG


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Học viện khoa học xã hội, các quý
Thầy Cô đã trang bị tri thức cho tôi, tạo môi trường thuận lợi, điều kiện tốt nhất
trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới
PGS-TS Đinh Ngọc Vượng đã khuyến khích, chỉ dẫn tận tình cho tôi trong suốt thời
gian thực hiện nghiên cứu này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình và những người bạn đã động viên, hỗ
trợ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thành luận văn.
Tác giả luận văn

NGUYỄN HỒNG CHƯƠNG

4


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 7
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC
TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................ 13
1.1.Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự ......................... 13
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử các vụ án hình sự .............................................................................. 15
1.3. Các vấn đề về bảo đảm của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ
án hình sự .................................................................................................... 18
Chương 2 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TỈNH ĐĂK NÔNG ......................................................................................... 32
2.1 Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự ............................................. 32
2.2 Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự tại Đăk Nông.......... 35
2.3 Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự tại Đăk Nông ..... 37
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại ............................................. 45
Chương 3 HOÀN THIỆN CÁC BẢO ĐẢM CỦA NGUYÊN TẮC TRANH
TỤNG TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ....................................... 47
3.1 Hoàn thiện các bảo đảm của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ
án hình sự .................................................................................................... 47
3.2 Hai nhóm giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tranh tụng tại tòa án .... 54
3.3. Các bảo đảm khác ................................................................................ 63
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 70

5



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CP

Chính phủ

CQĐT

Cơ quan điều tra

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên


NQ

Nghị quyết

QH

Quốc hội

TTHS

Tố tụng hình sự

TW

Trung ương

VKS

Viện Kiểm sát

6


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm và các
tranh chấp xảy ra có xu hướng tăng lên và có diễn biến phức tạp hơn trước.
Mặc dù vậy, với đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị vững vàng, có tinh
thần trách nhiệm cao nên công tác tư pháp đã có được nhiều kết quả tích cực,
góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã

hội, bảo vệ lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Bên cạnh những thành
tích đã đạt được, công tác tư pháp vẫn còn những hạn chế nhất định, dẫn đến
các trường hợp tội phạm bị bỏ sót, hàm oan… Từ đó, làm ảnh hưởng không
nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư
pháp. Trước tình hình đó, nhằm từng bước khắc phục những hạn chế cũng
như phát huy thành tích đạt được trong công tác tư pháp, ngày 02/01/2002 Bộ
Chính trị đã ban hành Nghị quyết 08/NQ-TW nhằm đề cao trách nhiệm của
cơ quan và cán bộ tư pháp, nâng cao chất lượng trong các hoạt động của
ngành. Thực hiện việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững
mạnh, cải cách và đổi mới phương thức hoạt động của công tác tư pháp.
Không chỉ phát triển về đội ngũ nhân lực, mà còn phải đầu tư cơ sở vật chất,
hiện đại hóa trang thiết bị và chế độ chính sách cho cán bộ tư pháp. Ngoài ra,
cần tiếp tục thực hiện huy động sự tham gia của người dân vào công tác tư
pháp, tăng cường tuyên truyền phổ biến pháp luật, tiến hành nghiên cứu khoa
học và tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp [1].
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm đã được nghị quyết chỉ ra là pháp
luật phải bảo đảm được sự bình đẳng, dân chủ và khách quan đối mọi người
dân. Việc xét xử các vụ án phải thực hiện đúng theo pháp luật trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của những người tham gia hoặc có

7


liên quan trực tiếp đến vụ án và những người có quyền, lợi ích hợp pháp. Và
phán quyết phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, để có kết
quả phù hợp với quy định của pháp luật và hạn định. Bên cạnh đó, các cơ
quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào các quá
trình diễn ra vụ án cũng như xét xử [1].
Nhằm tiếp tục hoàn thiện và tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật,
ngày 24/5/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 48/NQ-TW về chiến

lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020. Nghị quyết này đã khẳng định việc cải cách các
thủ tục tư pháp phải bảo đảm sự minh bạch, dan chủ, bình đẳng, chặt chẽ. Bên
cạnh đó, cũng cần phải bảo đảm được sự thuận tiện, sự tham gia, giám sát của
người dân. Nghị quyết tiếp tục khẳng định rằng: Chất lượng tranh tụng tại các
phiên toà xét xử phải được bảo đảm. Kết quả tranh tụng tại toà chính là căn cứ
quan trọng để tòa án đưa ra phán quyết, đây là khâu đột phá để nâng cao chất
lượng hoạt động tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà đối với tất cả
các loại khiếu kiện hành chính”[4].
Tuy vậy, với tình hình trong nước và quốc tế có sự biến động không
ngừng, Bộ chính trị lại tiếp tục ban hành Nghị quyết 49/NQ-TW vào ngày
02/6/2005. Nghị quyết nhằm chỉ ra phương hướng và nhiệm vụ đối với công
tác tư pháp trong tình hình mới. Theo đó, một trong những nhiệm vụ chính là
“Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan, đơn vị thực
hiện công tác tư pháp cũng như các cá nhân thực hiện công tác này. Bên cạnh
đó, cũng cần tiếp tục chú trọng việc hoàn thiện bộ máy của các cơ quan tư
pháp, nhất là tòa án nhân dân”. Khâu đột phá của hoạt động tư pháp được
thực hiện thông qua đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử bảo đảm tính công
khai, dân chủ, nghiêm minh và chất lượng [5].
Việc phán quyết của Toà án trước hết phải tuân thủ theo quy định của
pháp luật. Sự thật vụ án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, bảo
8


đảm xét xử đúng đối tượng, đúng mức độ, loại hình vi phạm. Trong thực tế,
nguyên tắc tranh tụng trong Tố tụng hình sự đã được ghi nhận và được quy
định trong Hiến pháp, luật pháp, nhưng vẫn chưa hoàn toàn bảo đảm được
quyền lợi của bên nguyên đơn, bị đơn và những người tham gia tố tụng khác.
Để xảy ra tình trạng trên xuất phát bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Một
trong nhiều nguyên nhân đáng chú ý là trong Tố tụng hình sự, các chủ thể

tham gia tố tụng chưa nhận thức đầy đủ và chấp hành nghiêm các quy định
của pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng.
Trong xu hướng xây dựng nền tư pháp hiện đại, đáp ứng nhu cầu hội
nhập quốc tế thì việc bảo vệ tối đa quyền con người và quyền công dân luôn
được đặc biệt chú trọng. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (sửa đổi năm 2013) đã khẳng định phải bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử các vụ án. Hiến pháp là đạo luật gốc, văn bản pháp lý có hiệu lực
cao nhất, do vậy quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp là tiền đề để
xây dựng và hoàn thiện các quy định về bảo đảm tính tranh tụng trong các văn
bản pháp luật tố tụng nói chung và trong BLTTHS nói riêng.
Bên cạnh những thành tựu của sự phát triển của nền kinh tế và xã hội,
là tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật ở nước ta xảy ra nghiêm trọng, diễn
biến phức tạp, các vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng. Đứng trước
tình hình đó, sự nỗ lực của các cơ quan tố tụng đã góp phần quan trọng trong
đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo đảm tình hình an
ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội [5]. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tích đạt được, các nghị quyết của Bộ Chính trị cũng chỉ ra những vấn đề còn
tồn tại trong công tác tư pháp nói chung và cơ quan xét xử nói riêng. Việc
thực hiện tố tụng, xét xử đôi khi còn phạm phải những sai sót như cho hưởng
án treo chưa đúng, hay bỏ sót tội phạm, hàm oan người vô tội…
Trong quá trình diễn ra tranh tụng tại phiên tòa, giữa một bên là người
buộc tội và một bên là người gỡ tội, hội đồng xét xử có vai trò đưa ra phán
9


quyết, nghiêm túc quan sát tuân thủ tranh tụng của hai bên, điều khiển phiên
tòa. Trong quá trình thực hiện buộc tội - bào chữa - xét xử đều được công
khai dưới sự giám sát của hội đồng xét xử. Thông qua các chứng cứ đã được
xem xét tranh luận tại phiên tòa và bằng niềm tin nội tâm của mình, người
thẩm phán đưa ra nhận định, đánh giá để có phán quyết chính xác nhất.

Bên cạnh những nghị quyết do Bộ Chính trị ban hành, quá trình triển
khai công tác tư pháp trong thực tế, còn cần phải tiến hành những nghiên cứu,
đánh giá để bổ sung thêm các giải pháp tình thế cũng như dài hạn nhằm góp
phần hoàn thiện hơn pháp luật của nhà nước. Bên cạnh những công trình
nghiên cứu chung về pháp luật, về công tác tư pháp ở tầm vĩ mô, cần phải có
thêm những công trình nghiên cứu về việc thực hiện công tác tư pháp ở các
địa phương cụ thể. Thông qua đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Bảo đảm nguyên
tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh
Đăk Nông” để nghiên cứu nhằm góp phần hoàn thiện hơn về mặt lý luận cũng
như về tính thực tiễn của các quy định có liên quan đến công tác tư pháp trong
bối cảnh hiện nay.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi chọn đề tài này, bản thân đã có thời gian làm công tác xét xử
và nghiên cứu qua nhiều bài viết, công trình nghiên cứu của các nhà nghiên
cứu pháp lý đã được công bố như các bài viết đăng trên Tạp chí khoa học
pháp lý, tạp chí Viện kiểm sát, tạp chí Tòa án nhân dân: “ Cải cách tư pháp và
các giải pháp phòng, chống oan, sai trong tố tụng hình sự” của tác giả TS.
Trịnh Tiến Việt năm 2012 [20]; “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam – Những
vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thái Phúc năm 2007 [8];
“Phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả
Phạm Hồng Hải năm 2009 [7]; “Phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng
hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Mai năm 2009; “Những nội dung
mới trong Bộ luật tố tụng hình sự” sách chuyên khảo của PGS.TS Nguyễn
10


Hòa Bình làm chủ biên [2].
Mặc dù các công trình nghiên cứu mà chúng tôi được tiếp cận đều
nghiên cứu dưới góc độ vĩ mô, nhưng thông qua đó, tạo nền tảng để chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài luận văn này. Thông qua các phương pháp so

sánh, phân tích, đánh giá những khiếm khuyết trong quá trình áp dụng thực
tiễn theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam chúng tôi thực hiện các nội
dung trong khuôn khổ đề tài “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động
xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Đăk Nông”. Từ việc nghiên cứu,
lý luận kết hợp với thực tiễn tại địa phương, chúng tôi đề xuất một số giải
pháp với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về các
vấn đề lý luận bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm hệ thống hóa các khái niệm, luận cứ về mặt lý
luận và thực tiễn đối với bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự. Bên cạnh đó, tác giả cũng mong muốn làm rõ hơn yêu
cầu phải cải cách tư pháp trong bối cảnh hiện nay. Từ đó, đề xuất một số giải
pháp với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về các
vấn đề lý luận bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã đề ra, công trình nghiên cứu của tác giả tiến
hành thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, luận văn tiến hành phân tích các khái niệm và làm rõ cơ sở lý
luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng thông qua: nội dung, yêu cầu, vai trò
và ý nghĩa của nó.
Thứ hai, tác giả tiến hành tìm hiểu, đánh giá về thực trạng thực bảo
đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn
tỉnh Đăk Nông theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.
11


Thứ ba, từ thực trạng trên, đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm
bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong bối cảnh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong công trình này, nhóm đối tượng nghiên cứu bao gồm: lý luận về
cải cách tư pháp; nguyên tắc tranh tụng và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng và
hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này tác giả chú trọng vào việc làm sáng tỏ một số vấn đề về bảo
đảm nguyên tắc tranh tụng và hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở địa
bàn tỉnh Đăk Nông theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Nghiên cứu được tiến hành từ khi Bộ luật tố tụng hình sự được ban
hành đến nay, cụ thể là trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu này, phương pháp luận được dựa trên những
cơ sở gồm: chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, nghị
quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hiến pháp, pháp luật của nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau gồm: phương pháp lịch sử - hệ thống, phương
pháp thống kê - phân tích, phương pháp tổng hợp - so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn được thực hiện với mong muốn góp phần bổ
sung lý luận về cải cách tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử; bổ sung
hoàn thiện lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự của Toà án nhân dân.
Về mặt thực tiễn, luận văn nhằm góp phần chỉ ra hạn chế trong các quy
12


định của pháp luật thông qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật tại địa
bàn nghiên cứu. Qua đó, tác giả đề xuất xây dựng những giải pháp nhằm góp

phần nâng cao tính hiệu quả của pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
nghiên cứu được chia thành các phần cụ thể gồm:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử trong các vụ án hình sự.
Chương 2. Thực trạng bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của
Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Đăk Nông.
Chương 3. Hoàn thiện các bảo đảm của nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử trong các vụ án hình sự.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC
TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1.Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự
Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa được thực hiện để bảo đảm tính
công bằng, công khai, dân chủ giữa những người tham gia tố tụng với Kiểm
sát viên. Trong tố tụng hình sự, hoạt động tranh tụng là một trong những nội
dung có ý nghĩa quan trọng, là một trong những căn cứ để xác định sự thật
khách quan của vụ án. Tầm quan trọng của tranh tụng trong xét xử đã được
thể hiện trong nhiều văn bản trước đây như: Nghị quyết 08-NQ/TW ngày
01/01/2002, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận 79-KL/TW
ngày 28/7/2010 v.v…
Thông qua việc ban hành Hiến pháp năm 2013, việc bảo đảm tranh
tụng trong xét xử lần đầu tiên được ghi nhận thành một nguyên tắc. Đây là
bước tiến lớn trong hoạt động xây dựng pháp luật và phù hợp với công cuộc
tiến hành cải cách tư pháp của Đảng và của Nhà nước.
13


Nguyên tắc làm cho hoạt động xét xử phải bảo đảm giữa cán bộ tư

pháp, giữa các bên với nhau và những người có liên quan, tham gia tố tụng có
sự bình đẳng như nhau trong việc đưa ra chứng cứ, buộc tội, bào chữa và
tranh luận công khai, dân chủ tại phiên tòa đang diễn ra. Hội đồng xét xử phải
căn cứ từ kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra,
đánh giá tại phiên tòa để đưa ra những phán quyết.
Trách nhiệm bảo đảm các điều kiện theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự thuộc về Hội đồng xét xử. Những vấn đề có liên quan giữa các bên
tranh tụng đều phải được đối đáp, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Hội đồng
xét xử có trách nhiệm xem xét mọi chứng cứ để xác định có tội hoặc vô tội,
tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thông qua các chứng
cứ, tình tiết có liên quan, áp dụng Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết
định mức hình phạt, mức bồi thường để khắc phục hậu quả cho người bị hại.
Có thể nói, thông qua Hiến pháp sửa đổi năm 2013, lần đầu tiên trong
lịch sử lập hiến, nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận. Đây chính là tư tưởng
là nền tảng cho những những quy định của pháp luật và thực thi pháp luật.
Trong Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, nguyên tắc tranh tụng được cụ thể
hoá ra sao? Phạm vi điều chỉnh như thế nào? Có những nội dung nào trong
nguyên tắc này?...là những vấn đề đã và đang được các nhà khoa học, nhà
nghiên cứu, nhà làm luật và các cơ quan hữu quan tìm hiểu xây dựng để ngày
càng hoàn thiện hơn.
Theo quy định pháp luật của nước ta hiện nay, nguyên tắc tranh tụng về
cơ bản bao gồm nội dung chủ yếu sau:
Trong hoạt động xét xử, trọng tâm là tranh tụng. Vai trò của Hội đồng
xét xử là phải bảo đảm và không hạn chế thời gian tranh tụng giữa Kiểm sát
viên với những người tham gia tố tụng khác.
Các bên tham gia tranh tụng có sự bình đẳng với nhau về đưa bằng
chứng, chứng cứ, các quan điểm, luận cứ và luận chứng của mình. Sự bình
14



đẳng còn được thể hiện trong đối đáp hay tranh luận, trong chứng minh hay
bác bỏ quan điểm giữa các bên tham gia tranh tụng với nhau. Quá trình diễn
ra tranh tụng phải gắn với tinh thần thượng tôn pháp luật, giữa các bên có sự
tôn trọng lẫn nhau, cũng như văn hoá ứng xử tại phiên tòa.
Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu chứng cứ, đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, phải căn cứ vào kết quả tranh tụng
tại phiên toà để đưa ra bản án và quyết định cuối cùng. Trách nhiệm bảo đảm
các điều kiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thuộc về Hội đồng xét
xử, để các bên có thể tham gia tranh tụng.
Qua đó cho thấy, nguyên tắc tranh tụng được thực thi từ khi mở cho
đến khi kết thúc phiên toà xét xử vụ án hình sự. Trong đó, tập trung chính vào
phần tranh luận của Kiểm sát viên với những người có liên quan, tham gia tố
tụng.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử các vụ án hình sự
Trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam, Bộ luật tố tụng hình sự năm
1989, 2003 đều quy định trình tự tố tụng tại phiên toà xét xử sơ thẩm và phúc
thẩm tương tự như nhau, bao gồm các thủ tục mở đầu, xét hỏi, tranh luận,
nghị án và tuyên án. Thủ tục mở đầu phiên toà nhằm kiểm tra các điều kiện
cần thiết cho việc mở phiên toà. Thủ tục xét hỏi nhằm kiểm tra và công khai
toàn bộ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ; xem xét các mâu thuẫn (nếu có)
của các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ; công bố bổ sung và kiểm tra các tài
liệu, chứng cứ mới do các bên cung cấp tại phiên toà. Tranh luận là trình tự tố
tụng mà các bên trong TTHS (bên buộc tội và bên gỡ tội) dựa trên các chứng
cứ, các quy định của pháp luật, đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng
để làm rõ các vấn đề trong vụ án. Trong các trình tự tố tụng diễn ra tại phiên
toà, chỉ có trình tự tranh luận là có sự diễn ra đối đáp hai chiều, có đi có lại
giữa quan điểm của các bên buộc tội và gỡ tội. Thông qua tranh luận, đối đáp,
15



phản biện, bác bỏ quan điểm lẫn nhau để có cơ sở khẳng định quan điểm của
mỗi bên. Nhìn chung, mỗi trình tự tố tụng đều có ý nghĩa pháp lý riêng trong
việc nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, tuy nhiên hoạt động tranh
tụng của KSV là hoạt động trọng tâm tại phiên toà xét xử.
Trong công tác cải cách tư pháp, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính đã xác định rằng trước hết cần phải nâng cao chất
lượng của người đóng vai trò công tố, việc tranh tụng cần bảo đảm được tính
dân chủ với Luật sư, và với những người tham gia tố tụng. Trong quá trình xét
xử, tòa án có vai trò bảo đảm sự bình đẳng của các bên tham gia tranh tụng.
Người giữ vai trò Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và thực hiện nhiệm vụ của
mình chỉ tuân theo các quy định pháp luật. Các phán quyết phải căn cứ vào
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các bản án cần phải đúng với quy định, thuyết
phục và trong thời gian quy định của pháp luật. Một trong những hoạt động
đột phá của các cơ quan tư pháp theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước là phải
nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng
tại tất cả các phiên tòa xét xử theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ chính trị và Nghị quyết số 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012.
Qua đó cho thấy khái niệm tranh tụng xuất hiện chính thức qua các
Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp. Khái niệm này cũng đã được đưa
vào trong quy định của Hiến pháp từ năm 2013. Ở đây hoạt động tranh luận
của KSV và những người tham gia tố tụng tại phiên toà xét xử vụ án hình sự
(gồm cả sơ thẩm và phúc thẩm) là tranh tụng. Trong đó, KSV và người tham
gia tố tụng dựa trên các quy định của pháp luật, qua các chứng cứ, với tư duy
logic hình thức để xây dựng nên các luận điểm, luận cứ và luận chứng nhằm
đưa vụ án về đúng với sự thật khách quan của nó.
Từ những phân tích, trình bày ở trên cho thấy, bản chất của khái niệm
“tranh tụng” được nhìn dưới hai góc độ pháp lý và nhận thức. Bản chất của
tranh tụng dưới góc độ pháp lý bao gồm:
16



Tranh tụng được thực hiện bởi sự tham gia của Kiểm sát viên và người
tham gia tố tụng khác, phải tuân theo các quy định của Bộ luật TTHS. Các
bên tham gia tranh tụng ở những vai trò khác nhau nhưng bình đẳng với nhau
trong việc thực hiện các hoạt động nhằm đưa vụ án kết thúc. Kiểm sát viên có
thể tranh tụng với luật sư, với người phạm tội, người bị hại và những người
tham gia tố tụng khác để làm sáng tỏ mục đích của người tham gia tranh tụng.
Trong quá trình diễn ra hoạt động tranh tụng tại phiên toà, chủ toạ
phiên toà có quyền có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranh tụng hoặc chấm
dứt tranh tụng. Nội dung, phương pháp tranh tụng được người chủ tọa điều
chỉnh trong toàn bộ quá trình diễn ra tại phiên tòa để làm rõ vụ án và đúng
theo quy định của pháp luật.
Tìm ra sự thật khách quan của vụ án chính là mục tiêu mà hoạt động
tranh tụng nhắm đến, bao gồm: dưới góc độ thực tiễn và dưới góc độ pháp lý.
Về góc độ pháp lý, được khái quát từ thực tiễn và trên cơ sở pháp luật hình sự
và Bộ luật TTHS.
Các quan điểm, luận cứ và luận chứng của các bên đưa ra trong việc
giải quyết vụ án chính là đối tượng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa.
Các bên chủ thể tranh tụng dựa vào các quy định của pháp luật hiện hành, sử
dụng các chứng cứ trong hồ sơ cũng như chứng cứ mới cung cấp đã được
kiểm tra tại phiên tòa, để làm rõ các đối tượng tranh tụng là cách thức thực
hiện tranh tụng.
Khi xem xét tranh tụng là hoạt động nhận thức thì bản chất của tranh
tụng trước hết là được tiến hành trên cơ sở tư duy logic hình thức. Các bên
tham gia tranh tụng sử dụng các hình thức, biện pháp khác nhau để khẳng
định, bác bỏ hoặc thừa nhận quan điểm của các bên tham dự phiên tòa.
Các bên tham gia tranh tụng có quyền và có trách nhiệm tiến hành
tranh tụng, và điều đó còn là một phần của sự thật khách quan của vụ án. Xét
về nguyên tắc, thông qua tranh tụng chân lý về vụ án phải được tìm thấy. Còn

17


với trường hợp vụ án có đầy đủ bằng chứng, người vi phạm tự giác nhận tội
và không có các ý kiến trái chiều thì không diễn ra hoặc chỉ diễn ra việc tranh
tụng ở chừng mực nào đó mà thôi.
1.3. Các vấn đề về bảo đảm của nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử các vụ án hình sự
Vấn đề bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự
để loại bỏ tình trạng oan sai, bảo đảm quyền con người đã được Đảng đề cập
trước hết trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị.
Kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các chứng cứ và ý kiến của KSV… được tòa
án lấy làm căn cứ để ra những bản án đúng pháp luật và có sức thuyết phục”.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng đã đề ra yêu cầu: “Nâng cao chất
lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả
phiên tòa xét xử. Đây được xem Bộ chính trị xem là hoạt động đột phá của
các cơ quan tư pháp.
Với các Nghị quyết nêu trên cho thấy quan điểm của Đảng coi tranh
tụng là khâu đột phá trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp, nâng cao chất
lượng tranh tụng sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác xét xử, tránh oan
sai và bảo vệ các quyền cơ bản của người bị buộc tội. Yêu cầu bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự thể hiện qua các Nghị
quyết của Đảng là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng và
hoàn thiện các quy định pháp luật về tố tụng hình sự.
Thực hiện các quan điểm chỉ đạo của Đảng, vấn đề bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự đã từng bước thể chế hóa đưa vào
quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật về tố tụng hình sự, được hệ
thống Tòa án áp dụng vào thực tiễn công tác xét xử từ nhiều năm qua.
Về mặt pháp lý, mặc dù thuật ngữ “tranh tụng” chưa được đề cập chính

thức trong các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể, mới chỉ quy định tại

18


Chương XXI của Bộ luật TTHS là tranh luận tại phiên tòa, song từ thực tế
hoạt động xét xử các vụ án hình sự có thể hiểu: tranh tụng trong tố tụng hình
sự là tranh luận giữa các bên (bên buộc tội và bên gỡ tội) dựa trên những tài
liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án, làm cơ sở cho
việc ra phán quyết của Tòa án.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều quy định bảo đảm tranh
tụng tại phiên tòa như Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng có quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu
đưa thêm vật chứng và tài liệu để xem xét (Điều 305); người bào chữa có
quyền bình đảng với Kiểm sát viên, người bào vệ quyền lợi của đương sự
trong việc xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác (các Điều 307,
309, 311, 312 và 316) có quyền cùng Hội đồng xét xử xem xét vật chứng,
xem xét tại chỗ hiện trường nơi xảy ra tội phạm và trình bày nhận xét của
mình (Điều 312, 314) và trình tự phát biểu khi tranh luận và đối đáp.
Tòa án là trung tâm, xét xử là trọng tâm, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong quá trình thực hiện việc xét xử là chủ trương đã được Đảng ta xác định.
Để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, nhiều quy định đã được bổ
sung trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Cụ thể bộ luật TTHS đã quy
định trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu, đề nghị của Kiểm
sát viên, của những người tham gia tố tụng về việc bổ sung các chứng cứ, tài
liệu, triệu tập người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác đến
phiên tòa, việc thay đổi thành viên hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa, kiểm sát
viên, đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (Điều 279)
Để khắc phục tình trạng chất lượng tranh tụng còn hạn chế ở những
phiên tòa có đông bị cáo và có nhiều luật sư tham gia theo quy định cũ chỉ có

hai kiểm sát viên tham gia (Điều 189 – Bộ luật TTHS 2003). Do vậy Bộ luật
TTHS năm 2015 đã quy định: Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát viên
Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt, kiểm sát xét xử tại phiên tòa; phải hoãn
19


phiên tòa nếu Kiểm sát viên không có mặt tham dự. Có thể có nhiều Kiểm sát
viên trong quá trình tranh tụng khi vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp
(Khoản 1 Điều 289);
Đặc biệt, nhằm giúp cho việc tranh tụng thể hiện ở phần tranh luận và
cả trong phần xét hỏi, Mục V thuộc chương XXI của Bộ luật TTHS năm 2015
đã xuất hiện nội dung “thủ tục tranh tụng tại phiên tòa”. Đồng thời, về trình
tự xét hỏi cũng đã được sửa đổi, bổ sung thêm các quy định. Các sự việc,
chứng cứ và người có liên quan được Hội đồng xét xử xác định đầy đủ theo
đúng quy định. Quá trình điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi
sau theo thứ tự hợp lý thuộc về thẩm quyền của Chủ tọa phiên tòa (Khoản 1
Điều 307).
Tại phiên tòa, để có cơ sở thực hiện tranh luận dân chủ, Bộ luật TTHS
năm 2015 đã bổ sung quy định về vai trò và trách nhiệm cũng như các công
việc của Kiểm sát viên phải thực hiện. Các công việc đó phải dựa trên cơ sở
pháp luật, để nhằm giải quyết vụ án có hiệu quả, chính xác nhất.
Đề nghị kết tội, xử lý người phạm tội theo toàn bộ hay một phần nội
dung cáo trạng hoặc đề nghị các mức hình phạt khác nhau, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, xử lý vật chứng.
Kiến nghị cách phòng ngừa tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật (Điều
321) và nhấn mạnh trách nhiệm của Kiểm sát viên là phải đưa ra chứng cứ,
lập luận để tranh tụng trong suốt quá trình, trong từng ý kiến của những người
tranh tụng và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Khoản 4 Điều 322
quy định rằng trường hợp ý kiến của những người tham gia phiên tòa không
được chấp nhận thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và những lý giải đó

được lưu giữ trong bản án.
Trước đây, mô hình tố tụng hình sự ở nước ta theo quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003 chủ yếu là mô hình thiên về xét hỏi. Tranh tụng chỉ
được thể hiện trong quá trình xét xử tại Tòa án giữa Viện kiểm sát và những
20


người tham gia tố tụng nên kết quả, chất lượng tranh tụng chưa cao. Trong
một số vụ án, việc giải quyết phụ thuộc chủ yếu vào tài liệu, chứng cứ thu
thập được trong quá trình điều tra, dẫn đến việc giải quyết chưa chính xác,
thiếu khách quan, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham
gia tố tụng, nhiều vụ án, vụ việc đã được giải quyết sau đó đã bị kết luận oan
sai, để lại bài học kinh nghiệm sâu sắc cho ngành Tư pháp.
Trên cơ sở tinh thần cải cách tư pháp mạnh mẽ và cụ thể hóa quan điểm
chỉ đạo của Đảng, tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã quy định vấn
đề bảo đảm nguyên tắc tranh tụng đã được ghi nhận thành một nguyên tắc:
“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” và trở thành cơ sở pháp
lý quan trọng, làm nền tảng cho việc xây dựng và thực hiện nguyên tắc này
trong thực tế. Xuất phát từ nguyên tắc này, nguyên tắc “Tranh tụng trong xét
xử được bảo đảm” đã được bổ sung trong Điều 26 Bộ luật TTHS năm 2015.
Những nguyên tắc cơ bản để cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp:
“Trong quá trình xử lý một vụ án, quyền bình đẳng được bảo đảm trong
việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật
khách quan của vụ án là như nhau giữa người thực hiện công tác điều tra,
người thực hiện công tác tố tụng, cũng như người bị buộc tội, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác.
Hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án phải bảo đảm đầy đủ và
hợp pháp về các tài liệu, chứng cứ trước khi tiến hành xét xử một vụ án hình
sự. Theo quy định của Bộ luật này, những người liên quan phải có mặt đầy đủ
trong phiên tòa xét xử vụ án và chỉ có thể vắng mặt bởi những vì lý do bất khả

kháng hoặc do trở ngại khách quan. Người đóng vai trò công tố, người bào
chữa, những người tham gia tố tụng khác được tòa án tạo điều kiện để thực
hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ trước Tòa án.
Mọi chứng cứ, hoạt động xử lý vật chứng, các tình tiết khác có liên
quan đến việc tố tụng, tranh tụng và phán quyết theo quy định của Bộ luật
21


hình sự có ý nghĩa góp phần giải quyết vụ án đều phải được thể hiện cụ thể, rõ
ràng tại thời điểm diễn ra phiên tòa.
Bản án, quyết định của Tòa án phải dựa trên nhiều yếu tố khác nhau,
trong đó bao gồm căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả
tranh tụng tại phiên tòa.
Đây là lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được quy định trực tiếp trong
Bộ luật Tố tụng hình sự, từ đó nguyên tắc tranh tụng cũng đã được ghi nhận
trong các quy định khác của Bộ luật nhằm tăng cường hiệu quả, chất lượng
tranh tụng trong toàn bộ tiến trình tố tụng vụ án hình sự, bảo đảm quyền con
người, chống oan sai, nhanh chóng xác định sự thật khách quan của vụ án.
Nội dung của nguyên tắc tranh tụng được thể hiện qua một số vấn đề sau:
Một là, nguyên tắc đã khẳng định quá trình tranh tụng được diễn ra
trong suốt quá trình tố tụng vụ án hình sự, được bắt đầu ngay từ giai đoạn
khởi tố, tức là bắt đầu từ khi xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm và
xuyên suốt đến giai đoạn xét xử, bảo đảm cho các bên tham gia tố tụng có đầy
đủ thời gian, điều kiện cần thiết để thu thập, củng cố chứng cứ, hồ sơ, tài liệu
và các tình tiết của vụ án trước khi bước vào cuộc tranh tụng tại phiên tòa xét
xử.
Hai là, về chủ thể tranh tụng, bao gồm hai bên là bên buộc tội (Điều tra
viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng) và bên gỡ
tội (người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa và người tham gia
tố tụng khác).

Ba là, về mối quan hệ, vị trí giữa các chủ thể thực hiện hoạt động tranh
tụng là bình đẳng. Đây là sự cụ thể hóa nguyên tắc Hiến định mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật (Điều 16 Hiến pháp năm 2013), là tiền đề quan
trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền
lợi của mình khi tham gia tố tụng. Trong việc đưa ra, đánh giá chứng cứ trước
hết phải thực sự bình đẳng thì mới bảo đảm được chất lượng và hiệu quả cho
22


quá trình tranh tụng tại tòa án.
Đồng thời, để bảo đảm sự bình đẳng, nguyên tắc này cũng quy định rõ
trách nhiệm của Tòa án trong hoạt động tranh tụng. Tòa án phải đứng ở vị trí
trung gian, độc lập, khách quan, bảo đảm cho hai bên buộc tội và gỡ tội thực
hiện quyền hạn, chức năng của mình. Bảo đảm cho người có vai trò công tố
viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện
đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh luận dân chủ trước Tòa án là trách
nhiệm của tòa án.
Bốn là, nguyên tắc xác định “tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do
Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp” để các
chứng cứ của vụ án phải được thể hiện đầy đủ trước Tòa, làm căn cứ cho việc
xét hỏi, tranh luận công khai, khách quan, toàn diện và để việc tranh tụng diễn
ra được thuận lợi nhất.
Năm là, nguyên tắc quy định phiên tòa xét xử phải bảo đảm sự có mặt
đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nếu vắng mặt
thì chỉ được vắng vì lý do bất khả kháng, do trở ngại khách quan hoặc trường
hợp khác do luật định nhằm bảo đảm sự tranh tụng giữa các bên.
Sáu là, mọi chứng cứ, xử lý vật chứng, các tình tiết khác có liên quan
đến việc tố tụng, tranh tụng và phán quyết theo quy định của Bộ luật hình sự
có ý nghĩa góp phần giải quyết vụ án đều phải được thể hiện cụ thể, rõ ràng
tại thời điểm phiên tòa được diễn ra. Thông qua tranh tụng giữa các bên, Tòa

án có thể hiểu rõ hơn toàn bộ các tình tiết của vụ án, tái hiện lại vụ án một
cách trung thực, khách quan, trên cơ sở đó áp dụng chính xác của quy định
của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để đưa ra phán quyết đúng đắn nhất.
Bảy là, nguyên tắc quy định “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn
cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên
tòa” nhằm khẳng định rõ việc tranh tụng chỉ là hình thức nếu kết quả tranh
tụng không được thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án; Bản án, quyết
23


định của Tòa phải căn cứ vào sự thật khách quan đã được làm rõ qua hoạt
động tranh tụng trực tiếp, công khai tại phiên tòa xét xử.
Như vậy, việc quy định tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong tố
tụng hình sự góp phần nâng cao chất lượng công tác xét xử của Tòa án các
cấp, chống oan sai, bảo vệ quyền con người; đồng thời cũng cho thấy quyết
tâm của Đảng và Nhà nước ta trong tiếp tục thực hiện tiến trình cải cách tư
pháp với mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng
sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Ở một số nước phát triển, tranh tụng và nguyên tắc tranh tụng đã có và
được thừa nhận từ rất lâu. Tuy nhiên, cho đến trước năm 2013 thì vấn đề này
chưa được tiến hành nghiên cứu sâu, trong các văn bản pháp lý chính thức của
Nhà nước cũng chưa được thừa nhận. Sự thừa nhận mang tính sơ khai đầu
tiên về tranh tụng ở Việt Nam trong các văn bản chính thức của Đảng đó
chính là Nghị quyết 08/2002/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 01/01/2002 về
một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, xác
định“…việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng
tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của
kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo …để ra những bản án, quyết định đúng
pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định” . Yêu cầu

nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp và chất lượng tranh
tụng lại tiếp tục được thể hiện trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị.
Tranh tụng được coi là khâu đột phá trong hoạt động xét xử, chất lượng
xét xử được nâng cao thông qua hiệu quả của tranh tụng. Thông qua đó, giảm
thiểu tình trạng oan sai đối với người bị buộc tội và bảo vệ các quyền con
người cơ bản của họ. Nguyên tắc tranh tụng được thừa nhận chính thức thông
qua bản Hiến pháp mới của Việt Nam vào năm 2013. Có thể xem định hướng
24


chỉ đạo cho việc tiếp tục quy định nguyên tắc tranh tụng trong bộ luật TTHS
đã được quy định tại khoản 5 Điều 103 của Hiến pháp.
Nguyên tắc tranh tụng được thể hiện tại Điều 26, Bộ luật TTHS 2015
như sau: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm
sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ,
đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ án hình sự đến Tòa án để xét xử thì
trong hồ sơ phải bao gồm tất các tài liệu, chứng cứ có liên quan và đúng theo
quy định. Những người có liên quan phải đến tham dự theo đúng quy định,
nếu vắng mặt phải có lý do chính đáng, khách quan. Tại phiên tòa, những
người tham gia tố tụng được tòa án tạo điều kiện trong việc thực hiện tranh
tụng dân chủ.
Mọi tình tiết, chứng cứ để định tội, hình phạt, mức bồi thường và các
tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận
cụ thể, rõ ràng tại thời điểm diễn ra phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh tụng,
chứng cứ trong hồ sơ mà tòa án đưa ra bản án cuối cùng.
Như vậy, BLTTHS ban hành năm 2015 cũng chính là lần đầu tiên
nguyên tắc tranh tụng được thừa nhận và thể hiện. Đây chính là khởi đầu cho

việc ban hành một loạt các quy định khác nhau của Bộ luật về tranh tụng.
Việc ban hành này nhằm mục đích bảo đảm quyền con người, chống oan sai,
và nhanh chóng tìm ra được sự thật khách quan của vụ án. Trong Điều 26 của
BLTTHS năm 2015, vấn đề tranh tụng gồm một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, sự thật của vụ án được xác định thông qua nhiều bước, có
mục đích và nhiệm vụ khác nhau, được thực hiện bởi nhiều người. Trong tố
tụng hình sự, việc tranh tụng có nhiều quan điểm bàn về sự xuất hiện của nó
là từ thời điểm nào. Một số ý kiến cho rằng quá trình tố tụng hình sự bắt đầu
sớm hơn thời điểm diễn ra tranh tụng (sau khởi tố vụ án). Bên cạnh đó, có
25


×