Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

NGUYỄN THỊ PHƢƠNG

VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TẠI HUYỆN SA PA, TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Hà Nội - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

NGUYỄN THỊ PHƢƠNG

VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TẠI HUYỆN SA PA, TỈNH LÀO CAI

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số:

60.22.03.08
LUẬN VĂN THẠC SĨ



Chủ tịch Hội đồng

Giảng viên hƣớng dẫn

PGS.TS. Nguyễn Thúy Vân

TS. Nguyễn Thị Lan

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của tôi được sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Lan. Các nội dung nghiên cứu và kết quả
nghiên cứu dưới đây đều là kết quả thực và chưa được công bố ở bất kỳ hình thức
nào trước đó.
Nếu phát hiện ra bất kỳ một hình thức gian lận nào, tôi xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm về bài Luận văn của mình.

Ngƣời viết

Nguyễn Thị Phƣơng


LỜI CẢM ƠN
Từ những kết quả đã đạt được, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới quý thầy
cô trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt
là thầy cô khoa Triết học đã truyền đạt cho tôi những kiến thức bổ ích trong thời
gian qua. Tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt tới TS. Nguyễn Thị Lan đã giúp đỡ tôi hết

sức tận tình trong suốt thời gian tôi thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới cán bộ các xã, cán bộ huyện Sa Pa, tỉnh Lào
Cai đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành Luận văn Thạc sĩ của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 7
Chƣơng 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................................................ 13
1.1. Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp cơ sở ..................... 13
1.1.1. Hệ thống chính trị .................................................................. 13
1.1.2. Hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Việt Nam ................................. 14
1.2. Xây dựng nông thôn mới ............................................................ 19
1.2.1.Nông thôn mới và đặc trưng của nông thôn mới ....................... 19
1.2.2. Bộ tiêu chí về nông thôn mới .................................................. 21
1.3. Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong xây dựng nông
thôn mới ở Việt Nam .......................................................................... 22
1.3.1.Vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng ................................. 22
1.3.2.Vai trò quản lý của chính quyền địa phương ............................ 24
1.3.3.Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên. 26
Tiểu kết Chƣơng 1 .................................................................................... 29
Chƣơng 2. VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ TRONG
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TẠI HUYỆN SA PA,
TỈNH LÀO CAI - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP .................................... 30
2.1. Đặc điểm và quá trình xây dựng nông thôn mới tại huyện Sa Pa….. 30
2.1.1. Đặc điểm của huyện Sa Pa...................................................... 30
2.1.2. Quá trình xây dựng nông thôn mới tại huyện Sa Pa - Thành tựu và hạn chế... 35
2.2. Thực trạng quá trình thực hiện vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở

trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Sa Pa ........................................ 56
2.2.1.Vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng cơ sở ................................. 57
2.2.2.Vai trò của chính quyền địa phương ........................................ 63
2.2.3. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên 66

4


2.3. Giải pháp phát huy vai trò của hệ thống chính cấp trị cơ sở trong
quá trình xây dựng nông thôn mới tại huyện Sa Pa ........................... 77
2.3.1. Nâng cao vai trò của Đảng bộ cơ sở ....................................... 77
2.3.2. Đổi mới nội dung phương thức hoạt động của các tổ chức chính quyền
cơ sở, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thành viên ........... 79
2.3.3. Nâng cao vai trò của đội ngũ cán bộ cơ sở ............................. 82
Tiểu kết Chƣơng 2 .................................................................................... 85
KẾT LUẬN ............................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 88
PHỤ LỤC ................................................................................................. 91

5


BẢNG CHỮ CÁI, KÝ HIỆU VIẾT TẮT

- CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

- HĐND


: Hội đồng nhân dân

- HTCT

: Hệ thống chính trị

- HTCT CCS

: Hệ thống chính trị cấp cơ sở

- HTCT XHCN

: Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa

- UBND

: Ủy ban nhân dân

- MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc

- MTQG

: Mục tiêu Quốc gia

- NTM

: Nông thôn mới


6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước đang phát triển, cư dân nông thôn chiếm tới 70%; chính
bởi vậy, nông nghiệp, nông dân, nông thôn đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá
trình xây dựng và phát triển mọi mặt đời sống. Gần 30 năm qua, nông nghiệp, nông
dân, nông thôn đã từng bước đặt nền móng, tạo đà phát triển kinh tế của cả nước, đặc
biệt là trong thời kỳ đổi mới như hiện nay. Tuy nhiên, từ thực tế cho thấy: Vấn đề
đang được đặt ra là làm thế nào để phát triển nông nghiệp vừa nâng cao về năng suất
nhưng cũng phải đảm bảo về chất lượng? Nhận thấy được tính cấp thiết của vấn đề,
trong Nghị quyết 26-NQ/TW tại Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa
X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện Chương
trình Mục tiêu quốc gia (MTQG) về xây dựng nông thôn mới (NTM) với mục đích
tạo đà phát triển về mọi mặt kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa trên phạm vi cả nước.
Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI của Đảng được tiến hành, nước ta bước
vào thời kỳ đổi mới và đặc biệt chú trọng tới việc đổi mới kinh tế còn đang lạc hậu
song song với đổi mới về hệ thống chính trị (HTCT). Sau hơn 30 năm thực hiện đổi
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), nước ta đã có được những chuyển
biến quan trọng, đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực: Kinh tế, văn hóa, xã
hội… Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng khích lệ, những vấn đề mang tính
tiêu cực, nguy hại đối với sự phát triển đất nước cũng xuất hiện trong nội tại sự phát
triển. Tạo dựng sự ổn định về chính trị từ Trung ương tới địa phương là giải pháp tối
ưu, là nền tảng vững chắc để xây dựng nền kinh tế phát triển bền vững. Chính vì vậy,
Chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM được Đảng và Nhà nước ta tiến
hành với mục đích đổi mới và nâng cao chất lượng của HTCT cấp xã, phường, thị
trấn; nhằm thực hiện sự ổn định HTCT từ trung ương tới địa phương, tạo tiền đề cho
sự phát triển kinh tế đất nước.
HTCT của nước ta được kết cấu chặt chẽ, xuyên suốt từ trung ương đến địa

phương với 04 cấp, trong đó cấp xã là cấp cơ sở ở nông thôn, giữ vai trò đặc biệt
quan trọng đối với việc giữ vững ổn định về mọi mặt tại địa phương mà rộng hơn là

7


cả nước. Sau khi chương trình MTQG về xây dựng NTM được thông qua và ban
hành, huyện Sa Pa dưới sự chỉ đạo của tỉnh Lào Cai, nhanh chóng triển khai và thực
hiện quá trình xây dựng NTM trên toàn huyện, đặc biệt chú trọng tới nâng cao hoạt
động của HTCT CCS. Bước đầu, huyện Sa Pa đã đạt được nhiều thành tựu, chất
lượng cuộc sống được nâng lên, đời sống nhân dân được cải thiện, cơ sở vật chất
được cải thiện,... Tuy nhiên, quá trình xây dựng NTM diễn ra với tốc độ chậm do
huyện còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn chưa cao, đời sống kinh tế, văn
hóa,…còn nhiều hạn chế. Cụ thể: đến năm 2014, toàn huyện có 01 xã (xã Nậm
Cang) đạt chuẩn về NTM, nhưng chỉ hơn 3 năm sau đó, xã Nậm Cang đã không còn
là xã NTM. Tính đến tháng 06 năm 2018, toàn huyện Sa Pa chưa có xã nào là xã
NTM. Vấn đề trên đã phản ánh được nhiều hạn chế trong quá trình xây dựng NTM
tại xã Nậm Cang nói riêng cũng như toàn huyện nói chung. Nguyên nhân cơ bản là
do sự yếu kém, hoạt động kém hiệu quả của HTCT CCS, điều này tác động hết sức
to lớn tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Sa Pa. Với mục
đích mang lại nhận thức đúng đắn về vai trò của HTCT CCS đồng thời đưa ra
những quan điểm, giải pháp phù hợp để đổi mới, nâng cao chất lượng HTCT CCS
trong và sau quá trình xây dựng NTM tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai tôi chọn nghiên
cứu đề tài: “Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn
mới tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về vai trò của HTCT, HTCT CCS trong xây dựng NTM có các
công trình nghiên cứu như:
Nhóm các công trình nghiên cứu về HTCT CCS:
- GS.TS. Hoàng Chí Bảo (chủ biên), “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn

nước ta hiện nay”. Cuốn sách là kết quả nghiên cứu của đề tài “Nghiên cứu một số
vấn đề nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở, trong sự nghiệp đổi
mới và phát triển của nước ta hiện nay”. Đây là một tài liệu khoa học bổ ích góp
phần làm sáng tỏ tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX).

8


- TS. Chu Văn Thành (2004), Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội: “Hệ thống
chính trị cơ sở - Thực trạng và một số giải pháp đổi mới” đã cung cấp những tư liệu
và luận cứ khoa học - thực tiễn về HTCC CCS, nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu
hoạch định chính sách đối với HTCT CCS theo tinh thần Nghị quyết Trung ương
năm, khóa IX.
- PGS.TS Vũ Hoàng Công (2004), Nxb. Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội: “Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải pháp” đã nêu lên những
vấn đề lý luận cơ bản của HTCT Việt Nam nói chung và HTCT CCS nói riêng; từ đó
rút ra những đặc điểm, những vấn đề bức xúc và kiến nghị những giải pháp cơ bản
trong việc củng cố, nâng cao hiệu quả của HTCC CCS.
- GS. Nguyễn Đức Bình, GS.TS. Trần Ngọc Hiên, GS. Đoàn Trọng Truyến,
Nguyễn Văn Thảo, PGS.TS Trần Xuân Sầm (1999), Nxb. Chính trị Quốc gia Hà
Nội: “Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới” đã
cung cấp lý luận chung về HTCT nói chung, của nước ta nói riêng; trên cơ sở phân
tích, đánh giá HTCT nước ta, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới và tăng
cường hiệu quả hoạt động cũng như vai trò của HTCT ở nước ta hiện nay.
- PGS. Nguyễn Quốc Phẩm (2000), “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân
chủ hoá đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền
núi phía Bắc nước ta” tác giả phân tích, đánh giá về HTCT CCS và bước đầu đã
làm rõ về khái niệm, đặc điểm, cấu trúc, vai trò của HTCT CCS; chỉ ra những xu
hướng vận động chủ yếu và đề xuất những giải pháp cơ bản xây dựng và phát huy
vai trò của HTCT CCS trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội.

- GS.TS. Phạm Ngọc Quang, “Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị nhằm phát huy
hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động”, Tạp chí Triết học, số 3 năm 1996.
Nhóm các công trình nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn, nông dân,
trong xây dựng nông thôn mới:
- PGS.TS. Nguyễn Thế Kỷ (2014), Nxb. Nông nghiệp: “Quy hoạch xây dựng nông
thôn mới” đã cung cấp những tư liệu quan trọng về vấn đề quy hoạch xây dựng NTM.

9


- Vũ Trọng Khải (2015), Phát triển nông nghiệp nông thôn việt Nam hiện
nay: Những trăn trở và suy ngẫm, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật Hà Nội. Công
trình nghiên cứu của tác giả cung cấp tài liệu về thực trạng phát triển nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam trong lịch sử.
- Phan Kế Vân (2011), Quản lý Nhà nước về nông thôn, Nxb. Khoa học và
kỹ thuật Hà Nội.
- TS. Đặng Đình Tân (2002), “Chính quyền cấp xã - những vấn đề đặt ra
hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Đặc san số 3.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trên tập trung
vào phân tích, làm rõ về HTCT hoặc những vấn đề liên quan tới HTCT, HTCT CCS
trên nhiều góc độ, nhiều khía cạnh khác nhau. Các khái niệm công cụ như HTCT,
HTCT CCS, NTM… được các nhà khoa học đi sâu và tập trung làm rõ; phân tích, đánh
giá vị trí, vai trò của HTCT, HTCT CCS trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước,
đặc biệt là quá trình xây dựng NTM ở nước ta hiện nay. Dựa trên kết quả nghiên cứu thu
được, các nhà khoa học chỉ ra những điểm tích cực, hạn chế, bất cập, chỉ ra đặc điểm căn
cốt của HTCT, HTCT CCS của nước ta hiện nay; từ đó đề xuất những giải pháp khắc phục
phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như vị trí, vai trò của toàn hệ thống đối
với quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Nghiên cứu về vai trò của HTCT CCS không còn là vấn đề mới mẻ, tuy
nhiên, việc đi sâu vào nghiên cứu vấn đề này tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai với

những đặc trưng riêng thì chưa có một công trình nghiên cứu nào được thực hiện.
Chính bởi vậy, kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trên đây là điều kiện thuận
lợi để tôi có thể tiếp cận và kế thừa một cách có chọn lọc trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Trên cơ sở phân tích thực trạng, vai trò của HTCT CCS trong xây dựng
NTM tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm phát

10


huy vai trò của HTCT CCS đó, đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM trên địa bàn huyện
trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung về HTCT CCS với xây dựng NTM ở
Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng trong việc thực hiện vai trò của HTCT CCS trong xây
dựng NTM tại huyện Sa Pa.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của HTCT CCS trong xây
dựng NTM tại các địa phương trên địa bàn huyện.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Luận văn được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở của quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về HTCT. Đồng thời, luận văn cũng kế thừa những kết quả của các công trình
nghiên cứu trước về HTCT CCS và vai trò của HTCT CCS đối với xây dựng NTM.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu logic - lịch sử, phân tích tổng hợp, so sánh, đánh giá…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu:
Vai trò của HTCT CCS trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Sa Pa, tỉnh
Lào Cai.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát vai trò của HTCT CCS huyện Sa Pa
đối với việc xây dựng nông thôn mới từ năm 2016 đến 06 tháng đầu năm 2018.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận:

11


Đề tài góp phần làm rõ về vai trò của HTCT CCS trong xây dựng NTM nói
chung và tại huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu cho việc học tập,
nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan tới vai trò của HTCT CCS trong
xây dựng NTM tại huyện Sa Pa. Đồng thời, cung cấp tài liệu cho việc tuyên truyền
chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong công
tác xây dựng NTM tại địa phương, trong đó có những giải pháp phát huy vai trò của
HTCT CCS trong xây dựng NTM.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung chính
của Luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.

12


Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

CẤP CƠ SỞ VÀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp cơ sở
1.1.1. Hệ thống chính trị
Ở nước ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể chân chính
của quyền lực. Chính vì vậy, HTCT ở nước ta là cơ chế, là công cụ để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hiện nay, HTCT của nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước CHXHCN
Việt Nam, MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên được thành lập, hoạt động trên
cơ sở liên minh giai cấp công - nông - trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của người dân.
Xét về cơ cấu tổ chức, HTCT ở nước ta bao gồm ba bộ phận: Đảng Cộng sản
Việt Nam là hạt nhân và là lực lượng lãnh đạo HTCT XHCN và toàn thể xã hội;
Nhà nước CHXHCN Việt Nam là trụ cột, là trung tâm của HTCT; MTTQ Việt Nam
và các đoàn thể chính trị xã hội là cơ sở chính trị của nhà nước và xã hội.
HTCT XHCN của Việt Nam có những đặc điểm như sau:
Một là, HTCT ở nước ta mang bản chất của giai cấp công nhân, tức là các tổ
chức trong cả HTCT đều bền vững trên lập trường quan điểm của giai cấp công
nhân. Từ đó, chức năng, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của toàn bộ HTCT đều
hướng tới đảm bảo quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Hai là, HTCT nước ta mang bản chất dân chủ. Biểu hiện của nó là quyền lực
thuộc về nhân dân, đây là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, thiết lập sự thống trị của
đa số nhân dân với thiểu số bóc lột.
Ba là, bản chất thống nhất không đối kháng của HTCT ở nước ta. Bản chất

13



đó dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, về sự thống nhất
giữa những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể
dân tộc.
Đây cũng chính là điểm khác biệt căn bản của HTCT ở nước ta với HTCT
của các nước tư bản chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự
thống nhất giữa lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động cũng như của cả
dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ở
nước ta, quyền lực chính trị là sức mạnh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội hợp pháp.

1.1.2. Hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Việt Nam
Theo điều 118 trong Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa (CHXHCN) Việt Nam khẳng định HTCT của nước ta hiện nay gồm bốn cấp:
Cấp Trung ương; cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp quận, huyện, thị
xã, thành phố trực thuộc tỉnh; cấp xã, phường, thị trấn; trong đó, cấp cơ sở là cấp
xã, phường, thị trấn - cấp cuối cùng, gần gũi với dân nhất nên được gọi là cấp cơ sở.
Trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa IX có
xác định: “Các cấp cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú,
sinh sống. HTCT CCS có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường
đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát
triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư” [6; tr.1].
Ở nước ta, HTCT CCS là một thể thống nhất bao gồm ba tổ chức: Tổ chức
Đảng cơ sở (các Đảng bộ, chi bộ cơ sở), Chính quyền địa phương (HĐND, UBND),
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội (hay gọi cách khác là các đoàn thể nhân dân
bao gồm: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam…). Mỗi tổ chức lại có vai trò và chức năng riêng nhưng không tách rời mà có
mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau, cùng tồn tại trên một đơn vị lãnh
thổ - dân cư nhất định, đó là đơn vị hành chính cơ sở.


14


Hiến pháp năm khẳng định: Địa vị pháp lý của chính quyền địa phương là
thiết chế không thể thiếu trong tổ chức bộ máy của Nhà nước, là nơi có tính chất
quyết định đối với việc đưa chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước
vào cuộc sống. Đây là thiết chế quan trọng, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc
về nhân dân đồng thời khẳng định nguyên tắc một cấp chính quyền gồm HĐND và
UBND: “Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước
CHXHCN Việt Nam. Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ
chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính kinh tế đặc
biệt do luật định” [12; tr.61].
Hội đồng nhân dân
Điều 113 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của Nhân dân địa phương, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân
quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân
dân” [12; tr.62].
Điều 115 Hiến pháp năm 2013 khẳng định vinh dự, trách nhiệm, nhiệm vụ,
quyền hạn của đại biểu HĐND trước nhân dân và cử tri. Theo đó: “Đại biểu Hội
đồng nhân dân là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở địa
phương; phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế
độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Hội đồng nhân dân,
trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của Nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ vận động nhân
dân thực hiện pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân
dân, động viên nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Đại biểu Hội đồng nhân dân

có quyền chất vấn Chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án
Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng các cơ quan
thuộc Uỷ ban nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước Hội đồng nhân dân.

15


Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước, tổ chức,
đơn vị ở địa phương. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị này có trách nhiệm
tiếp đại biểu, xem xét, giải quyết kiến nghị của đại biểu” [12; tr.63].
Ủy ban nhân dân:
Điều 114 Hiến pháp sửa đổi năm 2013 nước CHXHCN Việt Nam đã khẳng định:
“Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên.
Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các
nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao.” [12; tr.62].
UBND và HĐND xã có vai trò đặc biệt quan trọng trong tổ chức triển khai
và tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về Chương trình MTQG về NTM; đồng
thời, phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình thực hiện các tiêu
chí đã được ban hành trước đó. Kết quả của quá trình xây dựng NTM tại địa
phương có tốt hay không phụ thuộc không nhỏ vào sự lãnh đạo của UBND và
HĐND xã.
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội khác có vai trò hết sức quan trọng
trong việc gắn kết người dân, chăm lo lợi ích của các thành viên, thực hiện dân chủ
và đổi mới xã hội, thực thi quyền, nghĩa vụ công dân, giữ mối liên hệ giữa Đảng và
Nhà nước ta với nhân dân. Thêm vào đó, đây cũng là lực lượng đi đầu trong các
hoạt động tuyên truyền các đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà

nước. Có thể nói rằng, vai trò của MTTQ và các tổ chức chính trị khác như một
cánh tay đắc lực thực hiện việc đi sâu vào từng ngõ ngách, khía cạnh trong đời sống
kinh tế, chính trị, văn hóa tinh thần của người dân; như một trung tâm điều hòa các
mâu thuẫn xã hội nảy sinh, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân và đóng vai trò thực
thi qui chế dân chủ tại địa phương, lựa chọn các đại biểu của nhân dân ở cơ sở. Đây

16


cũng là lực lượng nòng cốt đi đầu trong các phong trào vận động quần chúng tham
gia bảo vệ trật tự, an ninh, xây dựng nếp sống văn hóa, bảo vệ môi trường, phát
triển kinh tế xã hội ở các địa phương.
Từ những nghiên cứu về HTCT CCS, Viện khoa học tổ chức Nhà nước của Bộ
Nội vụ đưa ra định nghĩa khái quát, trong đó HTCT CCS được hiểu là toàn bộ thiết chế
chính trị như tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân được tổ chức và hoạt
động theo những nguyên tắc nhất định và gắn bó hữu cơ với nhau nhằm thực hiện sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát huy quyền dân chủ của nhân dân
ở cơ sở.
HTCT CCS tại địa phương đóng vai trò hết sức quan trọng trong bộ máy
công quyền xuyên suốt từ Trung ương tới địa phương. Bên cạnh những đặc điểm
của HTCT nói chung, HTCT CCS còn mang những đặc điểm riêng của cấp thấp
nhất đang vận hành ở nước ta:
- Trong bốn cấp của HTCT thì cấp cơ sở là cấp thấp nhất và gần gũi với dân
nhất trong hệ thống quản lý hành chính Nhà nước. Tuy là cấp thấp nhất nhưng lại là
nền tảng vô cùng quan trọng để xây dựng được một cách vững chãi, kiện toàn cho
HTCT từ trên xuống. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cấp xã là cấp gần gũi
dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều
xong xuôi.” [1; tr.371-372]. Chính bởi vậy, chăm lo cho sự bền vững của cơ sở, từ
cơ sở, làm cho HTCT phải thực sự của dân, do dân và vì dân.
- HTCT CCS là cấp gần dân nhất, trực tiếp xúc với người dân và đưa các

đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta đi vào thực tiễn. Đội
ngũ cán bộ, công chức cơ sở là những người hàng ngày sống với người dân, có điều
kiện tiếp xúc gần gũi với người dân, hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của dân, hướng
dẫn nhân dân, động viên nhân dân dân, mặt khác vừa là người phản ánh nguyện
vọng của dân với Đảng, chính quyền cũng như toàn thể các cấp. Cũng trong Nghị
quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 5 khóa IX nêu rõ: “Trong thời gian qua,
HTCT ở nước ta được thiết lập rộng rãi trên khắp các địa phương trên cả nước, từ
thành thi đến nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo.” [7; tr.1].

17


- HTCT CCS không phải là cấp hoạch định mà là cấp triển khai, chấp hành
các chỉ thị, các nghị quyết, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước và thực hiện hóa chúng vào các vào cuộc sống. Thông qua việc đánh giá kết
quả từ các hoạt động thực tiễn ở cơ sở, đội ngũ cán bộ có căn cứ để tổng kết những
bài học kinh nghiệm từ đó góp phần bổ sung cho việc hoàn thiện các đường lối
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- HTCT CCS mang tính đặc thù là sự kết hợp chặt chẽ giữa quản lý nhà nước
và tự quản. Chúng không đối lập mà gắn bó chặt chẽ với nhau và chi phối lẫn nhau.
Quản lý nghiêm minh, chặt chẽ có hiệu lực sẽ tạo ra môi trường, điều kiện để thúc
đẩy tự quản và ngược lại việc tự quản góp phần hỗ trợ mạnh mẽ đồng thời giảm bớt
gánh nặng cho sự quá tải của quản lý. Chính vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả quản
lý của HTCT CCS phải kết hợp chặt chẽ giữa quản lý và tự quản.
- HTCT CCS là cấp có tổ chức bộ máy tương đối gọn nhẹ, đội ngũ cán bộ
thường ít được đào tạo cơ bản về lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ; thường chịu ảnh
hưởng của thói quen và kinh nghiệm sống của văn hóa làng xã và tác phong nông
nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn cũng như công tác quản lý. Đây
cũng chính là yếu tố làm ảnh hưởng đến chất lượng của HTCT CCS. Tuy đội ngũ cán
bộ cơ sở không được đào tạo cơ bản song HTCT CCS lại có vai trò quan trọng trong

tổ chức quần chúng thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh
quốc phòng.
- HTCT CCS là cấp mà hiệu quả của HTCT phụ thuộc nhiều nhất và cá nhân
lãnh đạo đồng thời là cấp mà quan hệ dòng họ, văn hóa ứng xử truyền thống có ảnh
hưởng trực tiếp và sâu rộng vào hiệu quả của hoạt động của HTCT CCS.
Việt Nam là nước có HTCT đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
với nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa…rất nhiều vấn đề phức tạp có thể xảy ra làm ảnh hưởng tới sự bền
vững, ổn định của HTCT nói riêng và sự phát triển của nước ta về mọi mặt nói
chung. Chính vì vậy, các thành tố cấu thành của HTCT phải là một lực lượng tổng
hợp cho tất cả các lực lượng chính trị - xã hội phấn đấu vì một mục tiêu chung, cùng

18


tuân theo một cơ chế vận hành và một nguyên tắc nhất định.

1.2. Xây dựng nông thôn mới
1.2.1. Nông thôn mới và đặc trưng của nông thôn mới
Nông thôn mới
Khái niệm nông thôn được thống nhất và khái quát theo Thông tư số
54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, cụ thể: “Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành
phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã.” [2; tr.1].
Xây dựng nông thôn theo hướng phát triển toàn diện về mọi mặt là mục tiêu
mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới. Như vậy, có thể hiểu rằng: NTM là nông
thôn mà trong đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của người dân không ngừng được
nâng cao, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Nông dân được đào tạo,
tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đóng vai trò
làm chủ NTM.

NTM có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng được xây dựng
đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn kết hợp lý giữa nông nghiệp với
công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc,
môi trường sinh thái được bảo vệ. Sức mạnh của hệ thống chính trị được nâng cao,
đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.
Thực hiện theo Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp
hành Trung ương đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Quyết định
số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu
chí Quốc gia về NTM; Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình MTQG xây dựng NTM được triển khai trên địa
bàn các xã trong phạm vi cả nước, nhằm đổi mới toàn diện mọi lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, chính trị, xã hội, môi trường và HTCT CCS. Trong các văn bản được Nhà
nước ta ban hành cùng các công trình nghiên cứu, thuật ngữ “nông thôn mới” chỉ
xuất hiện trong những năm gần đây nhằm mô tả xã hội nông thôn Việt Nam được

19


xây dựng và phát triển theo hướng văn minh, hiện đại phù hợp với mục tiêu phát
triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình đổi mới đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
Đặc trưng của nông thôn mới
NTM bên cạnh những điểm tương đồng với các đặc trưng của nông thôn
truyền thống Việt Nam, nó còn có những nét đặc trưng riêng như sau:
* Về kinh tế:
- Sản xuất hàng hóa mở.
- Là nông thôn mà trong đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của người dân
không ngừng được nâng cao, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị.
Nông dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, đóng vai trò làm chủ NTM.

- NTM có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng được xây
dựng đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn kết hợp lý giữa nông nghiệp
với công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân
tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ. Sức mạnh của HTCT được nâng cao, đảm
bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.
Xây dựng NTM là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta đặt lên hàng đầu trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Phát triển nông nghiệp toàn diện,
hiệu quả, bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy ưu thế của
nền nông nghiệp nhiệt đới gắn với việc giải quyết các vấn đề nông dân, nông thôn.
Khuyến khích tập trung ruộng đất, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, phát triển
sản xuất nông nghiêp hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Gắn
sản xuất với chế biến và tiêu thụ, mở rộng xuất khẩu. Xây dựng nông thôn mới theo
hướng văn minh, giàu đẹp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân”
[9; tr. 38-39].
Sau ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất

20


tạo bước đà quan trọng cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước, khắc phục hậu
quả sau chiến tranh. Trong hơn 40 năm, Đảng và Nhà nước ta đã có những từng bước
xây dựng và đổi mới mạnh mẽ về đường hướng phát triển kinh tế đất nước và đạt
được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, nhìn chung nước ta vẫn cơ bản là một nước
nông nghiệp với 70% người dân sống tại nông thôn, sản phẩm nông sản đóng vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu lương thực.
Xây dựng NTM trên nền tảng thống nhất với các đặc trưng cơ bản của nông thôn
truyền thống Việt Nam. Để có thể triển khai thực hiện xây dựng NTM thành công
trên phạm vi cả nước thì Đảng, Nhà nước ta và toàn thể nhân dân ta cần phải thực
hiện quá trình xây dựng và phát triển lâu dài, thực hiện các mục tiêu đề ra một cách

hiệu quả qua từng giai đoạn.
1.2.2. Bộ tiêu chí về nông thôn mới
Sau khi Nghị quyết số 26 được ban hành, ngày 16/4/2009 Thủ tướng chính
phủ đã ra quyết định số 491/QĐ-TTg về việc ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về
NTM với 5 nhóm cùng 19 tiêu chí: Nhóm 1: Quy hoạch; nhóm 2: Hạ tầng kinh tế xã hội; nhóm 3: Kinh tế và tổ chức sản xuất; nhóm 4: Văn hoá - xã hội - môi
trường; nhóm 5: Hệ thống chính trị. (Kèm theo phụ lục 01)
Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM với 19 tiêu chí được xây dựng vừa là cơ sở để
các xã lập kế hoạch phấn đấu thực hiện đạt chuẩn NTM vừa là căn cứ để xây dựng
nội dung vừa để chỉ đạo cũng như đánh giá kết quả xây dựng NTM tại địa phương
qua từng thời kì.
Cùng với Bộ tiêu chí Quốc gia về xây dựng NTM, ngày 21/8/2009 Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn đã ra Thông tư số 54/2009 TT-BNNPTNT về hướng
dẫn thực hiện Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM, trong đó đã thống nhất nội dung, cách
hiểu, cách tính toán và các quy chuẩn áp dụng đối với các tiêu chí NTM. Cùng với
Thông tư này, tháng 6/2010 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 800/QĐ-TTg
về việc phê duyệt Chương trình MTQG về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020.
Đây được coi là những văn kiện hết sức quan trọng trong việc thực hiện hướng dẫn
thực hiện xây dựng NTM của Đảng và Nhà nước ta.

21


1.3. Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong xây dựng nông thôn
mới ở Việt Nam

1.3.1. Vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng
Hiện nay số lượng cơ sở Đảng ở nông thôn chiếm hơn 20% trong tổng số các
tổ chức cơ sở Đảng, có số lượng lớn nhất so với các loại hình tổ chức cơ sở Đảng
trong cả nước. Có tới 50% số đảng viên đang hoạt động tại các tổ chức cơ sở Đảng
ở nông thôn, đóng vai trò chính trị, vai trò lãnh đạo toàn diện về mọi mặt của địa

phương. Trong thời gian qua, các tổ chức cơ sở Đảng đã không ngừng phát huy hiệu
quả vai trò của mình trong việc đảm bảo an sinh, trật tự an toàn xã hội, tạo tiền đề to
lớn cho sự phát triển về mọi mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội,… của vùng.
Nhờ sự năng động của các tổ chức cơ sở Đảng đã mang lại những kết quả hết sức
quan trọng, đặc biệt là vai trò tiên phong trong việc thực hiện Chương trình MTQG
về xây dựng NTM, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn, đồng thời nâng cao chất
lượng đời sống cả về vật chất lẫn tinh thần, mang lại cuộc sống đủ đầy cho nhân
dân. Có thể khẳng định rằng: Vai trò của tổ chức cơ sở Đảng trong xây dựng NTM
là vô cùng quan trọng, được thể hiện trên các phương diện sau:
Tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng chính trị của Đảng ở nông thôn, thường
xuyên đề ra các chủ trương, thực hiện các chính sách trong xây dựng NTM.
Tổ chức Đảng cơ sở là đơn vị gần gũi, tiếp xúc trực tiếp với dân, nâng cao sự
hiểu biết, niềm tin của người dân với Đảng, đồng thời dễ dàng tổ chức tiến hành
một cách hiệu quả công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng đi
sâu vào đời sống nhân dân; tổ chức thực hiện chương trình xây dựng NTM theo 19
tiêu chí mà Nhà nước ban hành. Bên cạnh đó, khi các nghị quyết, chỉ thị về xây
dựng NTM được ban hành, tổ chức cơ sở Đảng tại nông thôn sẽ tiến hành nghiên
cứu, tổ chức học tập và triển khai nghị quyết, trực tiếp đề ra những chủ trương,
chính sách thực hiện sao cho phù hợp với địa phương mình. Công tác chỉ đạo tổ
chức của HTCT CCS cùng toàn thể nhân dân sẽ tiến hành xây dựng NTM theo
những văn bản hướng dẫn, thi hành. Trên cơ sở tổng hợp các kết quả đã đạt được
cũng như ý kiến của Đảng bộ cơ sở và nhân dân trong quá trình xây dựng NTM sẽ

22


tiến hành sửa đổi, bổ sung vào những nghị quyết, chính sách để vừa đạt hiệu quả
cao nhất lại hợp lòng dân, đặc biệt là những nghị quyết, chính sách được triển khai
trong quá trình thực hiện Chương trình MTQG về xây dựng NTM.
Tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn tiến hành lãnh đạo HTCT CCS, đồng thời

từng bước cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ của mình trong hoạt động thực tiễn góp
phần xây dựng NTM.
Tổ chức Đảng cơ sở đóng vai trò là hạt nhân lãnh đạo việc xây dựng và phát
triển về mọi mặt tại địa phương đặc biệt là vai trò chủ chốt trong lãnh đạo HTCT.
Sự thắng lợi trong việc thực hiện các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
và đặc biệt là cụ thể hóa xây dựng NTM tại cơ sở là nhờ vào sự lãnh đạo của tổ
chức cơ sở Đảng và nó được thể hiện trên các mặt sau:
Thông qua Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ, vạch ra những chủ trương,
phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương tại cơ sở, trong đó có nội
dung về xây dựng NTM; tiến hành công tác tư tưởng với phương pháp dân chủ,
thuyết phục và vận động; giới thiệu những cán bộ có phẩm chất và năng lực tham
gia các cương vị chủ chốt của chính quyền và các tổ chức chính trị ở cơ sở. Đội ngũ
cán bộ này đóng vai trò là lực lượng nòng cốt trong việc giáo dục, tuyên truyền chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng NTM đến với
quần chúng nhân dân. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được quy định, Đảng bộ ở
cơ sở đề ra chương trình công tác sáu tháng, một năm trong đó tập trung vào các
nhiệm vụ sau:
Một là, quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của cấp trên và của Đại
hội Đảng bộ về công tác xây dựng NTM; thảo luận và quyết định những đề án, chuyên
đề về kinh tế - xã hội, văn hóa, an ninh, quốc phòng liên quan tới xây dựng NTM.
Hai là, thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách
xã hàng năm do thường trực UBNDxã trình bày gắn với kế hoạch xây dựng NTM.
Ba là, thông qua báo cáo và các nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo để phát huy vai trò của
chính quyền, mặt trận, các đoàn thể nhân dân, tạo quan hệ phối hợp trong xây dựng NTM.

23


Bốn là, xây dựng và thực hiện chương trình kiểm tra của cấp ủy, chỉ đạo ban
kiểm tra tiến hành kiểm tra các chi bộ và đảng viên về quá trình thực hiện các nghị

quyết của cấp ủy, trong đó có nghị quyết về xây dựng NTM.
Năm là, đề xuất với huyện ủy các vấn đề thuộc thẩm quyền của huyện ủy và các
cấp ủy cấp trên về những nội dung liên quan đến những chương trình xây dựng NTM.
Vai trò của tổ chức cơ sở Đảng được thể hiện qua việc cụ thể hóa các nhiệm vụ:
Tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn là nơi giáo dục, rèn luyện và tập huấn cán
bộ, đảng viên về chương trình xây dựng NTM. Đây là nơi vận động, bồi dưỡng
những người ưu tú, xuất sắc trong phong trào quần chúng, giới thiệu cho Đảng
nhằm xây dựng, phát triển, tăng cường số lượng và sức chiến đấu của Đảng.
Tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn là đơn vị chiến đấu cơ bản của Đảng và là
chỗ dựa đáng tin cậy của quần chúng nhân dân ở cơ sở trong triển khai xây dựng
mô hình. NTM. Thông qua việc đưa đường lối, chính sách của Đảng vào cuộc sống
ở nông thôn, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, các tổ chức Đảng ở nông thôn thực sự là đơn vị chiến đấu cơ
bản của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo của cả HTCT, là chỗ dựa đáng tin cậy của quần
chúng nhân dân trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là
một vấn đề còn mới mẻ như xây dựng NTM.
Đối với các tổ chức cơ sở Đảng cơ sở, nhiệm vụ chính trị quan trọng bậc
nhất là đề ra được chủ trương đúng, biện pháp thiết thực, hành động cụ thể với sự
gương mẫu của cán bộ, đảng viên để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao mức sống
cho nhân dân, giữ gìn an toàn xã hội, môi trường sống an toàn và bền vững.

1.3.2. Vai trò quản lý của chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương hiện nay gồm HĐND, UBND xã, phường, thị trấn
bầu ra theo Hiến pháp và Pháp luật. Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003,
“HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà cấp trên”; “UBND do HĐND bầu

24



×