Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận hình sự Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản; phân biệt hành hung để tẩu thoát với chuyển hóa sang cướp tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.72 KB, 12 trang )

1

MỤC LỤC


2

A. Mở đầu
Trong BLHS Việt Nam, tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173,
trong chương XVI các tội xâm phạm sở hữu Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi
bổ sung năm 2017 với khách thể trực tiếp của tội phạm là quyền sở hữu tài sản
của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân. Ngoài những dấu
hiệu pháp lý chung của tội phạm thì tội trộm cắp tài sản còn có một số đặc điểm,
dấu hiệu pháp lý riêng, vừa để xác định bản chất pháp lý cơ bản của tội trộm cắp
tài sản, vừa để phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản với một số tội có tính chất
chiếm đoạt khác. Trong phạm vi bài tiểu luận, tôi xin được trình bày rõ những
dấu hiệu pháp lý về tội trộm cắp tài sản đã nêu, đồng thời, tôi cũng sẽ làm rõ
trường hợp hành vi trộm cắp tài sản chuyển hóa thành tội cướp tài sản với tội
trộm cắp tài sản có tình tiết tăng nặng định khung là “hành hung để tẩu thoát”.
B. Nội dung
I. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
1. Căn cứ pháp lý
Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, được
thực hiện bởi người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 thực hiện một cách cố ý, xâm
phạm quan hệ sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hoặc
cá nhân, được quy định tại Chương XVI, Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.
“Điều 173. Tội trộm cắp tài sản
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng
đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong
các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc


phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:


3

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn
vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều
168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02
năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Tài sản là bảo vật quốc gia;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07
năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.



4

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12
năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng.”
2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
a, Khách thể của tội trộm cắp tài sản.
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ
và bị tội phạm xâm hại
Cũng như các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong Chương
XVI – các tội xâm phạm sở hữu, khách thể của các tội phạm xâm phạm sở hữu
là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá
nhân.
Về đối tượng tác động. Để gây thiệt hại đến các quyền sở hữu về tài sản,
người phạm tội trộm cắp tài sản phải tác động đến tài sản của chủ sở hữu hoặc
người quản lý hợp pháp tài sản. Theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam, tài
sản có nhiều hình thức khác nhau. Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động
sản và động sản”. Tuy nhiên, tài sản là đối tượng tác động của các tội phạm xâm
phạm sở hữu có những đặc điểm riêng, cụ thể như sau:
Tài sản là đối tượng tác động của các tội phạm sở hữu phải được thể hiện
dưới dạng vật chất cụ thể, có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy có nghĩa tài sản
là đối tượng tác động của các tội phạm sở hữu chỉ có thể là vật, tiền và giấy tờ
có giá. Các quyền tài sản (quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ...) không thể
là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu.



5

Tài sản là đối tượng của các tội phạm xâm hại sở hữu là tài sản thuộc
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ thể nhất định và phải có
khả năng chuyển dịch được giữa các chủ thể với nhau. Nói cách khác, tài sản ở
đây có thể là tài sản hợp pháp hoặc tài sản bất hợp pháp.
Tài sản là đối tượng của các tội phạm xâm phạm sở hữu có thể tài sản riêng
hoặc tài sản chung với người khác. Hơn nữa, tội phạm này có thể do người
không phải chủ sở hữu tài sản thực hiện, hoặc có thể do chính chủ sở hữu tài sản
thực hiện.
Để làm rõ những vấn đề nêu trên, tôi sẽ đi vào phân tích từng bộ phận của
tài sản là đối tượng tác động của các tội phạm xâm phạm sở hữu mà cụ thể là
vật, tiền và giấy tờ có giá.
Thứ nhất, vật trong giao lưu dân sự phải thỏa mãn được những điều kiện,
đó là: là bộ phận của thế giới vật chất; mang lại lợi ích cho chủ thể; con người
chiếm hữu được; có thể đang tồn tại hoặc có thể sẽ hình thành trong tương lai.
Như vậy, vật là một hình thức tài sản và có thể trở thành đối tượng tác động của
tội trộm cắp tài sản. Theo đó, vật phải nằm trong sự chiếm hữu của con người thì
khi đó vật mới là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Đối với trường
hợp vật vô chủ (có thể là trường hợp chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình và
tài sản không nằm trong phạm vi quản lý) thì hành vi lấy đi loại tài sản này
không bị coi là phạm tội trộm cắp tài sản. Vật khi không còn là tài sản vì đã bị
chủ tài sản hủy bỏ cũng sẽ không còn là đối tượng tác động của các tội xâm
phạm sở hữu (gia súc bị chôn do mắc bệnh, thuốc chữa bệnh đã bị hủy bỏ so hết
thời hạn sử dụng...). Hơn nữa, một số vật do tính chất và công dụng đặc biệt
không được coi là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu mà là đối
tượng của các tội phạm cụ thể khác được quy định ở chương khác của Bộ luật
Hình sự như công trình, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, các
loại vũ khí quân dụng, tài nguyên rừng, ma túy...



6

Thứ hai, tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới
hàng hóa, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hóa
khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa
những người sản xuất hàng hóa. Tiền là công cụ thanh toán đa năng, là công cụ
tích lũy tài sản và là thước đo giá trị. Tuy nhiên, chỉ có loại tiền có giá trị đang
được lưu hành trên thực tế, tức là được pháp luật thừa nhận mới được coi là tài
sản, cũng như được coi là một đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản được
quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.
Thứ ba, theo quy định tại Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam 2010; Khoản 1 Điều 3 Thông tư 04/2016/TT-NHNN và Khoản 1 Điều
2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa
vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá
trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác". Giấy tờ có
giá hiện nay tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như séc, cổ phiếu, tín phiếu, hồi
phiếu, kỳ phiếu, công trái… Trong pháp luật hình sự, giấy tờ có giá có thể là đối
tượng tác động của các tội phạm xâm phạm sở hữu trong trường hợp giấy tờ có
giá đó cho phép bất kỳ ai có giấy tờ có giá này đều có thể sử dụng được (giấy tờ
có giá vô danh – giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ không ghi
tên người sở hữu nhưng thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ tờ giấy). Giấy tờ
có giá ghi danh (phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên
người sở hữu) thì không phải đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu.
Song đối với tội trộm cắp tài sản, đối tượng tác động của hành vi phạm tội
không những phải thỏa mãn những điều kiện nêu trên mà còn phải thỏa mãn
điều kiện được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự 2015, đó là tài sản phải trị
giá từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc một trong các
trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015
b, Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản



7

Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm
bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Mặt khách quan của tội trộm cắp
tài sản được biểu hiện dưới hai yếu tố: hành vi khách quan và hậu quả.
Thứ nhất, về hành vi khách quan, trong tội trộm cắp tài sản, người phạm tội
chỉ có một hành vi khách quan duy nhất đó là chiếm đoạt tài sản nhưng chiếm
đoạt bằng hình thức lén lút, bí mật. Hành vi chiếm đoạt tài sản có khả năng
không cho phép chủ tài sản (hoặc người quản lý tài sản) biết về hành vi chiếm
đoạt xảy ra. Đồng thời, người phạm tội có ý thức che giấu hành vi đang thực
hiện của mình đối với chủ tài sản (hoặc người quản lý tài sản). Tuy nhiên, khi
người phạm tội thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản với chủ sở hữu
nhưng lại công khai chiếm đoạt tài sản với những người có mặt ở đó nhưng
những người có mặt lúc tài sản bị chiếm đoạt vì lý do nào đó mà không biết chủ
tài sản là ai, không có trách nhiệm quản lý tài sản đó thì hành vi của người
chiếm đoạt tài sản trong trường hợp này vẫn bị coi là hành vi trộm cắp tài sản.
Tội trộm cắp tài sản có thời điểm hoàn thành tội phạm phụ thuộc vào tính
chất và vị trí của tài sản. Nếu tài sản bị chiếm đoạt là tài sản nhỏ gọn thì tội
phạm hoàn thành khi người phạm tội đã giấu được tài sản vào trong người. Nếu
tài sản bị chiếm đoạt là tài sản không nhỏ gọn thì tội phạm hoàn thành khi người
phạm tội đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo quản. Nếu tài sản bị chiếm
đoạt là tài sản để ở những nơi không hình thành khu vực bảo quản thì tội phạm
hoàn thành khi người phạm tội đã dịch chuyển được tài sản ra khỏi vị trí ban
đầu.
Thứ hai, về vấn đề hậu quả, tội trộm cắp tài sản do người phạm tội gây ra
có hậu quả là việc tài sản đã bị người phạm tội chiếm đoạt bất hợp pháp. Tài sản
bị người phạm tội chiếm đoạt bao gồm các loại tiền, hàng hóa và các giấy tờ có

giá trị thanh toán như ngân phiếu, công trái, trái phiếu… và có giá trị được quy
định cụ thể tại Điều 173 Bộ luật hình sự 2015. Có thể khẳng định tội trộm cắp
tài sản có cấu thành vật chất bởi dấu hiệu cấu thành hậu quả được phản ánh


8

trong cấu thành tội phạm của tội trộm cắp tài sản. Tuy vậy, mặc dù người có
hành vi trộm cắp chưa chiếm đoạt được tài sản mà nằm ngoài ý muốn chủ quan
của họ thì vẫn cấu thành tội trộm cắp tài sản nhưng là phạm tội chưa đạt chứ
không nhất thiết phải có thiệt hại về tài sản mới cấu thành tội phạm.
c, Chủ thể của tội trộm cắp tài sản
Theo quy định tại Điều 12 và điểm c, điểm d khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình
sự năm 2015:
“Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một
trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173,
178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của
Bộ luật này.
Điều 9. Phân loại tội phạm
1....c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này
quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ
luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung
thân hoặc tử hình...”

Đồng thời, kết hợp với quy định tại điều 173 Bộ luật hình sự 2015, ta đưa
ra được kết luận chủ thể của tội trộm cắp tài sản quy định tại các khoản 1 và
khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực


9

trách nhiệm hình sự. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản quy định tại các khoản 3 và
khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự là người từ đủ 14 tuổi trở lên có đủ năng lực
trách nhiệm hình sự.
d, Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm đó là những diễn biến tâm lý bên trong của
người phạm tội bao gồm lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Tội trộm cắp tài sản
được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội trộm cắp tài sản nhận thức
được rõ hành vi của mình là trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội và thấy
trước hậu quả của hành vi đó khi tài sản của người khác bị chiếm đoạt trái phép
và mong muốn hậu quả xảy ra. Mục đích của tội phạm là chiếm tài sản của
người khác. Trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội
đã xuất hiện mục đích chiếm đoạt.
II. Phân biệt trường hợp hành vi trộm cắp tài sản chuyển hóa thành tội
cướp tài sản với tội trộm cắp tài sản có tình tiết tăng nặng định khung là
“hành hung để tẩu thoát”
Để làm rõ vấn đề này, tôi xin được tham khảo Thông tư liên
tịch 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP hướng dẫn áp dụng
chương XIV Các tội phạm xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999.
Mặc dù Thông tư này đã được ban hành trước ngày Bộ luật hình sự 2015, sửa
đổi bổ sung 2017 có hiệu lực, nhưng những quy phạm điều chỉnh về vấn đề mà
tôi đang bàn đến vẫn có giá trị đối với những quy phạm pháp luật hiện hành.
Xét tình tiết tăng nặng định khung “Hành hung để tẩu thoát”, đây là trường
hợp người phạm tội trộm cắp tài sản đã có hành vi chống trả lại việc bắt giữ để

tẩu thoát. Việc chống trả này không đòi hỏi phải gây thương tích. Mục đích của
việc chống trả là nhằm để tẩu thoát. Phạm tội thuộc trường hợp "hành hung để
tẩu thoát" là trường hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc
đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt


10

giữ thì đã có những hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt
giữ như đánh, chém, bắn, xô ngã... nhằm tẩu thoát.
Mặt khác, trường hợp hành vi trộm cắp tài sản chuyển hóa thành tội cướp
tài sản là trường hợp người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã
chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà
người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công
người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, hành vi đó đã
có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản.
Như vậy, điểm khác biệt giữa hai trường hợp trên chính là mục đích mà
người phạm tội muốn đạt được khi có hành vi sử dụng vũ lực, đe dọa dùng vũ
lực ngay tức khắc đối với chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản hoặc những
người khác. Mục đích của trường hợp người phạm tội “hành hung để tẩu thoát”
là người phạm tội muốn trốn khỏi việc bắt giữ trong khi mục đích của trường
hợp hành vi trộm cắp tài sản chuyển hóa thành tội cướp tài sản là người phạm
tội muốn chiếm đoạt cho bằng được tài sản.
C. Kết luận
Trong số các tội xâm phạm sở hữu, tội trộm cắp tài sản là tội xâm phạm
trực tiếp tới quyền sở hữu tài sản. Những năm gần đây, tội trộm cắp tài sản diễn
biến phức tạp gây hậu quả ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến trật tự
an toàn xã hội. Để tiếp tục công cuộc đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài
sản, chúng ta cần thực hiện tốt các biện pháp như: phát triển kinh tế gắn với các
chính sách xã hội; nâng cao chất lượng giáo dục trong trường học cả về trình độ

văn hóa, pháp luật; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về an ninh, trật tự; các
Cấp, Ngành như Công an, Tòa án, Viện Kiểm sát, Sở Văn hóa và Thông tin, Sở
Giáo dục và Đào tạo,... cần phải nắm rõ chức năng, nhiệm vụ, vai trò của mình
trong công tác phòng chống loại tội phạm này.


11


12

D. Tài liệu tham khảo
- Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
- Thông tư liên tịch 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP Hướng
dẫn áp dụng chương XIV Các tội phạm xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự
năm 1999.
- Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) – Tập 1 – Trường Đại
học Kiểm sát Hà Nội.
- Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010.
- Thông tư 04/2016/TT-NHNN Quy định về việc lưu ký và sử dụng giấy tờ có
giá tại ngân hàng nhà nước Việt Nam.
- Thông tư 01/2012/TT-NHNN Quy định về chiết khấu giấy tờ có giá của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài.



×