Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA tại Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.95 KB, 94 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là một trong những nguồn lực từ
bên ngoài có những ưu điểm nổi trội, rất phù hợp để hỗ trợ các nước đang
phát triển, đặc biệt là các nước nông nghiệp nghèo như Việt Nam. Việc tranh
thủ thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA đã và đang góp phần tích cực phục vụ
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Thời gian qua, việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA tạo Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội đã đạt được nhiều kết quả nhất định. Nguồn
vốn ODA này đã góp phần quan trọng trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo,
dạy nghề, tạo việc làm trong nước và giải quyết các vấn đề xã hội khác như:
trẻ em, người già có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Bên cạnh các kết quả đã đạt được thì hiệu quả sử dụng vốn ODA tại Bộ
LĐTB&XH thời gian qua còn một số hạn chế như: công tác chuẩn bị dự án
chưa tốt, tiến độ thực hiện các dự án còn chậm, nhiều dự án phải kéo dài thời
gian so với Hiệp định đã ký kết, không đạt được mục tiêu đề ra…
Để góp phần nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn, từ đó đưa ra các
giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng vốn ODA tại Bộ
LĐTB&XH trong thời gian tới, tác giả đã chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tại Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận, đặc điểm, các tiêu thức đánh giá hiệu quả sử dụng
vốn ODA tại Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá tình hình sử dụng nguồn vốn ODA tại Bộ
LĐTB&XH trong thời gian qua;


2



- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA tại
Bộ LĐTB&XH trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Việc quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA tại Bộ
LĐTB&XH;
- Phạm vi nghiên cứu: Nguồn vốn ODA tại Bộ LĐTB&XH từ năm 2003
đến nay. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chỉ để cập tới việc
nghiên cứu về việc hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA tại Bộ Lao động
– Thương binh và Xã hội đứng trên giác độ những hiệu quả về mặt xã
hội mà nguồn vốn ODA mang lại trong phạm vi ngành Lao động –
Thương binh và Xã hội.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, với việc kết hợp các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh… Các phương pháp này được sử dụng kết hợp hoặc riêng rẽ trong
quá trình nghiên cứu.
- Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các kết quả/đánh giá thực tế của các
chuyên gia/nhà tài trợ từ các dự án đã và đang thực hiện tại Bộ
LĐTB&XH có sử dụng nguồn vốn ODA để làm rõ hơn các kết luận rút
ra từ quá trình nghiên cứu..
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Hệ thống hoá lý luận về vốn ODA và khẳng định vai trò của nguồn vốn
ODA đối với ngành Lao động – Thương binh và Xã hội
- Trên cơ sở phân tích thực trạng, những kết quả và bài học kinh nghiệm
trong việc sử dụng nguồn vốn ODA tại Bộ Lao động – Thương binh và


3


Xã hội thời gian qua, từ đó đề xuất những định hướng, các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA tại Bộ LĐTB&XH trong
thời gian tới;
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho các cơ quan
quản lý, các nhà hoạch định chính sách của Bộ LĐTB&XH, các địa
phương tham gia dự án tìm ra phương thức tốt nhất nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA.
6. Tên và kết cấu luận văn
- Tên luận văn: "Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA tại Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội"
- Kết cấu: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
 Chương 1: Vốn ODA và hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA.
 Chương 2: Thực trạng và hiệu quả sử dụng vốn ODA tại Bộ Lao
động – thương binh và Xã hội từ năm 2003 đến nay.
 Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA tại Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội đến năm 2015


4

Chương 1
VỐN ODA VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA
1.1. VỐN ODA
1.1.1. Khái niệm và các hình thức của vốn ODA
1.1.1.1. Khái niệm ODA
Thuật ngữ hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) xuất hiện từ sau chiến
tranh Thế giới II và gắn liền với yếu tố chính trị. Sau đại chiến Thế giới lần
thứ II, cả Châu Âu và Châu Á đều đứng trước cảnh đổ nát, hoang tàn, chỉ có
Châu Mỹ nói chung và nước Mỹ nói riêng là không bị ảnh hưởng mà ngược

lại, nước Mỹ nhờ chiến tranh trở nên giàu có. Trước tình hình đó, Mỹ thực
hiện viện trợ ồ ạt cho Tây Âu nhằm ngăn chặn sự ảnh hưởng của Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch viện trợ này được gọi là "Hỗ trợ phát
triển chính thức" thông qua Ngân hàng Thế giới.
Đến nay, thuật ngữ ODA được sử dụng khá phổ biến. Tùy theo từng cách
tiếp cận, có nhiều cách hiểu khác nhau về ODA, cụ thể như sau:
Theo tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) thì ”Nguồn hỗ trợ
phát triển chính thức là những nguồn tài chính do các Chính phủ hoặc các Tổ
chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia viện trợ cho một quốc gia nhằm thúc
đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi của quốc gia đó”.
Theo Ngân hàng thế giới thì “nguồn hỗ trợ phát triển chính thức là một
bộ phận của tài chính phát triển chính thức, trong đó các khoản vay cần đạt ít
nhất 25% yếu tố cho không”.
Như vậy, ODA được hiểu là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc cho
vay ưu đãi của các tổ chức quốc tế, Chính phủ các nước (thường là các nước
phát triển) dành cho Chính phủ một nước (thường là nước đang phát triển)
nhằm giúp chính phủ nước đó phát triển kinh tế xã hội.


5

ODA phản ánh mối quan hệ giữa hai bên: Bên tài trợ gồm các tổ chức
quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, Chính phủ các nước phát triển và bên nhận
tài trợ là Chính phủ một nước (thường là nước đang phát triển). Bộ phận
chính của nguồn vốn ODA là vốn vay ưu đãi, Chính phủ nước nhận tài trợ
(vay nợ) phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ trong tương lai.
1.1.1.2. Các hình thức ODA
a. Theo phương thức hoàn trả
+ ODA không hoàn lại: Là hình thức cung cấp ODA mà bên nhận tài trợ
không phải hoàn trả cho bên tài trợ. Có thể coi viện trợ không hoàn lại như

một nguồn thu của ngân sách Nhà nước, được sử dụng theo hình thức Nhà
nước cấp phát lại cho các nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 25% trong tổng số vốn ODA trên Thế
giới. Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện dưới các dạng:
- Hỗ trợ kỹ thuật ;
- Viện trợ nhận đạo bằng hiện vật.
+ ODA vay ưu đãi: Nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền,
với các điều kiện ưu đãi về lãi suất (thấp hơn lãi suất thị trường), thời gian ân
hạn và thời gian trả nợ; hoặc không chịu lãi mà chỉ chịu chi phí dịch vụ. Vay
ưu đãi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn vay ODA trên Thế giới, là nguồn
thu phụ thêm để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước.
+ ODA vay hỗn hợp: Là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các
khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương
mai.
Nhìn chung hiện nay các nước cung cấp ODA đang có chiều hướng giảm
viện trợ không hoàn lại và tăng hình thức tín dụng ưu đãi và ODA hỗn hợp.
b. Theo nguồn cung cấp


6

+ ODA song phương: Là các khoản tài trợ phát triển chính thức từ nước
này cho nước kia (nước phát triển cho nước đang hoặc kém phát triển) thông
qua Hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ. Trong tổng số ODA lưu
chuyển trên thế giới, phần tài trợ song phương chiếm tỷ trọng lớn, có khi lên
tới 80%, lớn hơn nhiều so với tài trợ đa phương.
+ ODA đa phương: Là các khoản tài trợ phát triển chính thức của một số
tổ chức tài chính quốc tế và khu vực như: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), …; hoặc các tổ
chức phát triển của Liên hợp quốc như: Chương trình phát triển của Liên Hợp

quốc (UNDP), Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Tổ chức nông lương
thế giới (FAO),…; hoặc Liên minh Châu Âu (EU), các tổ chức thuộc Liên
minh Châu Âu, và các tổ chức phi chính phủ (NGOs)…cho các nước đang
hoặc kém phát triển .
c. Theo mục đích sử dụng
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán: Là các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ
ngân sách của Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: Chuyển
giao tiền tệ hoặc hiện vật cho nước nhận ODA; Hỗ trợ nhập khẩu (tài trợ hàng
hoá): Chính phủ nước nhận ODA tiếp nhận một lượng hàng hoá có giá trị
tương đương với các khoản cam kết, bán cho thị trường nội địa và thu nội tệ.
+ Hỗ trợ theo chương trình: Là hỗ trợ theo khuôn khổ đạt được bằng
hiệp định với các nhà tài trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA trong một
khoảng thời gian mà không phải xác định trước một cách chính xác nó sẽ sử
dụng như thế nào. Đây là loại hình ODA trong đó các bên lồng ghép một hay
nhiều mục tiêu với tập hợp nhiều dự án, hay nhiều hợp phần.
+ Hỗ trợ theo dự án: Là khoản hỗ trợ, trong đó nước nhận hỗ trợ phải
chuẩn bị chi tiết dự án. Loại hình hỗ trợ này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
nguồn ODA và chủ yếu tập trung vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, kinh tế – xã hội.


7

Trị giá vốn của các dự án đầu tư thường lớn hơn và thời gian thực hiện dài
hơn các loại dự án khác.
+ Hỗ trợ kỹ thuật: Là loại hình thường tập trung chủ yếu vào chuyển
giao kiến thức hoặc tăng cường cơ sở, lập kế hoạch, tư vấn, nghiên cứu tình
hình thực tiễn, nghiên cứu tiền khả thi…Vốn của dự án hỗ trợ kỹ thuật dành
chủ yế cho thuê tư vấn quốc tế, tư vấn trong nước, tổ chức đào tạo, nghiên
cứu khảo sát và mua sắm thiết bị văn phòng. Trị giá vốn của các dự án hỗ trợ
kỹ thuật thường không lớn.

1.1.2. Đặc điểm nguồn vốn ODA
a. ODA là nguồn vốn hợp tác phát triển
Từ khái niệm về ODA chúng ta đã thấy: ODA là hình thức hợp tác phát
triển của Chính phủ các nước phát triển, các tổ chức quốc tế với các nước
đang phát triển hoặc chậm phát triển thông qua các khoản viện trợ không
hoàn lại và/hoặc các khoản cho vay với điều kiện ưu đãi.
Ngoài ra, bên viện trợ thông qua các khoản cho vay ưu đãi/các khoản
viện trợ không hoàn lại sẽ cung cấp cho bên được viện trợ hàng hóa, chuyển
giao khoa học - kỹ thuật, cung cấp dịch vụ …
Ngược lại, bên được viện trợ thông qua nguồn vốn hỗ trợ phát triển có
điều kiện bổ sung nguồn vốn còn thiếu, sử dụng vào các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu cống… tạo điều kiện
thúc đẩy nền kinh tế phát triển và nâng cao đời sống nhân dân.
b. ODA là nguồn vốn có nhiều ưu đãi
Với mục tiêu hỗ trợ cho các quốc gia đang phát triển hoặc kém phát
triển, ODA mang tính ưu đãi hơn bất kỳ hình thức tài trợ nào khác. Tính chất
ưu đãi của nguồn vốn này được thể hiện qua những ưu điểm sau:
+ Lãi suất thấp:


8

Các khoản vay ODA thường có mức lãi suất rất thấp, ví dụ như lãi suất
các khoản vay ODA của Nhật Bản dao động từ 0,75 – 2,3% năm; của Ngân
hàng Thế giới (WB) là 0%/năm nhưng phải trả phí dịch vụ là 0,75%/năm; mức
lãi suất của Ngân hàng Phát triển Châu Á thường từ 1-1,5%/năm…
+ Thời hạn vay dài:
Gắn với mức lãi suất tín dụng thấp, ODA có thời gian vay dài, như các
khoản vay của Nhật Bản thường có thời hạn là 30 năm; Ngân hàng Thế giới là 40
năm; Ngân hàng Phát triển Châu Á là 32 năm.

+ Thời gian ân hạn:
Đối với ODA vay: thời gian từ khi vay đến khi phải trả vốn gốc đầu tiên
tương đối dài, 10 năm đối với các khoản vay từ Nhật Bản và Ngân hàng Thế
giới; và 8 năm đối với Ngân hàng Phát triển Châu Á.
c. Nguồn vốn ODA thường đi kèm theo các điều kiện ràng buộc
Nhìn chung, các nước viện trợ ODA đều có chính sách riêng và những qui
định ràng buộc khác nhau đối với các nước tiếp nhận. Họ vừa muốn đạt được ảnh
hưởng về chính trị, vừa muốn đem lại lợi nhuận thông qua việc bán hàng hoá và
dịch vụ của nước họ cho nước nhận viện trợ.
ODA luôn bị ràng buộc trực tiếp hoặc gián tiếp. Do đó, đi kèm theo với
ODA bao giờ cũng có những ràng buộc nhất định về chính trị, kinh tế hoặc khu
vực địa lý.
d. Nguồn vốn ODA có tính nhạy cảm
Vì ODA là một phần GDP của nước tài trợ nên ODA rất nhạy cảm với dư luận
xã hội ở nước tài trợ. Những nước tài trợ lớn trên Thế giới có luật về ODA,
như tại Nhật Bản, quốc hội kiểm soát chặt chẽ Chính phủ trong việc cung cấp
tài trợ ODA mang tính nhân đạo.


9

1.1.3. Tính hai mặt của vốn ODA đối với nước nhận viện trợ
1.1.3.1. Ưu điểm
+ Thứ nhất: ODA là nguồn vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Các
khoản vay ODA có thời gian trả nợ rất dài và có mức lãi suất ưu đãi. Thành tố
viện trợ không hoàn lại trong các khoản vay ODA tối thiểu là 25% theo quy
định của các nước OECD. Theo số liệu của Bộ Tài chính từ năm 1993 đến
năm 1999 Việt Nam đã ký vay ODA là 11.627 triệu USD trong đó có 9.632
triệu USD (chiếm 83%) là vay với thời hạn 30-40 năm và lãi suất từ 0,75%
đến 2%/năm. Thành tố viện trợ không hoàn lại của các khoản vay này đạt từ

25% đến 80%.
Chỉ có nguồn vốn lớn với điều kiện vay ưu đãi như vậy Chính phủ mới
có thể tập trung đầu tư cho các dự án hạ tầng kinh tế lớn như xây dựng đường
xá, điện, nước, thuỷ lợi, cảng, và các dự án hạ tầng xã hội như giáo dục y tế,
có thời gian hoàn vốn lâu và tỷ lệ hoàn vốn thấp.
+ Thứ hai: ODA là nguồn bổ sung ngoại tệ cho đất nước và bù đắp cán
cân thanh toán. Hiện nay ở một số nước ASEAN, tỷ lệ tiết kiệm nội địa khá
cao từ 35-40% GDP, song tại các nước này vẫn có thâm hụt cán cân vãng lai.
Vốn ODA vào các nước này là nguồn bù đắp quan trọng cho cán cân vãng lai.
Trong điều kiện đồng tiền nội tệ không có khả năng tự do chuyển đổi thì một
dự án nếu đã chuẩn bị đủ 100% vốn đầu tư bằng nguồn vốn trong nước nhưng
nếu nhu cầu chuyển đổi tiền nội tệ ra ngoại tệ để nhập khẩu trang thiết bị cho
dự án không được đáp ứng đầy đủ thì chắc chắn dự án không khả thi. Như
vậy, số tiền tiết kiệm nội địa không thể chuyển thành đầu tư. Trường hợp của
Việt Nam, vừa thiếu hụt cán cân tiết kiệm - đầu tư, vừa thâm hụt cán cân
thanh toán vãng lai, nên vốn ODA vào Việt Nam cùng một lúc phát huy hai
tác dụng.


10

+ Thứ ba: Các dự án sử dụng vốn vay ODA thường đòi hỏi áp dụng
công nghệ tiên tiến, có chất lượng cao và phương thức quản lý tiên tiến. Từ
năm 1993, khi vốn ODA bắt đầu vào Việt Nam đến nay, rất nhiều cán bộ Việt
Nam có điều kiện tiếp cận và hiểu biết các quy trình công nghệ mới trong các
lĩnh vực cầu, đường, điện..v.v... Các cán bộ quản lý dự án, các cán bộ công
chức của Chính phủ làm quen dần và ngày càng hiểu rõ hơn các quy tắc tổ
chức đấu thầu quốc tế, giải ngân và quản lý thực hiện dự án. Có thể nói các dự
án phát triển là các cơ sở thử nghiệm cho các ý tưởng hay khái niệm mới đối
với một số nước, chứng minh cho Chính phủ hoặc nhân dân của các nước đó

thấy được tác dụng của những công việc như thầu khoán các dịch vụ công
cộng, vận động các nhóm những người hưởng lợi từ dự án tham gia vào công
tác quản lý vv...
Dự án ODA cũng có thể giúp phá vỡ những quan điểm trói buộc khu
vực công cộng vào những cơ chế không hiệu quả. Chính phủ dù có tư tưởng
đổi mới cũng thấy khó thực hiện các ý tưởng mới, nhất là khi các ý tưởng đó
lại ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân. Ví dụ, khi dân cư đã quen với
việc sử dụng các dịch vụ công cộng (đường, điện, nước ...) không phải trả tiền
hoặc trả rất ít, nếu Chính phủ thay đổi chính sách yêu cầu người dân phải trả
tiền cho các dịch vụ công cộng này để có nguồn đầu tư cho các dự án mới thì
chắc chắn Chính phủ sẽ gặp phải sự phản đối từ phía dân cư và chính sách
mới sẽ khó được thông qua. Trong khi đó, các nhà tài trợ có thể tài trợ cho các
dự án đường, thuỷ lợi, nước sạch đồng thời yêu cầu nước tiếp nhận có chính
sách thu phí thích hợp để duy tu bảo dưỡng công trình, đảm bảo tính bền
vững của dự án. Việc thay đổi chính sách để đáp ứng yêu cầu của Nhà tài trợ
sẽ được nhân dân dễ dàng chấp thuận hơn như là điều kiện để tiếp nhận vốn
mới. Như vậy, dự án ODA đã góp phần đổi mới chính sách tại nước tiếp nhận
vốn và đổi mới nếp nghĩ của người dân được trực tiếp thụ hưởng.


11

1.1.3.2. Mặt trái của vốn ODA
+ Thứ nhất: Vốn ODA trong một số trường hợp đi liền với yếu tố chính
trị, hơn là các yếu tố hiệu quả kinh tế.
+ Thứ hai: Vay vốn ODA làm tăng gánh nợ quốc gia. Vốn vay ODA dù
vay với thời gian dài 30-40 năm vẫn không phải là vốn cho không, đến một
lúc nào đó nước tiếp nhận phải dùng tiền của mình để trả nợ. Hơn thế nữa rủi
ro tỷ giá là một trong những nguy cơ đáng quan tâm nhất. Thực tế nhiều năm
qua trên thế giới đã chỉ rõ: cái được coi là lợi ích của các khoản ODA cho vay

với lãi suất thấp và thời hạn dài ngày hôm nay có thể không bù lại được cho
những thiệt hại to lớn do sự thay đổi bất lợi về tỷ giá hối đoái trong tương lai.
Vì vậy, nếu như nước tiếp nhận không có chính sách quản lý nợ thận trọng sẽ
dẫn đến mất khả năng trả nợ. Bài học kinh nghiệm từ các nước Châu Phi cho
thấy từ những năm 1960 các nước này chủ yếu là vay vốn ODA và đến cuối
thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 các nước nghèo ở Châu Phi lâm vào khủng hoảng
mất khả năng trả nợ.
+ Thứ ba: Các khoản vay ODA gắn với chính sách hỗ trợ cho các
doanh nghiệp của nước tài trợ nên thông thường có sự ràng buộc của Nhà tài
trợ trong việc lựa chọn dự án, thuê tư vấn, chọn nhà thầu, nhà cung ứng hàng
hoá thiết bị cho dự án. Do đó, giá cả trong các hợp đồng sử dụng vốn ODA
thường cao hơn các hợp đồng cùng loại theo hình thức thương mại thông
thường. Cá biệt có trường hợp mức chênh lệch giá nói trên đến 30%. Hơn nữa
vốn ODA khi đã được chỉ định cho một số dự án nhất định thì việc thay đổi
quy mô dự án hoặc điều chuyển vốn từ dự án này sang dự án khác là rất khó
khăn hoặc không thể thực hiện được, đặt nước đi vay vào tình thế hoặc chấp
nhận dự án hoặc không được vay.
+ Thứ tư: Thủ tục để sử dụng được vốn vay ODA thường là phức tạp và
mất nhiều thời gian để dự án được chấp thuận. Vì vậy, các dự án chuẩn bị để


12

sử dụng vốn ODA thường phải thay đổi Nghiên cứu khả thi do thời gian từ
khi xây dựng Nghiên cứu khả thi ban đầu đến khi được Nhà tài trợ thẩm định
cách nhau khá xa. Ngoài ra, các chi phí khác như chi quản lý dự án, giải
phóng mặt bằng của các dự án ODA cũng cao hơn các dự án cùng loại sử
dụng vốn trong nước do Nhà tài trợ can thiệp trực tiếp vào các quy trình này.
Do nguồn vốn ODA có tính 2 mặt, nên nó đòi hỏi các nước sử dụng
phải tính toán, cân nhắc để đưa ra những quyết định đúng đắn khi lựa chọn sử

dụng nguồn vốn này. Đồng thời, phải có biện pháp quản lý và sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn này để tránh gây lãng phí và trở thành gánh nặng trả nợ cho
thế hệ sau. Vì vậy, việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA là hết sức cần
thiết đối với mỗi quốc gia, mỗi ngành có sử dụng nguồn vốn này.
1.2. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ODA
1.2.1. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA
1.2.1.1. Sự cần thiết
ODA là nguồn vốn quốc tế cần thiết cho các quốc gia đang phát triển.
Chính phủ sử dụng nguồn vốn này cho đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội và
đương nhiên phải có kế hoạch trả nợ trong tương lai. Vì vậy, nguồn vốn ODA
nhất thiết phải được quản lý và sử dụng có hiệu quả.
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới đầu những năm 1990, việc đánh
giá hiệu quả của các dự án viện trợ nước ngoài cho các nước nghèo ở Châu
Phi cho thấy hầu như tất cả các dự án đều có hiệu quả và đạt được các tiêu chí
đề ra ban đầu. Tuy nhiên, để kết luận tổng quát rằng các nước này đã sử dụng
vốn ODA một cách có hiệu quả thì hầu như tất cả các chuyên gia đều do dự,
vì với một lượng ODA khá lớn đổ vào các nước nghèo ở Châu Phi trong
những năm 1960 và 1970 mà kinh tế các nước này không tăng trưởng, tỷ lệ
đói nghèo không giảm…các chỉ số xã hội ít được cải thiện. Vì vậy, để đánh


13

giá hiệu quả sử dụng vốn ODA của một nước hoặc một ngành một dự án
trước hết ta phân loại các hình thức đánh giá hiệu quả từ đó có cách nhìn toàn
diện hơn, chuẩn xác hơn về các kết quả đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA.
1.2.1.2. Quan niệm về hiệu quả ODA
Theo ý hiểu của tác giả, quan niệm về hiệu quả ODA đối với mỗi nước,
mỗi đối tượng sử dụng không giống nhau. Tuy nhiên, hiệu quả ODA có thể
được hiểu là những lợi ích, kết quả về mặt kinh tế và xã hội mà nguồn vốn

ODA mang lại cho đối tượng sử dụng nó. Trong phạm vi luận văn này, xuất
phát từ chức năng của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là Bộ quản lý
nhà nước về các vấn đề xã hội có liên quan, nên tác giả xin chỉ đi sâu phân
tích hiệu quả về mặt xã hội của nguồn vốn ODA tại Bộ như: tạo việc làm, xóa
đói giảm nghèo….
1.2.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA
a. Các chỉ tiêu định tính:
Là các chỉ tiêu dùng để đánh giá hiệu quả nguồn vốn ODA dựa trên sự
phát triển của toàn bộ nền kinh tế, với sự thay đổi của các chỉ tiêu xã hội tổng
thể. Các chỉ tiêu chính dùng để đánh giá là:
- Tăng trưởng GDP;
- Tăng mức GDP trên đầu người;
- Các chỉ số về xã hội: Tỷ lệ giảm nghèo, tỷ lệ biết đọc, biết viết, tỷ lệ tăng
dân số, tuổi bình quân...;
- Khả năng hấp thụ và hiệu quả sử dụng vốn ODA theo ngành;
- Chuyển đổi cơ cấu kinh tế..
Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA theo ngành, chúng ta cũng dựa
trên sự phát triển của toàn ngành, các chỉ tiêu chính phản ánh sự tăng trưởng


14

của ngành trong kỳ đánh giá. Các chỉ tiêu đánh giá việc sử dụng có hiệu quả
nguồn ODA tại Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội:
- Số trung tâm giới thiệu việc làm được nâng cấp, mua sắm trang thiết
bị phục vụ sàn giao dịch việc làm
- Số hội chợ việc làm được tổ chức hàng năm
- Tỷ lệ % lao động trong các doanh nghiệp được ký kết hợp đồng
- Tỷ lệ % doanh nghiệp có nội quy lao động
- Tỷ lệ % doanh nghiệp có tổ chức công đoàn

- Số người lao động được phổ biến, tập huấn kiến thức về an toàn, vệ
sinh lao động
- Số trường nghề được đầu tư trang thiết bị và nâng cấp cơ sở vật chất
- Số chương trình, giáo trình được xây dựng mới
- Số người nghèo, lao động nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số được
dạy nghề để giảm nghèo tại đồng bằng sông Cửu Long
- Tỷ lệ % hộ nghèo
- Số hộ nghèo được vay vốn ưu đãi
- Số người nghèo được hướng dẫn cách làm ăn
- Số lớp tập huấn áp dụng kỹ thuật mới trong chăn nuôi, trồng trọt cho
người nghèo
- Số mô hình kinh tế được thực hiện nhằm giảm nghèo
- Số xã nghèo được đầu tư cơ sở hạ tầng
- Số cơ sở hạ tầng được đầu tư
- Số cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo ở địa phương được tập
huấn
- Tỷ lệ % trẻ em lang thang
- Số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn được hưởng trợ cấp
- Tỷ lệ % trẻ em bị xâm hại tình dục được chữa trị, tư vấn


15

b. Các chỉ tiêu định lượng: là các chỉ tiêu dùng để đánh giá khách quan
một chương trình/dự án đang thực hiện hoặc đã hoàn thành từ khâu thiết kế
(xây dựng dự án), tổ chức thực hiện (công tác lập kế hoạch, thực hiện đấu
thầu...) và những thành quả của dự án (kết quả giải ngân, tính bền vững của
dự án, số đối tượng hưởng lợi của dự án...).
Mục đích của việc đánh giá hiệu quả là nhằm xác định tính phù hợp,
việc hoàn thành các mục tiêu, hiệu quả phát triển, tác động và tính bền vững

của dự án. Việc đánh giá dự án nhằm cung cấp những thông tin hữu ích và
đáng tin cậy, giúp cho Chính phủ nước tiếp nhận tài trợ và nhà tài trợ nắm
được các thông tin quan trọng đầy đủ để có những quyết sách kịp thời và đưa
ra những quyết định chính xác đối với các dự án đang thực hiện và rút ra
những bài học bổ ích đối với các dự án sẽ thực hiện trong tương lai.
Việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA ở tầm vi mô tức là việc đánh
giá các kết quả thực hiện của dự án có đạt được theo các mục tiêu ban đầu đã
đề ra/ký kết trong Hiệp định giữa Chính phủ và nhà tài trợ hay không. Các
tiêu chí để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ODA đối với một chương trình/dự
án như được định nghĩa trong "Các nguyên tắc trong đánh giá nguồn hỗ trợ
phát triển của Ủy ban hỗ trợ phát triển OECD”, bao gồm các tiêu chí:
Một là: Là mức độ phù hợp của việc đầu tư bằng nguồn vốn ODA đối
với những ưu tiên và chính sách của nhóm mục tiêu, bên tiếp nhận tài trợ và nhà tài
trợ.
Việc đánh giá tính phù hợp sẽ cho thấy chương trình/dự án có phù hợp khi
được triển khai tại khu vực/vùng đó hay không, có đáp ứng được nhu cầu của các
cơ quan thụ hưởng hay không, có đúng mục tiêu đặt ra hay không, từ đó có những
điều chỉnh cần thiết để đảm bảo dự án được thực hiện theo đúng mục tiêu ban đầu
và đáp ứng được nhu cầu đề ra.


16

Việc đánh giá tính phù hợp của dự án được thực hiện sau khi dự án được
triển khai, và công tác này thường được thực hiện vào giai đoạn đầu và giữa kỳ của
chương trình/dự án.
Hai là, tính hiệu quả: là thước đo mức độ đạt được các mục tiêu đề ra của
một chương trình/dự án.
Đánh giá tính hiệu quả của dự án nhằm xem xét việc dự án có đạt được mục
tiêu như trong thiết kế/văn kiện ban đầu của dự án không? Việc đánh giá này được

thực hiện trên cơ sở so sánh kết quả theo thiết kế/văn kiện với kết quả đạt được trên
thực tế. Từ đó đưa ra những bài học kinh nghiệm và những đề xuất tiếp theo (nếu
có).
Việc đánh giá này được được thực hiện thông qua công tác đánh giá giữa kỳ
và cuối kỳ của dự án, trong đó việc đánh giá cuối kỳ sẽ là cơ sở để đánh giá hiệu
quả toàn diện của dự án.
Ba là, tính hiệu suất: đo lường sản phẩm đầu ra – định lượng và định tính –
liên quan đến các yếu tố đầu vào, điều này có nghĩa là chương trình/dự án sử dụng
ít nguồn lực nhất có thể được để đạt được kết quả mong đợi. Hay nói cách khác là
thông qua việc so sánh việc lựa chọn các yếu tố đầu vào nhưng vẫn đạt được kết
quả đầu ra như mong đợi, đề thấy được quy trình thực hiện chương trình/dự án đã là
hợp lý nhất chưa.
Đánh giá tính hiệu suất sẽ cho thấy dự án thực hiện đạt được kết quả như
mục tiêu đề ra trên cơ sở tiết kiệm được nguồn lực đầu vào như thế nào? Từ đó rút
ra được những bài học kinh nghiệm và những sự lựa chọn thay thế cần thiết khi
thực hiện những dự án tiếp theo trên cơ sở sử dụng và kết hợp các yếu tố đầu vào
hợp lý nhất.
Hiệu suất của dự án thường được thực hiện thông qua công tác đánh giá
giữa kỳ và cuối kỳ của dự án và cùng với việc đánh giá tính hiệu quả của dự án.


17

Bốn là, tính tác động: là những chuyển biến tích cực và tiêu cực do sự can
thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp, có chủ ý hoặc không chủ ý, của việc thực hiện chương
trình/dự án tạo ra. Nó cho thấy những tác động và ảnh hưởng đối với kinh tế, xã hội,
môi trường và các chỉ số về phát triển khác do việc thực hiện dự án/chương trình
tạo ra.
Tính tác động của dự án không thể đo lường ngay khi dự án kết thúc, do đó
người ta thường đánh giá nó sau khi dự án đã kết thúc từ 3 – 5 năm, khi đó mới có

thể thấy được dự án có những tác động gì đến tình hình kinh tế, xã hội và môi
trường tại khu vực thực hiện dự án và xung quanh.
Năm là, tính bền vững: xem xét những lợi ích của việc thực hiện chương
trình/dự án sẽ được duy trì sau khi kết thúc nguồn tài trợ như thế nào cả về mặt tài
chính và môi trường.
Xem xét tính bền vững của dự án chính là xem xét những hoạt động/hiệu
quả/tác động của dự án có tiếp tục được duy trì khi dự án không còn tồn tại hay
không? Các bên tham gia dự án, chính phủ hay các tổ chức khác có tiếp tục duy trì
các hoạt động của dự án một cách độc lập hay không?
Hoạt động này được thực hiện khi dự án kết thúc và xem xét cùng với công
tác đánh giá tác động của dự án.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn ODA
Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn ODA có thể được chia
thành hai nhóm chính như sau:
1.2.2.1. Các nhân tố khách quan
a. Tình hình kinh tế, chính trị ở quốc gia tài trợ
Các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, tổng thu nhập quốc dân, lạm phát
thất nghiệp hay những thay đổi chính trị có tác động đến các hoạt động hỗ trợ
phát triển cho các quốc gia khác. Chẳng hạn đối với các quốc gia cung cấp


18

ODA do nền kinh tế gặp khủng hoảng, tỷ lệ thất nghiệp tăng hay thay đổi về
thể chế…có thể làm cho mức cam kết ODA hàng năm của quốc gia này giảm.
Ngoài ra, có thể có sự thay đổi về thế chế chính trị ở quốc gia tài trợ, từ đó
dẫn đến việc thay đổi các quy định, thủ tục giải ngân... cũng làm ảnh hưởng
đến hiệu quả thực hiện dự án tại quốc gia nhận viện trợ.
b. Các chính sách, qui chế của nhà tài trợ
Nhìn chung, mỗi nhà tài trợ đều có chính sách và thủ tục riêng đòi hỏi

các quốc gia tiếp nhận viện trợ phải tuân thủ khi thực hiện các chương trình,
dự án sử dụng vốn ODA của họ. Các thủ tục này khác nhau cơ bản ở một số
lĩnh vực như xây dựng báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu
khả thi, các thủ tục về đấu thầu, các thủ tục về giải ngân, các định mức, thủ
tục rút vốn hay chế độ báo cáo định kỳ… Các thủ tục này khiến cho các quốc
gia tiếp nhận viện trợ lúng túng trong quá trình thực hiện dự án. Tiến độ các
chương trình dự án thường bị đình trệ, kéo dài hơn so với dự kiến, giảm hiệu
quả đầu tư. Vì vậy, việc hiểu biết và thực hiện đúng các chủ trương hướng dẫn
và qui định của từng nhà tài trợ là một điều vô cùng cần thiết đối với các quốc
gia tiếp nhận viện trợ.
c. Môi trường cạnh tranh
Thời gian gần đây, có thể thấy tổng lượng ODA trên Thế giới đang có
chiều hướng suy giảm trong khi đó nhu cầu ODA của các nước đang phát
triển tăng liên tục, nhất là sau các cuộc khủng hoảng kinh tế và các cuộc xung
đột vũ trang khu vực. Hiện đang diễn ra cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các
nước đang phát triển để tranh thủ nguồn vốn ODA. Vì vậy, để thu hút được
những nguồn vốn ODA trong thời gian tới đòi hỏi các quốc gia tiếp nhận viện
trợ phải không ngừng nâng cao hơn nữa trình độ kinh nghiệm và năng lực của
họ trong công tác quản lý, điều phối và thực hiện các chương trình, dự án sử
dụng nguồn vốn này.


19

1.2.2.2. Các nhân tố chủ quan
a. Tình hình kinh tế, chính trị ở quốc gia tiếp nhận viện trợ
Thông thường các nhà tài trợ thường cấp vốn cho các nước có mối quan
hệ chính trị tốt và sử dụng vốn ODA có hiệu quả. Vì vậy, các nhân tố kinh tế,
chính trị của nước nhận tài trợ có ảnh hưởng lớn đến tình hình thu hút và sử
dụng vốn ODA.

Trong môi trường này, các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, tổng thu
nhập quốc dân, lạm phát, thất nghiệp, cơ chế quản lý kinh tế, sự ổn định
chính trị… sẽ có những tác động trực tiếp đến quá trình thu hút và sử dụng
vốn ODA. Ví dụ, ở các quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, 1% GDP
viện trợ dẫn đến mức tăng trưởng bền vững tương đương với 0,5 % GDP.
Vì vậy, ổn định về mặt chính trị, tăng trưởng về kinh tế là một trong những
yếu tố đặc biệt quan trọng để vận động và thu hút ODA cho đất nước.
b. Xây dựng dự án
Việc xây dựng dự án ban đầu đóng vai trò rất quan trọng. Các chương
trình/dự án được xây dựng phải nằm trong khuôn khổ, mục tiêu chung của
Chính phủ, xuất phát từ nhu cầu thực tế của các vấn đề kinh tế - xã hội. Dự án
được xây dựng bám sát với tình hình thực tế sẽ là nhân tố quan trọng dẫn đến
sự thành công khi thực hiện sau này.
c. Qui trình và thủ tục của nước tiếp nhận viện trợ
Đây là nhân tố quan trọng nhất tác động trực tiếp tới hiệu quả sử dụng
vốn ODA. Ở những quốc gia có qui trình và thủ tục thông thoáng, thuận lợi
cho công tác thực hiện các chương trình, dự án ODA thì ở nơi đó các chương
trình, dự án ODA sẽ triển khai thuận lợi, đúng tiến độ và phát huy hiệu quả tốt
qua đó sẽ làm tăng khả năng thu hút thêm nguồn vốn này.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã làm rất tốt vấn đề này. Chính phủ đã
có những động thái đáng ghi nhận như việc sửa đổi một số quy trình, thủ tục,


20

quy định để đảm bảo thủ tục trong nước hài hòa với các quy định của nhà tài
trợ thông qua hội thảo về hài hòa thủ tục diễn ra tại Hà Nội qua các năm.
d. Năng lực tài chính của các nước tiếp nhận viện trợ ODA
Đối với các chương trình/dự án ODA để tiếp nhận 1 USD vốn ODA thì
các quốc gia tiếp nhận phải có ít nhất 15% vốn đảm bảo trong nước (khoảng

0.15 USD) làm vốn đối ứng. Ngoài ra, cần một lượng vốn đầu tư từ ngân sách
cho công tác chuẩn bị các chương trình/dự án cũng không nhỏ. Bên cạnh đó,
khi ký kết các hiệp định vay vốn từ nhà tài trợ, các nước tiếp nhận viện trợ
cũng cần tính đến khả năng trả nợ trong tương lai vì nguồn vốn ODA không
phải là của ”trời cho”, hiện tại chưa phải trả nợ, nhưng trong tương lai (30 –
40 năm tới), các nước này phải thanh toán các khoản nợ đến hạn của mình,
trong đó có cả lãi vay. Những ví dụ thực tiễn về việc mất khả năng trả nợ của
các nước Châu Phi đã chỉ rõ về sự cần thiết các nước nhận viện trợ phải có
một tiềm lực tài chính nhất định.
e. Năng lực và đạo đức cán bộ quản lý và sử dụng vốn ODA
Năng lực và đạo đức của các cán bộ thực hiện chương trình, dự án ODA
cũng là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn ODA.
Các cán bộ này cần phải có năng lực về đàm phán, ký kết dự án, triển khai
thực hiện quản lý vốn, có kiến thức chuyên môn sâu về pháp luật, kinh tế, kỹ
thuật, ngoại ngữ.... Bởi vì trên thực tế, các hoạt động thực hiện dự án vừa phải
tuân thủ các qui định, luật pháp của Chính phủ Việt Nam vừa phải tuân thủ
các qui định, hướng dẫn của nhà tài trợ.
Ngoài những năng lực về chuyên môn kể trên, các cán bộ quản lý dự án
nhất thiết phải có những phẩm chất đạo đức tốt. Thật vậy, hiện nay chịu ảnh
hưởng của cơ chế quản lý cũ, nhiều người còn có tâm lý bao cấp, coi ODA là
thứ cho không, Chính phủ vay, Chính phủ trả nợ. Do vậy, thiếu trách nhiệm
trong việc quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này. Thực chất ODA không


21

phải là nguồn vốn dễ kiếm và không phải là cho không. Cả ODA không hoàn
lại và ODA vốn vay đều đòi hỏi trách nhiệm rất cao của Chính phủ nước tiếp
nhận trước dư luận trong nước cũng như dư luận nước tài trợ.
f. Sự cam kết mạnh mẽ, chỉ đạo sát sao và sự tham gia rộng rãi của các

bên liên quan
Thật vậy, với sự tham gia rộng khắp của các ngành, các cấp và sự chỉ
đạo sao đối với tất cả các giai đoạn của dự án sẽ giúp cho dự án đi đúng
hướng, đạt được kế hoạch đề ra và có tính bền vững khi kết thúc. Chúng ta có
thể thấy rõ điều này ở Việt Nam, với cơ chế quản lý theo chiều dọc và sự tuân
thủ các mệnh lệnh hành chính từ cấp trên, thì chỉ khi nào thật sự các cấp, bộ
ngành tham gia dự án cùng vào cuộc thì khi đó dự án mới có thể triển khai
đúng tiến độ, đúng đối tượng và có hiệu quả.
Hiệu quả sử dụng vốn ODA cũng sẽ tăng lên khi có sự tham gia tích
cực của các đối tượng thụ hưởng ở các cấp vào quá trình chuẩn bị, tổ chức
thực hiện và theo dõi, giám sát. Sự tham gia của các đối tượng thụ hưởng vào
các chương trình và dự án cũng sẽ giúp đảm bảo chọn lựa được các giải pháp
đúng, các nguồn lực được sử dụng công khai, minh bạch, chống thất thoát,
lãng phí, tham nhũng và đáp ứng trách nhiệm giải trình cũng như duy trì được
lâu dài các lợi ích mà ODA mang lại.
g. Theo dõi, kiểm tra và giám sát việc thực hiện dự án
Công tác này đóng vai trò rất quan trọng quyết định đến sự thành công
của dự án. Việc theo dõi, kiểm tra và giám sát dự án còn giúp thấy được
những tồn tại, khó khăn cần giải quyết để từ đó có những điều chỉnh kịp thời,
cả điều chỉnh về cách thức thực hiện dự án cũng như một số nội dung trong
hiệp định tài chính đã ký kết (nếu thấy có những điểm bất hợp lý trong văn
kiện của dự án so với thực tế), phục vụ việc ra quyết định của các cấp quản lý,
nhằm đảm bảo chương trình/dự án được thực hiện đúng mục tiêu, đúng tiến


22

độ, đảm bảo chất lượng và trong khuôn khổ các nguồn lực đã được xác định.
Ngoài ra, nó còn giúp cho các cấp quản lý rút ra những bài học kinh nghiệm
để áp dụng cho giai đoạn thực hiện tiếp theo và áp dụng cho các chương trình,

dự án khác.
1.3. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ODA Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1.3.1. Hiệu quả sử dụng vốn ODA ở một số nước trên thế giới
a. Kinh nghiệm của Trung Quốc: Quản lý tập trung, thực hiện phi tập
trung
Năm 1980 đến cuối 2005, tổng số vốn ODA WB cam kết với Trung
Quốc là 39 tỷ USD (người Trung Quốc gọi là “vay vốn Chính phủ nước
ngoài”). Vốn ODA đóng một vai trò rất tích cực trong việc thúc đẩy cải cách
và phát triển ở Trung Quốc với 263 dự án được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, môi trường, và ở khắp các địa phương.
Tóm tắt nguyên nhân thành công của việc sử dụng ODA ở Trung Quốc
có mấy điểm: Có chiến lược hợp tác tốt; Xây dựng tốt các dự án; Cơ chế điều
phối và thực hiện tốt; Cơ chế theo dõi và giám sát chặt chẽ.
Trung Quốc đặc biệt đề cao vai trò của việc quản lý và giám sát. Hai cơ
quan Trung ương quản lý ODA là Bộ Tài chính (MoF) và Ủy ban cải cách và
phát triển quốc gia (NDRC). MoF làm nhiệm vụ “đi kiếm tiền”, đồng thời là
cơ quan giám sát việc sử dụng vốn. MoF yêu cầu các Sở Tài chính địa
phương thực hiện kiểm tra thường xuyên hoạt động của các dự án, phối hợp
với WB đánh giá từng dự án.
Các Bộ ngành chủ quản và địa phương có vai trò quan trọng trong thực
hiện và phối hợp với MoF giám sát việc sử dụng vốn.


23

Việc trả vốn ODA ở Trung Quốc theo cách “ai hưởng lợi, người đó trả
nợ”. Quy định này buộc người sử dụng phải tìm giải pháp sản sinh lợi nhuận
và lo bảo vệ nguồn vốn.
b. Kinh nghiệm của Ba Lan: Vốn vay không hoàn lại vẫn phải giám sát

chặt
Ba Lan quan niệm để sử dụng vốn ODA đạt hiệu quả, trước hết phải tập
trung đầu tư vào nguồn nhân lực và năng lực thể chế. Chính phủ Ba Lan cho
rằng, giao việc thực hiện dự án ODA cho các bộ phận hành chính là không
thích hợp.
Cơ sở luật pháp rõ ràng và chính xác trong toàn bộ quá trình là điều
kiện để kiểm soát và thực hiện thành công các dự án ODA. Ba Lan đề cao
hoạt động phối hợp với đối tác viện trợ.
Ở Ba Lan, các nguồn hỗ trợ được coi là “quỹ tài chính công”. Việc mua
sắm tài sản công phải tuân theo Luật mua sắm công và theo những quy tắc kế
toán chặt chẽ. Quá trình giải ngân khá phức tạp nhằm kiểm soát đồng tiền
được sử dụng đúng mục đích. Trong đó, nhà tài trợ có thể yêu cầu nước nhận
viện trợ thiết lập hoặc sửa đổi hệ thống thể chế và hệ thống luật pháp. Cơ
quan chịu trách nhiệm gồm có các Bộ, một số cơ quan Chính phủ, trong đó
Bộ Phát triển đóng vai trò chỉ đạo.
Ba Lan đặc biệt chú trọng công tác kiểm soát và kiểm toán. Công tác
kiểm toán tập trung vào kiểm toán các hệ thống quản lý. Trong đó chịu trách
nhiệm gồm có kiểm toán nội bộ trong mỗi cơ quan, các công ty kiểm toán
nước ngoài được thuê, và các dịch vụ kiểm toán của Ủy ban châu Âu. Khi
công tác kiểm toán phát hiện có những sai sót, sẽ thông báo các điểm không
hợp lệ cho tất cả các cơ quan.


24

Công tác kiểm soát tập trung vào kiểm tra tình hình hợp pháp và tính
hợp thức của các giao dịch, kiểm tra hàng năm và chứng nhận các khoản chi
tiêu, kiểm tra cuối kỳ, kiểm tra bất thường.
Chính phủ Ba Lan cho rằng, kiểm tra và kiểm toán thường xuyên
không phải để cản trở mà là để thúc đẩy quá trình dự án.

c. Kinh nghiệm của Malaysia: Phối hợp chặt chẽ với nhà tài trợ cùng
kiểm tra đánh giá
Ở Malaysia, vốn ODA được quản lý tập trung vào một đầu mối là Văn
phòng Kinh tế Kế hoạch. Vốn ODA được đất nước này dành cho thực hiện
các dự án xóa đói giảm nghèo, nâng cao năng lực cho người dân.
Văn phòng Kinh tế Kế hoạch Malaysia là cơ quan lập kế hoạch ở cấp
Trung ương, chịu trách nhiệm phê duyệt chương trình dự án, và quyết định
phân bổ ngân sách phục vụ mục tiêu phát triển quốc gia.
Malaysia đánh giá cao hỗ trợ kỹ thuật từ các nhà tài trợ. Mục đích lớn
nhất của Malaysia là nhận hỗ trợ kỹ thuật để tăng cường năng lực con người
thông qua các lớp đào tạo.
Malaysia công nhận rằng họ chưa có phương pháp giám sát chuẩn mực.
Song chính vì vậy mà Chính phủ rất chú trọng vào công tác theo dõi đánh giá.
Kế hoạch theo dõi và đánh giá được xây dựng từ lập kế hoạch dự án và trong
lúc triển khai.
Cũng tương tự như Ba Lan, Malaysia đặc biệt chú trọng đơn vị tài trợ
trong hoạt động kiểm tra, giám sát. Phương pháp đánh giá của đất nước này là
khuyến khích phối hợp đánh giá giữa nhà tài trợ và nước nhận viện trợ, bằng
cách hài hòa hệ thống đánh giá của hai phía. Nội dung đánh giá tập trung vào
hiệu quả của dự án so với chính sách và chiến lược, nâng cao công tác thực
hiện và chú trọng vào kết quả.


25

Hoạt động theo dõi đánh giá được tiến hành thường xuyên. Cũng quan
niệm như Ba Lan, Malaysia cho rằng công tác theo dõi đánh giá không hề làm
cản trở dự án, trái lại sẽ giúp nâng cao tính minh bạch, và đặc biệt là giảm
lãng phí.
d. Kinh nghiệm Mexico

Ngày 12/8/1982 Mexico công bố với cộng đồng tài chính quốc tế là
nước này đã sử dụng gần hết nguồn dự trữ ngoại tệ quốc gia và không còn khả
năng thanh toán các khoản nợ nước ngoài đến hạn nữa. Tại thời điểm đó nợ
nước ngoài của Mexico lên đến 80 tỷ USD, làm cho Mexico trở thành nước
đang phát triển có số nợ lớn thứ hai (sau Brazil) trên thế giới.
Nguyên nhân đưa Mexico và một số nước đến khủng hoảng nợ trong
những năm 80 có nhiều, bao gồm các nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Các nguyên nhân khách quan bao gồm sự biến động của lãi suất quốc tế trên
thị trường quốc tế, lãi suất LIBOR năm 1978 khoảng 9%/năm tăng lên
12%/năm trong năm 1979 và 16%/năm trong năm 1981, trong khi đó giá hàng
nông sản xuất khẩu chủ lực của các nước đang phát triển giảm đột ngột, cụ
thể là mức giá năm 1981 giảm 14,6% so với năm 1980, năm 1982 giảm 12%
so với năm 1981. Lãi suất tăng đột ngột làm cho nghĩa vụ trả nợ của các nước
đang phát triển tăng, ngược lại giá hàng xuất khẩu giảm làm cho nguồn thu
ngoại tệ giảm không đáp ứng được nghĩa vụ trả nợ. Ngoài ra, nguyên nhân
chủ quan nằm trong chính sách vay và sử dụng vốn của Mexico trực tiếp làm
cho Mexico rơi vào tình trạng khủng hoảng.
Trong 3 thập kỷ 40, 50, 60 kinh tế Mexico đạt mức tăng trưởng khá.
Đến những năm 70 và đầu những năm 1980 Chính phủ khuyến khích phát
triển công nghiệp đặc biệt là các ngành công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu.
Nguồn vốn để tài trợ cho chính sách công nghiệp này là sử dụng nguồn thu từ


×