Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng theo pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (885.04 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ VĂN LUẬN

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ RỪNG THEO
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ VĂN LUẬN

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ RỪNG THEO
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. VŨ THỊ DUYÊN THỦY


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả, dẫn chứng nêu trong luận văn là hoàn toàn
trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và dựa vào những nguồn gốc
rõ ràng của các tài liệu được nghiên cứu.

Tác giả

Mai Thanh Bình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA CHỦ RỪNG .......................................................................................... 10
1.1. Quan niệm chung về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng ............................ 10
1.2. Pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
......................................................................................................................... 16
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN
RỪNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ RỪNG VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI TỈNH QUẢNG NAM .................................................... 34
2.1. Thực trạng pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của
chủ rừng ........................................................................................................... 34
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng tại tỉnh
Quảng Nam ..................................................................................................... 44
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ

RỪNG THEO PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG ... 60
3.1. Định hướng hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
theo pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng .................................................... 60
3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
theo pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng .................................................... 63
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
theo pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng .................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Rừng giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ tương tác giữa môi trường
và sinh vật và đóng vai trò mật thiết đối với sự phát triển của nền kinh tế tại
mọi quốc gia. Trong luật Bảo vệ và phát triển rừng nước ta có ghi: “Rừng là
một trong những tài nguyên quý báu mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho nước
ta, rừng có khả năng tái tạo, là bộ phận quan trọng với môi trường sinh thái,
đóng góp giá trị to lớn với nền kinh tế quốc gia, gắn liền với đời sống của
nhân dân và sự sống còn của dân tộc”[47]. Rừng là nguồn thu nhập chủ yếu
của đồng bào dân tộc miền núi, là cơ sở quan trọng để phân bổ dân cư, điều
tiết lao động trong xã hội giúp xóa đói giảm nghèo cho xã hội.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam thì tính đến
ngày 31/12/2017, diện tích rừng trên toàn quốc đạt được hơn 14 triệu ha,
trong đó rừng tự nhiên là hơn 10 triệu ha và rừng trồng hơn 4 triệu ha. Diện
tích đủ tiêu chuẩn che phủ toàn quốc tương ứng hơn 40% [12]. Đồng thời,
theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì độ che phủ rừng có tăng
nhưng chủ yếu là rừng trồng với mức sinh học thấp, trong khi rừng tự nhiên
với mức đa sinh học cao thì lại thấp đi đáng kể. Hiện trạng mất rừng và suy
thoái rừng đã và đang gây ra nhưng hậu quả nặng nề đối với môi trường, ảnh

hưởng lớn đến đời sống nhân dân cũng như sư ổn định nhiều mặt của đất
nước. Hiện nay quản lý và sử dụng đất rừng và tài nguyên rừng nói chung
được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp lý của Nhà nước trong đó có Luật
Bảo vệ và Phát triển Rừng hiện đang có hiệu lực. Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng năm 2004 đã thực thi được gần 15 năm thì bên cạnh những kết quả đạt
được thì còn tồn tại một số những hạn chế và bất cập về phương pháp tiếp
cận, phạm vi điều chỉnh, cũng như nhiều chính sách về rừng và nghề rừng của

1


nước ta không còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn và chưa tiếp thu được các
thông lệ tốt trên thế giới. Việc điều chỉnh lại hệ thống pháp luật về rừng đã
thu hút được sự quan tâm của không chỉ các cơ quan có chức năng quản lý
nhà nước, các cơ quan chuyên ngành pháp luật mà thu hút được sự quan tâm
của nhiều tổ chức phi chính phủ quốc tế và trong nước, các hiệp hội nghề
nghiệp, các tổ chức xã hội, cũng như cộng đồng giới khoa học, chuyên gia.
Quảng Nam là địa phương có diện tích phần lớn rừng núi, đời sống
người dân còn nhiều khó khăn, chủ yếu sản xuất nương rẫy, nhận thức về
công tác bảo vệ và phát triển rừng còn hạn chế. Nhu cầu lấy gỗ làm nhà của
người dân miền núi là rất lớn, giá gỗ nguyên liệu cao dẫn đến người dân lấn
chiếm đất lâm nghiệp, khai thác gỗ trái phép ngày càng gia tăng. Chính vì thế,
việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức gắn với trách nhiệm
quản lý, bảo vệ rừng của các cấp ủy đảng, chính quyền, chủ rừng và mọi tầng
lớp nhân dân là rất quan trọng. Nhất là đề cao quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
trong công tác quản lý, bảo vệ rừng. Hiện nay, tỉnh Quảng Nam đang tổ chức
rà soát lại quỹ đất lâm nghiệp trên địa bàn, đẩy mạnh công tác giao đất, giao
rừng, thuê đất thuê rừng cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn, các
tổ chức cá nhân phát triển kinh tế lâm nghiệp, phát triển lâm sản ngoài gỗ, cây
dược liệu dưới tán rừng. Hiện có 4 tổ chức thuê dịch vụ môi trường rừng để

trồng sâm Ngọc Linh với diện tích 44,47ha và 2 đơn vị sự nghiệp của địa
phương sử dụng dịch vụ môi trường rừng để trồng sâm Ngọc Linh với diện
tích 10,9ha [36]. Đồng thời, tỉnh Quảng Nam cũng đang quy hoạch phát triển
cây quế Trà My với diện tích 10.000 ha. Đây là tín hiệu tốt để người dân có
công ăn việc làm, tạo sinh kế ổn định cho người dân đi đôi với công tác bảo
vệ và phát triển rừng [36]. Tuy nhiên, diện tích rừng trên địa bàn tỉnh tăng lên
đáng kể nhưng những thách thức phải đối mặt là chất lượng rừng vẫn ngày
càng suy giảm do khai thác rừng quá mức cho phép, khai thác bất hợp pháp,

2


chuyển đổi mục đích sử dụng rừng và đất rừng. Trách nhiệm quản lý nhà
nước về rừng và đất rừng chưa cụ thể, pháp luật chưa tạo ra những “chủ rừng”
đích thực vì quyền hưởng lợi từ rừng của những người làm nghề rừng, chưa
giúp họ sống được bằng nghề rừng, làm giàu được từ rừng. Trong nhiều năm,
các ưu đãi dành cho người quản lý, bảo vệ rừng chủ yếu là từ khai thác lâm
sản hay sử dụng một phần diện tích đất rừng để phát triển nông nghiệp, ngư
nghiệp mà chưa có quy định nào khuyến khích họ gìn giữ, bảo vệ tài nguyên
rừng. Vì vậy, chủ thể nào được giao quản lý, bảo vệ, phát triển rừng cũng tìm
cách nhanh chóng khai thác cạn kiệt tài nguyên rừng. Để giải quyết vấn đề
này, chúng ta cần nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
chủ rừng phù hợp với các yếu tố kinh tế, xã hội , truyền thống văn hóa và lịch
sử và nâng cao hiệu quả triển khai các quy định của pháp luật vào thực tiễn cả
nước nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng.
Chính vì vậy, tôi chọn “Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng theo pháp
luật về bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn tỉnh
Quảng Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng được các học giả Việt Nam và nước

ngoài nghiên cứu ở nhiều ngành khoa học khác nhau như: lâm nghiệp, kinh tế,
môi trường... Tuy nhiên, nghiên cứu nội dung này dưới khía cạnh khoa học
pháp lý thì chưa nhiều, tác giả đã tìm hiểu và nghiên cứu một số công trình:
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (2007), “Forest law and
sustainable development - Addressing Contemporary Challenges Through
Legal Reform” (Luật lâm nghiệp và Phát triển bền vững - Giải quyết các thách
thức đương đại thông qua cải cách pháp lý). Nghiên cứu này xác định pháp
luật lâm nghiệp trong khuôn khổ pháp lý rộng lớn hơn, khám phá mối liên hệ
phức tạp của nó với các ngành luật khác và tổng hợp. Bên cạnh đó, nghiên cứu

3


này cũng tìm hiểu chi tiết về quy định pháp luật đối với vấn đề quản lý lõi rừng
như phân loại rừng, quy hoạch, nhượng bộ, cấp phép và quản lý rừng tư nhân.
Nghiên cứu kết luận với một số phản ánh về cách tính hiệu quả của pháp luật
về rừng có thể được tăng cường bởi sự chú ý đến các nguyên tắc hướng dẫn
quá trình soạn thảo pháp luật [43].
Tác giả Trần Văn Hải (2014), “Một số vấn đề cơ bản về pháp luật bảo
vệ rừng ở Việt Nam hiện nay”, luận văn thạc sỹ cũng đã nghiên cứu một cách
khái quát về những vấn đề cơ bản của pháp luật bảo vệ rừng ở Việt Nam như:
quản lý nhà nước về bảo vệ rừng; chính sách phát triển rừng; quyền và nghĩa
vụ của chủ rừng; bảo vệ các loài thực vật, động vật hoang dã, quý, hiếm;
nghiên cứu chính sách bảo vệ rừng ở một số quốc gia trên thế giới và kinh
nghiệm đối với Việt Nam trong việc xây dựng chính sách pháp luật bảo vệ
rừng. Từ những phân tích trên, tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật bảo vệ rừng Việt Nam như chính sách pháp luật bảo vệ rừng;
chính sách đất đai; tổ chức thực hiện pháp luật bảo vệ rừng; hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực bảo vệ rừng. Mặc dù, đây cũng là công trình nghiên cứu khá
đầy đủ và chi tiết về pháp luật bảo về rừng. Tuy nhiên, nghiên cứu này đã

cách đây 8 năm, cho nên so với hiện nay nhiều văn bản pháp luật mới ra đời
thì tính mới của nghiên cứu không còn nhiều [39].
Tác giả Hà Công Tuấn (2006), “Quản lý nhà nước bằng pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ rừng”, luận án Tiến sĩ đã phân tích đánh giá nh ững bài
học kinh nghiệm về quản lí rừng qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt là thực
trạng quản lí nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng ở Việt Nam.
Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước bằng pháp luật
trong lĩnh vực bảo vệ rừng ở Việt Nam trong những năm tới. Công trình này,
chủ yếu nghiên cứu pháp luật như một công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ rừng
mà chưa đề cập được toàn bộ hệ thống pháp luật về quản lý và bảo vệ tài

4


nguyên rừng ở Việt Nam hiện nay [57].
Tác giả Phạm Văn Nam (2016), “Hoàn thiện pháp luật về quản lý và
bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam hiện nay”, luận án Tiến sĩ, Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội. Luận án của tác giả đã làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và sự điều chỉnh của pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng ở
Việt Nam hiện nay trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật, nêu bật
các yêu cầu đặt ra, cũng như xây dưng hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh đối
với pháp luật quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng; làm sáng tỏ vai trò của pháp
luật đối với việc quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng. Khái quát quá trình hình
thành và phát triển của pháp luật quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng ở nước ta.
Nghiên cứu, đánh giá thưc trạng của pháp luật quản lý và bảo vệ tài nguyên
rừng hiện hành của Việt Nam, chỉ ra nhưng ưu điểm và những mặt còn hạn
chế, bất cập cần được khắc phục. Trên cơ sở các vấn đề lý luận và thực trạng
pháp luật nêu trên, xác định các định hướng và đề xuất những giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý và
bảo vệ tài nguyên rừng của nước ta hiện nay [40].

Tác giả Lê Thị Lệ Thu (2016), “Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là tổ
chức kinh tế theo Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004”, luận văn thạc sĩ,
Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là tổ chức kinh tế; từ đó đề xuất,
định hướng và đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là các tổ chức kinh tế theo Luật
bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 [58].
Bên cạnh đó, còn một số công trình như: Luận án tiến sĩ luật học của
tác giả Sofia R.Hirakuri năm 2003 tại Trường Luật, Đại học Washington với
đề tài “Can Law Save the Forests? Lesson from Finland and Brazil” (Liệu
rằng pháp luật có thể bảo vệ được rừng? Những bài học từ Phần Lan và

5


Brazil); Bài báo của tác giả Sofia Hirakuri (2000), “How Finland made forest
owners follow the law” (Phần Lan, làm thế nào để các chủ rừng tuân thủ
pháp luật); Luận văn thạc sỹ Pháp luật về chi trả dịch vụ môi trường rừng tại
Việt Nam hiện nay của tác giả Hồ Vĩnh Phú chuyên ngành Luật kinh tế năm
2014; Luận văn thạc sỹ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý
bảo vệ rừng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Nhàng chuyên ngành Luật Hành chính; Luận văn Pháp luật về quản lý và sử
dụng rừng phòng hộ từ thực tiễn huyện Cần Giờ - thành phố Hồ Chí Minh của
tác giả Nguyễn Tiến Hưng chuyên ngành Luật kinh tế.
Mặc dù vậy, các công trình này mới dừng lại ở việc nghiên cứu một số
khía cạnh cơ bản của pháp luật bảo vệ rừng và phát triển rừng hay đánh giá
quản lý nhà nước bằng pháp luật chứ chưa nghiên cứu cụ thể về quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng theo pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam
hiện nay cũng như thực tiễn thực hiện tại tỉnh Quảng Nam. Đây là công trình
đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về lĩnh vực này dưới góc độ của một

luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của
chủ rừng, thực trạng các quy định quyền và nghĩa vụ của chủ rừng tại Luật
Lâm nghiệp năm 2017 và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Quảng Nam, tìm ra
những hạn chế, nguyên nhân qua đó đề xuất, định hướng và đưa ra các giải
pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của chủ rừng nói chung và tại tỉnh Quảng Nam nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng.
- Phân tích thực trạng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng

6


theo Luật Lâm nghiệp năm 2017 và thực tiến thực hiện tại tỉnh Quảng Nam.
- Đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, bảo đảm pháp
luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng theo pháp luật về bảo vệ và phát triển
rừng ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng theo
Luật Lâm nghiệp năm 2017. Thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa
vụ của chủ rừng tại tỉnh Quảng Nam .
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các quy định của pháp luật theo Luật Lâm nghiệp năm
2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này, so sánh với Luật Bảo vệ và
Phát triển rừng năm 2004.
Phạm vi nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là các hộ gia

đình, cá nhân và tổ chức kinh tế từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam. Dữ liệu được
học viên thu thập từ năm 2014 - 2018.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để thực hiện mục đích và các nhiệm vụ đặt ra, luận văn được thực hiện
dựa trên phương pháp luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp luật, đồng thời luận văn vận dụng các tư tưởng chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước ta về đổi mới tư duy chính trị pháp lý về cải cách hành chính, cải
cách tư pháp trong bảo vệ và phát triển rừng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng chủ yếu khi phân tích
cơ sở lý luận và các quy định nội dung của pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của chủ rừng là các hộ gia đình, cá nhân và tổ chức kinh tế trong chương 1,

7


chương 2 của luận văn như: phân tích các khái niệm, vai trò của pháp luật;
phân tích các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là các hộ
gia đình, cá nhân và tổ chức kinh tế... Phương pháp này còn được sử dụng để
khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề nghiên cứu trong các
chương của luận án.
Phương pháp thống kê được sử dụng trong quá trình thu thập dữ liệu
thông qua các số liệu báo cáo của các cơ quan quản lý nhà nước về rừng và
bảo vệ rừng tỉnh Quảng Nam, Trung ương, của các cơ quan nhà nước khác và
số liệu từ các báo cáo nghiên cứu khoa học của các tác giả khác nhau.
Phương pháp so sánh luật học được sử dụng để so sánh các quy định
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là các hộ gia đình, cá nhân và tổ
chức kinh tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã luận giải nội hàm khái niệm “rừng”, các tiêu xác định rừng
theo quy định của Việt Nam; nêu và phân tích khái niệm, đặc điểm của quyền
và nghĩa vụ của chủ rừng; khái niệm, đặc điểm, vài trò, yêu cầu và nguyên tắc
thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng. Luận văn đưa ra các
định hướng hoàn thiện pháp luật quyền và nghĩa vụ của chủ rừng, các giải
pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ
quan hữu quan trong quá trình hoạch định chính sách, xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng là các hộ gia đình, cá nhân và tổ
chức kinh tế ở Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn cũng giúp những người hoạt
động trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng, các chủ rừng những kiến thức

8


cần thiết trong quá trình thực thi pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
là các hộ gia đình, cá nhân và tổ chức kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Luận văn
có thể được sử dụng như nguồn tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu
và giảng dạy khoa học luật môi trường, luật lâm nghiệp trong các trường
chuyên luật và các trường giảng dạy pháp luật lâm nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và
nghĩa vụ của chủ rừng và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực

hiện quyền và nghĩa vụ của chủ rừng theo pháp luật bảo vệ và phát triển rừng

9


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA CHỦ RỪNG
1.1. Quan niệm chung về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
1.1.1. Khái niệm rừng, tài nguyên rừng và chủ rừng
1.1.1.1. Khái niệm rừng, chủ rừng
Có nhiều cách định nghĩa rừng khác nhau nhưng hầu hết đều định
nghĩa dựa vào phạm vi không gian, hệ thống sinh vật và cảnh quan địa lí
Theo tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hiệp Quôc (FAO):
“Rừng là một khu vực đất đai có diện tích lớn hơn 0,5 ha với độ che phủ của
tán rừng trên 10%, độ cao trung bình tối thiểu của cây phải đạt 5 mét, rừng
bao gồm rừng tự nhiên và rừng trồng.” [55, tr.56]
Theo Khoản 3, Điều 2, Luật Lâm nghiệp năm 2017 của Việt Nam thì:
Rừng là một hệ sinh thái bao gồm các loài thực vật rừng, động vật rừng, nấm,
vi sinh vật, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó thành phần chính
là một hoặc một số loài cây thân gỗ, tre, nứa, cây họ cau có chiều cao được xác
định theo hệ thực vật trên núi đất, núi đá, đất ngập nước, đất cát hoặc hệ thực
vật đặc trưng khác; diện tích liên vùng từ 0,3 ha trở lên; độ tàn che từ 0,1 trở
lên [52].
Trong phạm vi luận văn, khái niệm rừng được hiểu theo quy định tạo
Luật Lâm nghiệp năm 2017 của Việt Nam.
Điều kiện để trở thành chủ rừng đối với mỗi loại đối tượng chủ thể
cũng có nhiều điểm không giống nhau. Trước hết họ phải thuộc một trong các
nhóm đối tượng được tại Điều 8 Luật Lâm nghiệp 2017 (trừ Ban quản lý rừng
phòng hộ, rừng đặc dụng được thành lập sau khi giao rừng phòng hộ, rừng

đặc dụng). Tiếp theo họ phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét,

10


cấp quyết định giao rừng, cho thuê rừng, giao đất, cho thuê đất để trồng rừng
căn cứ trên dự án đầu tư về lâm nghiệp được phê duyệt theo pháp luật về đầu
tư (đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước
ngoài), khu vực sinh sống tại địa phương có rừng (thường áp dụng đối với hộ
gia đình, cá nhân) hoặc nhu cầu sử dụng vào mục đích kinh doanh (đối với tổ
chức kinh tế), nghiên cứu (đối với tổ chức nghiên cứu khoa học), lí do an ninh
- quốc phòng (đối với đơn vị vũ trang nhân dân). Khi hoàn thành các thủ tục
cần thiết họ sẽ trở thành chủ rừng và được công nhận quyền sử dụng rừng
hoặc quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng [52].
Theo Khoản 9, Điều 2, Luật Lâm nghiệp năm 2017 của Việt Nam thì:
Chủ rừng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư được Nhà nước
giao rừng, cho thuê rừng; giao đất, cho thuê đất để trồng rừng; tự phục hồi, phát
triển rừng; nhận chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế rừng theo quy định của pháp
luật [52].
1.1.1.2. Khái niệm tài nguyên rừng
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai được
hìnhthành và tồn tại trong tự nhiên mà con người có thể sử dụng để đáp ứng
các nhucầu trong cuộc sống. Tài nguyên thiên nhiên từ rừng được hiểu như là
nguồn vậtchất hữu ích có sẵn trong tự nhiên để cung cấp cho nhu cầu kinh tế,
xã hội củaloài người và sinh vật.
Tài nguyên thiên nhiên được phân loại thành:
- Tài nguyên không tái tạo là nguồn tài nguyên khi khai thác và sử
dụng sẽbị cạn kiệt dần và không khôi phục lại trạng thái ban đầu như tài
nguyên khoángsản.
- Tài nguyên tái tạo là nguồn tài nguyên sau khi sử dụng có thể tái sinh

vàcó thể ngày càng phong phú hơn nếu được sử dụng hợp lý, quản lý tốt như
tàinguyên đất, rừng, biển và tài nguyên nông nghiệp.

11


Có thể hiểu, tài nguyên rừng là một loại tài nguyên thiên nhiên có
khảnăng tái tạo, là bộ phận quan trọng của môi trường sinh thái, có giá to lớn
baogồm rừng tự nhiên và rừng trồng trên đất lâm nghiệp, gồm có thực vật
rừng,động vật rừng và những yếu tố tự nhiên có quan đến rừng (gọi chung là
quần xãsinh vật). Tài nguyên rừng có thể được chia thành các nhóm sau: (1)
Tài nguyêngỗ; (2) Tài nguyên phi gỗ; (3) Tài nguyên đa dạng sinh học; (4)
Tài nguyên đất; (5) Tài nguyên nước. Ngoài ra, rừng còn cung cấp cho con
người lượng oxy dồidào, rừng điều hòa nước, chống xói mòn, giảm thiểu ô
nhiễm, cân bằng khí cacbonic/oxy [37]...
Tuy rừng có vai trò vô cùng to lớn và có giá trị đối với cuộc sống
nhưngchúng ta chưa xếp chúng vào loại tài nguyên nào, chưa đánh giá hết
những vaitrò của rừng.
- Về tài nguyên gỗ, từ trước đến nay, gỗ được con người đánh giá là
nguồntài nguyên cơ bản của hệ sinh thái rừng, nó cung cấp nguyên liệu cho
các ngànhxây dựng, công nghiệp giấy, sản xuất các đồ gỗ, các loại dụng cụ
gia đình...Các cây gỗ còn một giá trị khác quan trọng hơn nữa là bảo vệ đất,
chống xóimòn, điều hòa khí hậu và lưu lượng nước của các dòng chảy lục địa.
- Về tài nguyên phi gỗ, trước đây tài nguyên này thường gọi là lâm
sảnphụ nhưng ngày nay, thuật ngữ “lâm sản ngoài gỗ” được sử dụng để chỉ tất
cảcác loại tài nguyên rừng trừ tài nguyên gỗ. Lâm sản ngoài gỗ bao gồm
nhữngsản phẩm có nguồn gốc sinh vật, khác gỗ, được khai thác từ rừng như
củi, thangỗ, cành ngọn, gốc cây, những dịch vụ trong rừng như săn bắn, giải
trí, dưỡngbệnh, dịch vụ du lịch sinh thái... Giá trị kinh tế do lâm sản ngoài gỗ
đem lạihàng năm cho con người không thua kém so với gỗ.

- Về tài nguyên đa dạng sinh học, đa dạng sinh học có vai trò cực kỳ
quantrọng trong đời sống con người và môi trường. Các loài sinh vật hoang
dại là cơsở và nguyên liệu để cải tiến và tạo ra các loại giống cây trồng, vật

12


nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt, kháng dịch bệnh... Còn rất nhiều loài
cây, loài vật hoang dã đã, đang và sẽ cung cấp cho chúng ta nguồn thực phẩm
to lớn, nguồndược phẩm quý giá và nguồn gen vô cùng quan trọng trong việc
chọn giống,không những chỉ cho con người hiện nay mà còn cho cả các thế hệ
tương lai.
Trước khi dịch AIDS bùng nổ, chúng ta không hề biết rằng cây hạt dẻ
gai tạivịnh Moreton của Australia lại có thể cho chúng ta một loại chất thúc
đẩy quátrình nghiên cứu phương pháp điều trị bệnh này. Hiện nay, có rất
nhiều công tydược phẩm lớn trên thế giới đã đặt hàng hoặc tài trợ cho các
viện nghiên cứu đadạng sinh học của các nước nhiệt đới để tìm hiểu, nghiên
cứu và khai thác cácloài cây thuốc và con thuốc quý trong rừng của những
quốc gia giàu có về đadạng sinh học này.
Như vậy, nếu không quản lý tốt nguồn tài nguyên này thì hàng trăm
loàicó những công dụng khác nhau có thê bị biến mất trước khi chúng ta nhận
thứcđược tầm quan trọng của chúng.
- Ngoài ra, có ý kiến cho rằng, tài nguyên đất và nước trong rừng cũng
làmột loại tài nguyên rừng. Như chúng ta đã biết, đất và nước là những nguồn
tàinguyên vô cùng quan trọng đôi với con người. Rừng bảo vệ một diện tích
đất đairất lớn tránh khỏi sự xói mòn và bạc màu, rừng còn điều hòa các dòng
chảy, giữnước, hạn chế nước đổ ra biển, làm tăng lượng nước ngầm cho các
vùng và làmlượng nước sạch được tái tạo nhanh hơn.
Việc thống nhất quản lý tài nguyên đất, trong đó có đất rừng cũng
đượcxác định là tài nguyên đặc biệt của Quốc gia, nguồn lực quan trọng phát

triển đấtnước, được quản lý theo pháp luật. Nhà nước thực hiện thống nhất
quản lý đốivới tài nguyên rừng bằng việc ban hành pháp luật, tổ chức thực
hiện pháp luật vàbảo đảm cho pháp luật được thực thi.
Việc quy định tài nguyên rừng thuộc sở hữu toàn dân của Việt Nam có

13


sựtương đồng với Trung Quốc và Liên bang Nga. Trung Quốc coi tài nguyên
rừngdo Nhà nước thống nhất quản lý và Nhà nước Trung Quốc đã thực thi rất
thànhcông pháp luật lâm nghiệp trong nhiều thập niên vừa qua. Trong khi tình
hình tàinguyên rừng thế giới tiếp tục bị giảm xuống thì diện tích rừng của
Trung Quốcđều giữ đà tăng trưởng, được Cơ quan môi trường Liên hợp quốc
xếp vào danhsách một trong 15 nước có diện tích rừng nhiều nhất thế giới
[37].
Liên bang Nga có hướng đến tư nhân hóa việc khai thác tài nguyên
rừngvà pháp luật lâm nghiệp của Nga chú trọng phát triển ngành Lâm nghiệp
thànhmột ngành công nghiệp khai thác, chế biến gỗ vì trữ lượng gỗ của Nga
rất lớn.Trong khi đó, Phần Lan được xem là quốc gia thực thi thành công
nhấtviệc bảo vệ rừng và quản lý rừng bền vững lại quy định đất đai, rừng
thuộc sở hữu tư nhân. Nhà nước chỉ quản lý những diện tích rừng, đất rừng có
vai tròquan trọng đối với đa dạng sinh học, còn lại các diện tích rừng đều
được giaocho tư nhân quản lý [37, tr.68].
Như vậy, có thể thấy rằng, tài nguyên rừng là một loại tài nguyên
thiênnhiên vô cùng quý giá, các nước trên thế giới đều rất coi trọng việc bảo
vệ, pháttriển và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên này.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
1.1.2.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Quyền của chủ rừng là khả năng của mỗi chủ rừng được tự do hành
động. Khả năng đó được nhà nước ta ghi nhận trong pháp luật và được bảo

đảm bằng quyền lực nhà nước. Các chủ rừng có quyền sở hữu rừng sản xuất là
rừng trồng,đó là quyền được chiếm hữu, được sử dụng, định đoạt đối với cây
trồng, vật nuôi, tài sản gắn liền với rừng trồng do chủ rừng tự đầu tư trong thời
hạn được giao, được thuê để trồng rừng theo quy định của pháp luật về bảo vệ
và phát triển rừng và các quy định khác của pháp luật có liên quan [37].

14


Nghĩa vụ chủ rừng là sự tất yếu hành động của mỗi chủ rừng vì lợi ích
của toàn thể Nhà nước và xã hội. Sự tất yếu đó được Nhà nước quy định
trongHiến pháp và bảo đảm thực hiện bằng mọi biện pháp, kể cả biện pháp
cưỡng chế [37].
1.1.2.2. Đặc điểm quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, do rừng là tài sản đặc biệt nên việc chủ sở được Nhà nước
giao rừng cho các chủ rừng cũng có những đặc điểm và tính chất riêng. Chế
độ sở hữu rừng có sự khác biệt nhất định với chế độ sở hữu đất. Rừng tự
nhiên, là rừng được phát triển bằng vốn của Nhà nước, động vật hoang dã, các
loài vi sinh, các cảnh quan và môi trường rừng được Nhà nước thống nhất
quản lý và định đoạt; rừng sản xuất(rừng sản xuất) là rừng trồng thuộc quyền
sở hữu của chủ rừng. Quy định này nhằm giúp phân biệt giữa quyền sở hữu
rừng tự nhiên và quyền sở hữu rừng trồng. Vấn đề này được quy định cụ thể
tại Điều 7 Luật Lâm nghiệp năm 2017 về sở hữu rừng.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của chủ rừng gắn với chính sách lâm
nghiệp của Nhà nước. Khi thực hiện chuyển từ một nền lâm nghiệp chủ yếu
dựa vào khai thác, lợi dụng tài nguyên rừng làm chính sang bảo vệ, nuôi
dưỡng, gây trồng và làm giàu vốn rừng.Chuyển từ một nền lâm nghiệp quảng
canh và độc canh cây rừng sang nền lâm nghiệp thâm canh và đa canh cây
rừng theo phương thức lâm - nông kết hợp, kinh doanh lợi dụng tổng hợp tài

nguyên rừng.
Thứ ba, chủ rừng ngày càng có nhiều quyền lợi hơn và gắn với các
nghĩa vụ cụ thể hơn. Từng bước chuyển từ lâm nghiệp lấy quốc doanh làm
chính sang nền lâm nghiệp nhân dân có nhiều thành phần kinh tế tham gia
(lâm nghiệp xã hội).Từ các quan điểm trên của Đảng mà quyền và nghĩa vụ
của chủ rừng cũng được thể chế hóa, sửa đổi theo, nhất là việc xã hội hóa một

15


bộ phận rừng tự nhiên sẽ tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư bảo vê và phát triển
rừng tự nhiên nghèo kiệt và rừng non đang phục hồi trở thành rừng tốt, có giá
trị kinh tế và môi trường.
Thứ tư, quyền và nghĩa vụ có thể được chuyển đổi từ chủ rừng này cho
chủ rừng khác theo hình thức giao khoán và theo quy định của Nhà nước về
điều kiện trở thành chủ rừng.
1.2. Pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ
của chủ rừng
1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ và phát triển rừng
Hệ thống pháp luật Việt Nam thường được phân chia thành các ngành
luật để nghiên cứu như: Luật hành chính, Luật dân sự, Luật hình sự, Luật kinh
tế… Tuy nhiên, khi nghiên cứu về các lĩnh vực pháp luật cụ thể thì nó có sự
liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau. Các quy định về lĩnh vực pháp luật
lại nằm ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu
khái niệm pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ
rừng như sau:
Pháp luật bảo vệ và phát triển rừng là một lĩnh vực pháp luật bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh có liên quan đến hoạt động quản lý, bảo vệ và phát
triển nguồn tài nguyên rừng.

Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng có thể được hiểu cụ thể
như sau:
Thứ nhất, về đối tượng điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật bảo vệ và
phát triển rừng gồm các nhóm quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động quản lý
tài nguyên rừng của các chủ thể trong xã hội như: Nhóm quy định pháp luật
về quản lý tài nguyên rừng gồm: quản lý nhà nước và quản lý của chủ rừng
đối với tài nguyên rừng; Nhóm quy định pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng

16


gồm: pháp luật về bảo vệ thực vật, động vật hoang dã; pháp luật về ưu đãi của
nhà nước đối với chủ thể bảo vệ tài nguyên rừng; pháp luật về vi phạm và xử
lý vi phạm các hành vi xâm hại tài nguyên rừng Nhà nước - với tư cách là chủ
thể đặc biệt thực hiện việc quản lý tài nguyên rừng bằng việc ban hành các
quy định pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến quản lý,
bảo vệ, sử dụng và phát triển nguồn tài nguyên rừng; tổ chức thực hiện các
quy định pháp luật và bảo đảm cho các quy định pháp luật đó được thực thi
hiệu quả [37].
Các chủ thể khác được nhà nước giao, cho thuê tài nguyên rừng để thực
hiện hoạt động quản lý, bảo vệ tài nguyên rừng như:
- Các tổ chức sự nghiệp được giao quản lý rừng để thực hiện nhiệm
vụcông ích như Ban quản lý rừng phòng hộ, ban quản lý rừng đặc dụng...
- Các tổ chức kinh tế được nhà nước giao rừng, cho thuê rừng để thực
hiện hoạt động quản lý, bảo vệ và kinh doanh rừng.
- Hộ gia đình, cá nhân được nhà nước giao rừng, cho thuê rừng để thực
hiện hoạt động quản lý, bảo vệ và kinh doanh rừng.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được giao, thuê rừng sản xuất
là rừng trồng để thực hiện hoạt động quản lý, bảo vệ và kinh doanh rừng.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài được thuê rừng sản xuất là rừng trồng để

thực hiện hoạt động quản lý, bảo vệ và kinh doanh rừng.
Thứ hai, về phương pháp điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực quản lý và
bảo vệ tài nguyên rừng là sự kết hợp giữa các phương pháp mệnh lệnh,
phương pháp thoả thuận và phương pháp hướng dẫn.
- Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng điều chỉnh các quan hệ trong
việc lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ rừng, trong việc giao, cho thuê rừng; cấp
phépgây nuôi, xuất nhập khẩu thực vật, động vật hoang dã, xử phạt vi phạm
pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng.

17


- Phương pháp thỏa thuận được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong việc chuyển nhượng, cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn, thừa
kế đối với tài nguyên rừng.
- Phương pháp hướng dẫn được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã
hội trong việc phòng cháy, chữa cháy rừng, hướng dẫn gây nuôi, trồng cấy
thực vật, động vật hoang dã...
1.2.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về
quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Các quy định pháp luật về quản lý của chủ rừng đối với tài nguyên rừng
- Quản lý tài nguyên rừng của các chủ thể được xác định rõ quyền và
nghĩa vụ của chủ thể này đối với từng loại rừng được giao, được thuê.
- Quản lý tài nguyên rừng của các tổ chức được giao rừng, được thuê
rừng:
+ Tổ chức trong nước gồm: tổ chức là đơn vịsự nghiệp quản lý rừng
được giao rừng đặc dụng, rừng phòng hộ; tổ chức kinh tế được giao rừng sản
xuất, khucảnh quan của rừng đặc dụng...
+ Tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được phép thuê rừng sản xuất là
rừngtrồng hoặc đất rừng sản xuất chưa có rừng để đầu tư kinh doanh phát

triển rừng; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư dự án vào trồng
rừng chỉ được giao có thu tiền hoặc thuê rừng sản xuất là rừng trồng, đất trồng
rừng sản xuất chưa có rừng để kinh doanh, phát triển rừng.
Chủ rừng có quyền: được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận
quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng; được sử dụng
rừng ổn định, lâu dài phù hợp với thời hạn giao rừng, cho thuê rừng và thời
hạn giao đất, cho thuê đất; được sản xuất lâm nghiệp - nông nghiệp - ngư
nghiệp kết hợp theo quy chế quản lý rừng; được hưởng thành quả lao động,
kết quả đầu tư trên diện tích được giao, được thuê; bán thành quả lao động,

18


kết quả đầu tư cho người khác; được kết hợp nghiên cứu khoa học, kinh
doanh cảnh quan, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái môi trường theo dự án được
cấp có thẩm quyền phê duyệt; được bồi thường thành quả lao động, kết quả
đầu tư để bảo vệ và phát triển rừng theo quy định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan khi Nhà nước có quyết định thu hồi
rừng; được hướng dẫn về kỹ thuật, hỗ trợ về vốn theo chính sách của Nhà
nước để bảo vệ và phát triển rừng và được hưởng lợi do các công trình công
cộng bảo vệ, cải tạo rừng mang lại; được Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích
hợp pháp đối với rừng được giao, được thuê.
Chủ rừng có nghĩa vụ: bảo toàn vốn rừng hiện có và phát triển rừng bền
vững theo đúng quy hoạch phát triển; sử dụng rừng đúng mục đích, đúng ranh
giới đã quy định; tổ chức bảo vệ và phát triển rừng; định kỳ báo cáo cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về diễn biến tàinguyên rừng; giao lại rừng khi Nhà
nước có quyết định thu hồi rừng hoặc khi hết thời hạn sử dụng rừng; thực hiện
nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật; không
làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan.
1.2.3. Yêu cầu của pháp luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và

nghĩa vụ của chủ rừng
1.2.3.1. Yêu cầu của kinh tế thị trường đối với pháp luật bảo vệ và phát
triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Kinh tế thị trường là cách thức tổ chức nền kinh tế xã hội, trong đó các
quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua quan hệ
mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và thái độ của cư xử của từng thành
viên chủ thể kinh tế là định hướng vào việc tìm kiếm lợi ích của chính mình
theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường.
Nhận thức được những ưu điểm của nền kinh tế thị trường nên từ Đại
hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu,

19


bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị
trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo, thúc đẩy họ cải tiến lối làm
việc nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, tạo ra cơ chế đào tạo, tuyển
chọn, sử dụng nhà quản lý kinh doanh năng động, có hiệu quả và đào thải các
nhà quản lý kém hiệu quả và tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ, bảo
vệ lợi ích của người tiêu dùng [37, tr.69-70].
Đối với hoạt động bảo vệ và phát triển rừng, khi chuyển sang nền kinh
tế thị trường đã tạo ra sự đa dạng về hình thức sở hữu, đa dạng về nguồn vốn
đầu tư... Nhà nước thừa nhận có sở hữu tư nhân đối với rừng trồng và quyền
sử dụng rừng đối với các chủ rừng, quyền tài sản đối với rừng và đất rừng.
Nhiều chủ thể tham gia vào việc bảo vệ và phát triển rừng như: nhà nước,
doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, thậm chí cả tổ chức, cá
nhân nước ngoài… Đây cũng là một lợi thế khi chúng ta tiến tới “xã hội hóa”
việc bảo vệ rừng và thu hút nguồn vốn của nhiều chủ thể đầu tư vào bảo vệ và
phát triển rừng.
Do đặc điểm của tài nguyên rừng là thời gian sinh trưởng kéo dài, nhu

cầu đầu tư lớn và thu hồi vốn chậm, trong khi đó các chính sách khuyến khích
bảo vệ và phát triển rừng của nhà nước lại chưa hấp dẫn nên nhiều chủ rừng
chỉ chú trọng khai thác rừng mà chưa thực sự quan tâm đến việc bảo vệ rừng.
Vì mục tiêu lợi nhuận trước mắt nhiều chủ thể sau khi được nhà nước giao
quản lý rừng, đất rừng đã nhanh chóng tìm cách khai thác cạn kiệt nguồn tài
nguyên này, thậm chí tìm cách chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, đất rừng.
Nhược điểm lớn nữa của kinh tế thị trường là luôn đặt lợi ích lên hàng
đầu nên cái gì có lãi thì làm, không có lãi thì thôi nên nó không giải quyết cái
gọi là “lợi ích công cộng hay hàng hóa công cộng” như đường xá, y tế, môi
trường, đa dạng sinh học…Vì vậy, trong những năm qua, tài nguyên rừng của
nước ta bị khai thác cạn kiệt ở nhiều mặt từ gỗ, lâm sản ngoài gỗ đến động vật

20


hoang dã, quý, hiếm… Nhiều diện tích rừng độc canh, thậm chínhiều diện
tích rừng bị chuyển đổi sang trồng cây công nghiệp như cao su, hồ tiêu, cà
phê…
1.2.3.2. Yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với pháp luật bảo vệ và phát
triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Trong quá trình giao lưu, buôn bán quốc tế, tài nguyên rừng của Việt
Nam bị khai thác quá mức dẫn đến tình trạng suy thoái, cạn kiệt, nhiều loài
thực vật, động vật rừng có nguy cơ tuyệt chủng. Để gìn giữ, bảo vệ và phát
triển nguồn tàinguyên rừng, Việt Nam đã tích cực tham gia các công ước
quốc tế về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ rừng nói riêng. Việt Nam
đã tham gia 23 Công ước quốc tế về môi trường, trong đó các Công ước liên
quan đến bảo vệ và phát triển rừng như:
Nghị định thư bổ sung Công ước này tại Paris năm 1982. Việt Nam
tham gia Công ước này ngày 20/9/1988.Công ước về buôn bán quốc tế về các
giống loài động thực vật có nguy cơ bị đe dọa (CITES), 1973, Việt Nam tham

gia ngày 20/01/1994.Công ước về Ða dạng sinh học (CBD), 1992, Việt Nam
tham gia ngày 16/11/1994.Công ước RAMSAR có hiệu lực vào năm 1975 và
tính đến tháng 12/2006 có 153 thành viên, ở mọi nơi trên thế giới. Với việc
tham gia Công ước RAMSAR đã tác động rất lớn đến hành động của Việt
Nam để thực thi công ước này. Như vậy, khi mở rộng hội nhập quốc tế và
tham gia các công ước quốc tế trong lĩnh vực này thì yêu cầu đối với pháp
luật bảo vệ và phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng của Việt
Nam cũng phải được ban hành và tổ chức thực hiện cho phù hợp [53].
1.2.3.3. Yêu cầu quản lý rừng bền vững đối với pháp luật bảo vệ và
phát triển rừng về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng
Thực tế cho thấy nếu chỉ có các biện pháp truyền thống như tăng cường
luật pháp, tham gia các công ước… thì không thể bảo vệ được diện tích rừng

21


×