Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Bảo vệ quyền lời người tiêu dùng theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.33 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY

ĐẶNG THÁI DƢƠNG

HÀ NỘI - 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
ĐẶNG THÁI DƢƠNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ DUNG

HÀ NỘI - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với đề tài: “Bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
theo pháp luật Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Dung. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã hoàn thành tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của trường Viện
Đại học Mở Hà Nội.
Vậy, tôi viết lời cam đoan này đề nghị Viện Đại học Mở Hà Nội xem xét để
tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngƣời cam đoan

Đặng Thái Dƣơng


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự hỗ trợ, hướng dẫn, giúp đỡ
của nhiều cá nhân tổ chức.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô đã tham gia giảng dạy chương trình đào
tạo thạc sĩ ngành Luật Kinh tế tại Viện Đại học Mở Hà Nội.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Dung đã tận tình giảng
dạy, hỗ trợ và định hướng nghiên cứu trong suốt quá trình tôi thực hiện đề tài luận
văn thạc sỹ này.
Hà Nội, ngày … tháng 10 năm 2016
Học viên

Đặng Thái Dƣơng



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN
LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG ...................................................................................... 6
1.1.

Khái quát chung về quyền lợi ngƣời tiêu dùng........................................... 6

1.1.1 Khái niệm người tiêu dùng .............................................................................. 6
1.1.2. Các quyền lợi cơ bản của người tiêu dùng ...................................................... 7
1.1.3. Vị trí, vai trò của người tiêu dùng .................................................................... 8
1.2.

Sơ lƣợc lịch sử hình thành, phát triển của pháp luật bảo vệ ngƣời
tiêu dùng tại Việt Nam .................................................................................. 8

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng .............................. 8
1.2.2. Nội dung của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng............................ 10
1.2.3. Giai đoạn từ trước năm 1999 ......................................................................... 12
1.2.4. Giai đoạn từ năm 1999 đến năm 2010........................................................... 13
1.2.5. Từ năm 2010 đến nay .................................................................................... 15
1.3.

Kinh nghiệm pháp luật về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùngcủa một
số nƣớc trên thế giới .................................................................................... 15


1.3.1. Kinh nghiệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Hoa Kỳ ........ 15
1.3.2. Kinh nghiệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Pháp ............ 17
1.3.3. Kinh nghiệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Nhật Bản ..... 18
1.3.4. Kinh nghiệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Trung Quốc . 19
1.3.5. Kinh nghiệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Thái Lan ...... 20
Tiểu kết Chƣơng 1 .................................................................................................. 21
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƢỜI TIÊU DÙNG TẠI VIỆT NAM ............................................................... 22
2.1.

Quy định về quyền và nghĩa vụ của ngƣời tiêu dùng ............................... 22


2.1.1. Quyền của người tiêu dùng ........................................................................... 22
2.2.

Cơ chế giải quyết tranh chấp giữa ngƣời tiêu dùng với tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ........................................................... 29

2.2.1. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng ................................ 29
2.2.2. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải .........................................30
2.2.3. Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.........................................32
2.2.4. Phương thức giải quyết tranh chấp tại Tòa án ...............................................33
2.3

Quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nƣớc, tổ chức xã
hội về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng .................................................... 34

2.3.1. Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước .................................................. 34
2.3.2. Trách nhiệm của các tổ chức xã hội về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ... 39

2.4.

Quy định về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ đối với ngƣời tiêu dùng theo quy định của Luật Bảo vệ quyền
lợi ngƣời tiêu dùng Việt Nam ..................................................................... 41

2.4.1. Trách nhiệm cung cấp thông tin cho người tiêu dùng ...................................42
2.4.2. Trách nhiệm cung cấp bằng chứng giao dịch cho người tiêu dùng ...............45
2.4.3. Trách nhiệm của thương nhân trong việc thực hiện hợp đồng theo mẫu và
điều kiện giao dịch chung ..............................................................................46
2.4.4. Trách nhiệm bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện....................................49
2.4.5. Trách nhiệm thu hồi hàng hóa có khuyết tật ................................................. 51
2.4.6. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra ............. 53
2.5.

Chế tài xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng ... 57

2.5.1. Chế tài hình sự ............................................................................................... 57
2.5.2. Chế tài dân sự ................................................................................................ 59
2.5.3. Chế tài hành chính ......................................................................................... 60
2.6.

Một số đánh giá, nhận xét về pháp luật bảo vệ quyền lợi của ngƣời
tiêu dùng ở nƣớc ta hiện nay ...................................................................... 62

Tiểu kết Chƣơng 2 .................................................................................................. 65


Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...................... 66

3.1.

Định hƣớng hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng ..... 66

3.2.

Một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
quyền lợi ngƣời tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay ....................................... 68

Tiểu kết Chƣơng 3 .................................................................................................. 74
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 76


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Biểu đồ 2.1.

Các phương thức tuyên truyền giúp người tiêu dùng biết về Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ................................................... 23

Biểu đồ 2.2

Tình hình xâm phạm quyên lợi người tiêu dùng phân theo hành
vi vi phạm ........................................................................................ 24

Biểu đồ 2.3.

Mức độ hiểu biết về trách nhiệm của người tiêu dùng khi mua,
sử dụng hàng hóa, dịch vụ ............................................................... 28


Biểu đồ 2.4

Tỷ lệ người tiêu dùng lựa chọn đâu là các cơ quan quản lý nhà
nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ...................................... 38

Biểu đồ 2.5

Tỷ lệ người tiêu dùng chọn đâu là các Tổ chức xã hội tham gia
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng .................................................... 41


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 17/11/2010 và có hiệu lực từ ngày
01/7/2011 trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
1999. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ra đời đã tạo lập hành lang pháp lý cần
thiết cho việc bảo vệ người tiêu dùng, xác lập được sự ổn định trong quan hệ giữa
người tiêu dùng với các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Đồng thời, Luật Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng cũng đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong hoạt động bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam.
Tuy nhiên, sau hơn 05 năm thi hành, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
đã bộc lộ một số bất cập. Quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn
hạn chế chưa bắt kịp với sự thay đổi thực tiễn trong lĩnh vực thương mại, một số
quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn mang tính tuyên ngôn, khó thực
hiện; quy định của pháp luật hiện hành chưa xây dựng được một cơ chế giải quyết
các khiếu nại, tranh chấp hữu hiệu để người tiêu dùng có thể tự bảo vệ mình; các
quy định về thẩm quyền xử lý vi phạm chưa được phân định rõ ràng, cụ thể; có
nhiều vấn đề phát sinh trong thực tế mà chưa có quy định pháp luật điều chỉnh hay
nhiều quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa đồng bộ, thống

nhất với các quy định pháp luật khác liên quan v.v…
Trong những năm gần đây, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, thực trạng công tác bảo vệ
người tiêu dùng tại Việt Nam cho thấy quyền lợi của người tiêu dùng ngày càng bị
xâm hại nghiêm trọng. Các vụ vi phạm quyền lợi người tiêu dùng có xu hướng ngày
càng gia tăng cả về số lượng và mức độ vì nhu cầu lợi nhuận, đạo đức kinh doanh
suy đồi, không ít nhà cung cấp đã lạm dụng ưu thế của mình để khai thác, bóc lột,
lừa dối người tiêu dùng bằng rất nhiều hình thức: sản phẩm không đúng chất lượng,
không đủ số lượng, quảng cáo gian dối,...và hơn thế nữa, tính mạng, sức khỏe người
tiêu dùng đứng trước sự đe dọa bởi thực phẩm độc hại, sản phẩm không an toàn.

1


Chỉ tính riêng năm 2015 và những tháng đầu năm 2016 vừa qua, hàng loạt các vụ vi
phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích của người tiêu dùngđược phát hiện như: Vụ
nước uống đóng chai Number one có ruồi, vụ 40.000 thùng nước giải khát C2 có
chì, không đảm bảo chất lượng được bán ra thị trường hay việc sử dụng hóa chất
biến thịt lợn sề thành thịt bò, bơm tạp chất vào tôm sú để tăng trọng lượng, các loại
trái cây bị tẩm hóa chất độc hại, các loại dược phẩm, thuốc lá lậu, hóa mỹ phẩm
đang bị làm giả và được bày bán tràn lan v.v…Từ những vụ việc trên cho thấy, vấn
đề chống gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng để bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng đang là nỗi nhức nhối cho các cơ quan quản lý nhà nước
và toàn xã hội cần sớm có biện pháp xử lý.
Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
bên cạnh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Quốc hội cũng đã ban hành Luật
Thương mại, Luật Cạnh tranh, các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Tuy nhiên, trong quá trình thực thi Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 và
các văn bản hướng dẫn thi hành cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định cần
được sửa đổi, bổ sung. Thực trạng này đặt ra yêu cầu khách quan cần hoàn thiện cơ

chế pháp lý để từ đó có những giải pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trên cơ
sở đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật
Việt Nam hiện nay” để làm luận văn thạc sỹ Luật Kinh tế. Việc nghiên cứu đề tài
này tạo ra cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc hoàn thiện pháp luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong thời kỳ hội nhập hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tại Việt Nam hiện nay, những quy định pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng
đã giúp các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình trong lĩnh
vực thương mại nói chung và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói riêng. Pháp luật
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tuy còn một là lĩnh vực mới mẻ, nhưng thực
tiễn đã nảy sinh nhiều tồn tại, bất cập. Chính vì thế, có khá nhiều công trình nghiên
cứu có giá trị, đáng chú ý là các công trình như: “Giáo trình Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng” của trường Đại học Luật Hà Nội;“Sổ tay Công tác Bảo vệ Người

2


Tiêu dùng” do Cục Quản Lý Cạnh Tranh - Bộ Thương Mại biên soạn năm 2006; đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ
người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” do Viện Khoa học pháp lý
– Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Về Luận án Tiến sỹ, Thạc sỹ Luật học có liên quan
đến đề tài nghiên cứu như: Luận án Tiến sỹ Luật học “Hoàn thiện pháp luật bảovệ
quyền lợi người tiêu dùng ở việt nam hiện nay”của tác giả Nguyễn Thị Thư (2013);
Luận văn Thạc sỹ Luật học “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
giao dịch điện tử ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Quyên (2012) ...
Ngoài ra còn một số bài viết trên các tạp chí khoa học như: “Hoàn thiện pháp
luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đinh
Thị Hồng Trang (Tạp chí Dân chủ & Pháp luật số tháng 12/2014) hay bài viết
“Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ
người tiêu dùng ở Việt Nam”của tác giả Trương Hồng Quang (Tạp chí Luật học số

tháng 12/2012) v.v...
Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, mục đích nghiên cứu khác nhau, các công
trình khoa học,bài viết nói trên đã đề cập đến vấn đề pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng một cách đa chiều. Tuy nhiên, với mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
của đề tài “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện nay”,
tác giả coi đây là những tài liệu tham khảo quan trọng để giúp tác giả nghiên cứu,
phân tích sâu về sự điều chỉnh của pháp luật, những bất cập trong quá trình thực thi
pháp luật để từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùngở nước ta hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề chung của
pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; đánh giá các quy định
hiện hành của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở nước ta để rút ra
những ưu điểm và những còn hạn chế của pháp luật Việt Nam; đánh giá thực trạng
áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam và những
bất cập trong quá trình áp dụng. Đồng thời, trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng

3


của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở nước ta hiện nay, tác giả đưa ra
một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng được quy định trong hệ thống pháp luật và tình hình thực
tiễn thực hiện các quy định này ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực trạng quy
định pháp luật và việc áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở
Việt Nam từ khi Quốc hội ban hành Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm

2010 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, Luận văn chủ yếu dựa trên các phương
pháp nghiên cứu sau:
Ở chương 1, Luận văn được thực hiện trên cơ sở nguyên lý của chủ nghĩa Mác
- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm lập pháp của Đảng, Nhà nước và các
chủ trương chính sách, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước về kinh tế thị trường để đưa
ra những khái niệm, đặc điểm của vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Ở chương 2, Luận văn sử dụng chủ yếu là phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh, khảo sát thực tiễn, thu thập số liệu liên quan đến thực tiễn triển khai thi
hành pháp luật bảo vệ người tiêu dùng.
Ở chương 3, Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp để đưa ra các kiến nghị
nhằm hoàn thiện vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ
thống về vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, những quy định còn bất cập,
chưa phù hợp tồn tại trong quy định của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, từ đó kiến nghị những sửa đổi
hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

4


Ý nghĩa về mặt thực tiễn: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật hiện
hành về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, với kết quả phân tích đánh giá quy định
của pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng, Luận văn góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu về pháp luật bảo vệ quyền lợi của

người tiêu dùng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam hiện nay

5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT
BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
1.1. Khái quát chung về quyền lợi ngƣời tiêu dùng
1.1.1 Khái niệm người tiêu dùng
Khái niệm người tiêu dùng được sử dụng trong nhiều văn cảnh khác nhau vì
thế cách dùng và tầm quan trọng của khái niệm này cũng khác nhau. Quan niệm về
người tiêu dùng rộng hay hẹp sẽ dẫn tới việc xác định cơ chế pháp lý về bảo vệ
người tiêu dùng rộng hay hẹp. Ngày nay, trên thế giới có rất nhiều khái niệm khác
nhau về người tiêu dùng. Khái niệm “người tiêu dùng” được hiểu rất khác nhau tại
các quốc gia khác nhau.
Theo quan niệm của một số chuyên gia trao đổi tại các hội thảo, diễn đàn thì
khái niệm về người tiêu dùng được hiểu là: Người tiêu dùng là những người mua
hoặc sử dụng hàng hoá cho các mục đích tiêu dùng cá nhân, sinh hoạt gia đình,
cộng đồng. Theo đó, người tiêu dùng chỉ là các cá nhân hoặc hộ gia đình (thể nhân)
chứ không bao gồm các tổ chức (pháp nhân), tức là người tiêu dùng cuối cùng hàng
hoá, dịch vụ được cung ứng trên thị trường. Những người mua hàng hoá để sử dụng
làm đầu vào cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ sẽ không

được coi là người tiêu dùng theo cách hiểu của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng. Ví
dụ: một chủ hộ bán bún chả, khi mua bún từ chủ hộ chuyên sản xuất bún sẽ không
được coi là người tiêu dùng mà chỉ những người vào bún chả hoặc ăn bún chả từ
quán ăn của chủ hộ bán bún chả mới là người tiêu dùng.
Tuy nhiên, cũng có quan niệm khác cho rằng, người tiêu dùng phải bao gồm
cả những tổ chức, những doanh nghiệp mua hàng hoá, dịch vụ của người khác để
sử dụng vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, cung ứng dịch vụ của mình.
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, với tư cách là khái niệm pháp lý, khái niệm
người tiêu dùng chỉ mới được sử dụng phổ biến khoảng từ những năm 1960 trở lại
đây. Người tiêu dùngđược hiểu là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho các

6


mục đích không phải là mục đích thương mại. Ở Việt Nam, khái niệm người tiêu
dùng đã được thừa nhận trong Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
1999 và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. Hai văn bản quy phạm
pháp luật này đều quy định: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa,
dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của các nhân, gia đình, tổ chức”.[1, tr.8].
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam không quy định về hàng hóa,
dịch vụ tiêu dùng. Tuy vậy, có thể hiểu được rằng, đó là những gì được phép lưu
thông và được người ta mua về để sử dụng cho các mục đích sinh hoạt, tiêu dùng cá
nhân, cho gia đình. Cũng tương tự các nước, điều kiện về mục đích cũng được sử
dụng để xác định người tiêu dùng theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
2010. Người tiêu dùng mua, sử dụng hàng hóa cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng.
Như vậy, trong một nền kinh tế, sức mua của người tiêu dùng chính là đòn
bẩy, là động lực thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ phát triển. Bởi
vậy, bảo vệ các quyền lợi cơ bản của người tiêu dùng được đặt ra như một yêu cầu
tất yếu khách quan, cần có sự kết hợp của nhiều biện pháp, mà trước hết là việc
hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

1.1.2.Các quyền lợi cơ bản của người tiêu dùng
Quyền lợi người tiêu dùng là thuật ngữ pháp lý chỉ quyền và lợi ích hợp pháp
của người tiêu dùng. Trên cơ sở Hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu
dùng, chính phủ nhiều nước đã đưa nội dung của 8 quyền của người tiêu dùng vào
pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của nước mình. Đó là các quyền: Quyền được thỏa
mãn những nhu cầu cơ bản; quyền được an toàn; quyền được thông tin; quyền được
lựa chọn; quyền được lắng nghe (còn được gọi là quyền đại diện hay quyền được
bày tỏ ý kiến của người tiêu dùng); quyền được khiếu nại và bồi thường; quyền
được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng; quyền được có môi trường sống lành mạnh và
bền vững. Trong 8 quyền nói trên, quyền được thông tin là quan trọng nhất của
người tiêu dùng. Bởi vậy, bảo vệ quyền được cung cấp đầy đủ thông tin là cơ sở rất
quan trọng để hiện thực hóa các quyền khác của người tiêu dùng.
Ở Việt Nam, các quyền của người tiêu dùng được pháp luật bảo hộ, được thể

7


chế hóa bằng các quy định cụ thể tại Điều 8 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
năm 2010.
1.1.3. Vị trí, vai trò của người tiêu dùng
Người tiêu dùng là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, là động lực thúc
đẩy việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Tiêu dùng là một khâu của quá trình tái sản
xuất, có tiêu dùng mới có sản xuất, hoạt động tiêu dùng của người tiêu dùng là mục
đích cuối cùng của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Chính
vì vậy, quyết định tiêu dùng của người tiêu dùng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động
sản xuất, kinh doanh hàng hoá và dịch vụ được cung ứng trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, nếu không có “Cầu” thì cũng sẽ chẳng có
“Cung”. Nền kinh thế thị trường, thị trường chủ yếu do người tiêu dùng điều tiết,
bởi vì cầu có trước, cung có sau, cung luôn chạy theo cầu. Vì vậy, người tiêu dùng
quyết định hàng hóa, dịch vụ mà tổ chức, cá nhân sẽ sản xuất, kinh doanh vì người

tiêu dùng góp phần quyết định giá cả, số lượng, chất lượng hàng hoá. Có thể nói,
người tiêu dùng có ảnh hưởng lớn đến những quyết sách về kinh tế, dù là của khu
vực nhà nước hay của khu vực tư nhân, người tiêu dùng tạo ra nền kinh tế thị
trường và quyết định sự phát triển của nó. Tuy nhiên, đây là mối quan hệ hai mặt
của một vấn đề, nên người tiêu dùng cũng bị ảnh hưởng theo hai chiều tích cực và
tiêu cực từ nền kinh tế thị trường.
Ngoài ra, người tiêu dùng là mục tiêu phấn đấu của các doanh nghiệp trong
cạnh tranh. Bởi lẽ, việc giành giật thị trường trong đó có bao hàm cả giành giật
người tiêu dùng. Theo nghĩa đó, người tiêu dùng là một trong những yếu tố thúc đẩy
sản xuất phát triển sản xuất, phát triển kinh tế. Vì vậy, chính sách kinh tế vĩ mô của
các quốc gia khi khuyến khích phát triển và tăng trưởng kinh tế thường bao hàm cả
chính sách kích cầu, tăng “cường độ” và mức độ tiêu dùng trong dân chúng tức là
tăng tính cách và chức năng “người tiêu dùng” trong xã hội.
1.2. Sơ lƣợc lịch sử hình thành, phát triển của pháp luật bảo vệ ngƣời tiêu
dùng tại Việt Nam
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
Khái niệm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng: Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng

8


là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận,
điều chỉnh các quan hệ giữa người tiêu dùng và các nhà kinh doanh chuyên nghiệp
(hay còn gọi là thương nhân) khi người tiêu dùng mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ
của thương nhân nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người tiêu
dùng. Theo đó các văn bản quy phạm pháp luật này quy định quyền của người tiêu
dùng, nghĩa vụ của thương nhân đối với sản phẩm, ngăn chặn các giao dịch không
công bằng, bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng.
Có thể thấy những quan hệ mua bán giữa thương nhân với người tiêu dùng chỉ
thuần túy là đối tượng điều chỉnh truyền thống của luật dân sự. Quan hệ này không

phải là quan hệ thương mại thông thường vì chỉ có hành vi mua của người tiều dùng
và hành vi bán của thương nhân chứ không có chiều ngược lại. Đồng thời, pháp luật
bảo vệ người tiêu dùng sử dụng phương pháp của luật hành chính để tác động bằng
cách trao thêm quyền cho bên yếu thế là người tiêu dùng trong những quan hệ hợp
đồng với thương nhân.
Đặc điểm pháp luật bảo vệ người tiêu dùng: Pháp luật bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, áp đặt những điều kiện bắt buộc thương nhân phải tuân thủ để khắc
phục những bất lợi của người tiêu dùng trong quan hệ với nhà cung cấp hàng hóa
dịch vụ
Cụ thể, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng tập trung quy định các vấn đề kiểm
soát điều kiện giao dịch chung; cấm các điều khoản không công bằng; trình tự thực
hiện giao dịch từ xa, giao dịch điện tử. Việc can thiệp này làm cho nguyên tắc tự do
khế ước chỉ còn có ý nghĩa tương đối trong các giao dịch giữa người tiêu dùng và
thương nhân.
Thứ hai, xác định trách nhiệm sản phẩm một cách nghiêm khắc và mở rộng về
chủ thể chịu trách nhiệm
Theo đó những người chịu trách nhiệm đối với khuyết tật của sản phẩm tiêu
dùng có thể không phải là người gây ra khuyết tật đó nhưng có tham gia vào chuỗi
hoạt động đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Hầu hết các nước trên thế giới

9


đều có luật trách nhiệm sản phẩm nằm trong hoặc độc lập với luật bảo vệ người tiêu
dùng. Chẳng hạn ở Thái Lan, Luật trách nhiệm sản phẩm được ban hành năm
2008 trong khi Luật bảo vệ người tiêu dùng của họ có từ năm 1979. Ở Anh, trách
nhiệm sản phẩm được biết đến sớm hơn luật bảo vệ người tiêu dùng. Án lệ
Dounoghue kiện Steven năm 1932 được coi là mốc quan trọng của quy định về
trách nhiệm sản phẩm thì tới tận những năm 1970, họ mới có các quy định riêng

về bảo vệ người tiêu dùng như Sale of Goods Act 1979 (luật bán hàng). Unfair
Contract Terms Act 1977 (luật về các điều khoản không công bằng) và đến
Consumer Protection Act 1987 (luật bảo vệ người tiêu dùng) thì trách nhiệm sản
phẩm được quy định chung với luật bảo vệ người tiêu dùng theo hướng dẫn của
Chỉ thị 85/374/EEC năm 1985 của Hội đồng châu Âu về trách nhiệm sản phẩm.
Ở Việt Nam, quy định về trách nhiệm sản phẩm được quy định trong Luật Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.
Thứ ba, thiết lập những ngoại lệ so với những nguyên tắc tố tụng dân sự
truyền thống nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng tham gia giải quyết
tranh chấp liên quan đến việc quyền lợi của mình bị vi phạm
Đây là những ngoại lệ về điều kiện hình thức khi khởi kiện hoặc giảm nhẹ
nghĩa vụ chứng minh. Chẳng hạn như khởi kiện tập thể (class action ở Hoa Kỳ,
Sammelklage ở Đức) hoặc đảo nghĩa vụ chứng minh (Beweislastumkehr – Đức).
Theo Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt nam, người tiêu dùng cũng
được giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh, họ chỉ phải chứng minh sự thiệt hại còn nhà
cung cấp hàng hóa, dịch vụ sẽ phải chứng minh về việc không tồn tại mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ với những thiệt hại của
người tiêu dùng hay chứng minh mình không có lỗi (Điều 42).[15, tr.24-25]
1.2.2. Nội dung của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Từ thực tế triển khai công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam
hơn 10 năm qua kết hợp tham khảo quy định của nhiều nước trên thế giới, Luật Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng bao gồm những nhóm nội dung cơ bản sau:

10


Thứ nhất, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định về quyền và nghĩa
vụ của người tiêu dùng
Đối với quyền của người tiêu dùng, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu Việt
Nam đặc biệt lưu ý một số quyền sau: Quyền được cung cấp thông tin; Quyền được

lựa chọn; Quyền được góp ý; Quyền được khiếu nại và được bồi thường của người
tiêu dùng; Quyền được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức. Đi kèm với các quyền
cơ bản nêu trên, Luật đồng thời cũng quy định về nghĩa vụ của người tiêu dùng.
Theo đó, để có thể bảo vệ quyền lợi của mình, trước hết, người tiêu dùng phải có
nghĩa vụ thực hiện những quy định về kiểm tra hàng hóa trước khi sử dụng, lựa
chọn hàng hóa có nguồn gốc, sử dụng hàng hóa theo đúng hướng dẫn của nhà sản
xuất... Và một điều quan trọng là ý thức xây dựng cộng đồng của người tiêu dùng.
Cá nhân người tiêu dùng cần có ý thức nâng cao tinh thần phát giác vi phạm, khi
phát hiện phải nhanh chóng thông tin cho cơ quan hữu trách và cảnh báo cho người
tiêu dùng khác để phòng tránh các vi phạm tiếp diễn.
Thứ hai, quy định về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ đối với người tiêu dùng
Tổ chức, cá nhân khi kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải thực hiện đầy đủ các
quy định của các văn bản pháp luật liên quan trong các lĩnh vực: Giá, Quảng
cáo…Từ góc độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật quy định một số điều khoản
cụ thể và đi sâu hơn, ví dụ: Trách nhiệm đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao
dịch chung; Trách nhiệm liên quan đến cung cấp thông tin; trách nhiệm bảo hành;
trách nhiệm của người bán trong việc bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng,
trách nhiệm thông báo và xin ý kiến trước khi chuyển giao thông tin cá nhân người
tiêu dùng cho bên thứ ba. Đặc biệt, trong quá trình giao dịch, bên bán có trách
nhiệm cung cấp cho người mua hóa đơn hoặc chứng từ mua bán. Riêng đối với đối
tượng người bán là các cá nhân hoạt động thương mại độc lập thường xuyên, không
phải đăng ký kinh doanh (tiểu thương, người bán rong), Nghị định số 99/2011/NĐCP giành riêng một Chương để quy định về trách nhiệm của đối tượng này trong
hoạt động giao dịch với người tiêu dùng. Trong mục nội dung này, một quy định
nhằm hạn chế tình trạng “cân gian, bán điêu” của người bán là việc quy định trách

11


nhiệm của các ban quản lý chợ trong việc đặt và duy trì cân đối chứng để người tiêu

dùng tự kiểm tra về số lượng, khối lượng của hàng hóa.
Thứ ba, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định các hành vi bị
cấm, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng
Hiện nay, nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, pháp luật Việt Nam đã
xây dựng hệ thống các chế tài áp dụng đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh có hành vi
xâm phạm quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng. Ngoài những quy định về trách
nhiệm của các cá nhân, tổ chức kinh doanh trong việc bảo vệ người tiêu dùng, pháp
luật về bảo vệ người tiêu dùng cần có hệ thống các chế tài xử lý vi phạm nhằm bảo
đảm quyền lợi của người tiêu dùng nói riêng, thiết lập một trật tự xã hội trong quan
hệ mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ nói chung. Việc áp dụng chế tài dân sự hoặc
hình sự hay hành chính phụ thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm.
1.2.3. Giai đoạn từ trước năm 1999
Tại Việt Nam, vấn đề bảo vệ người tiêu dùng được đặt ra kể từ sau Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1986, việc thừa nhận
nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế đã đánh dấu bước chuyển biến tích
cực của nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở giai đoạn
này, do duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mà theo đó, hệ thống
phân phối theo chế độ tem phiếu đã thủ tiêu bản chất của quan hệ trao đổi theo quy
luật giá trị và quy luật cung cầu nên trong xã hội không hình thành quan hệ mua
bán. Mà không có quan hệ mua bán thì sẽ không có quan hệ giữa người tiêu dùng và
nhà sản xuất kinh doanh, không phát sinh nhu cầu phải bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng. Tuy nhiên, kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế nước
ta đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với việc hình thành nền
kinh tế thị trường, khái niệm người tiêu dùng xuất hiện với đúng nghĩa là thành tố
của thị trường. Cũng từ đây, ý kiến, nguyện vọng của người tiêu dùng không còn là

12



nguồn tham khảo trong đánh giá thi đua giữa các doanh nghiệp mà là căn cứ để xác
định việc nâng cao chất lượng hàng hóa, chất lượng dịch vụ. Kết quả là sau thời
gian đổi mới, hàng hóa, dịch vụ được sản xuất ở Việt Nam đã trở nên phong phú
hơn thời kỳ bao cấp. Người tiêu dùng đã bước đầu có quyền lựa chọn những sản
phẩm phù hợp nhất với nhu cầu và túi tiền của mình thay vì buộc phải mua theo tem
phiếu như trước kia. Những quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
thời kỳ này còn nằm tản mạn, rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác
nhau như: Hiến pháp năm 1992 (Điều 28); Bộ luật Hình sự năm 1985 với các tội:
Tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả (Điều 167); Tội lừa dối khách hàng (Điều
170); Tội lưu hành sản phẩm kém chất lượng (Điều 177). Ngoài ra, một số Pháp
lệnh và nghị định có liên quan cũng đề cập vấn đề bảo vệ người tiêu dùng như Pháp
lệnh Đo lường 1990, Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa 1990, Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính năm 1995, Nghị định số 140-HĐBT ngày 25/4/1991 quy định về
kiểm tra, xử lý việc sản xuất, buôn bán hàng giả, Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật
Thương mại 1997, Nghị định của Chính phủ số 57/1997/NĐ-CP ngày 31/5/1997
quy định việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng
hàng hóa v.v … Tuy nhiên, trước đòi hỏi của sự phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ người tiêu
dùng đã bộc lộ những hạn chế như các quy định pháp luật còn mang tính chung
chung, đặc biệt là thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện, do vậy, hiện tượng kinh doanh
thiếu trung thực, lừa dối người tiêu dùng thường xuyên xảy ra và chưa có cơ chế
giải quyết thống nhất. Thêm vào đó, việc giáo dục cho người tiêu dùng nhận thực
đúng và đủ về quyền và nghĩa vụ của họ đối với tiêu dùng hàng hóa chưa được quan
tâm đúng mức.
1.2.4. Giai đoạn từ năm 1999 đến năm 2010
Trước đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phù hợp,
bắt kịp với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngày
27/4/1999, Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được Ủy ban Thường vụ

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và có hiệu lực từ

13


ngày 01/10/1999. Với 6 chương, 30 điều, Pháp lệnh này đã phần nào thể chế hóa
đường lối, chính sách của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992
về vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Sự ra đời của Pháp lệnh Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng đã đánh dấu một bước tiến dài của nhận thức trong lĩnh vực lập
pháp nói riêng và của xã hội nói chung về mối quan hệ dân sự giữa người tiêu
dùng và nhà sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng là văn bản pháp lý mang tính tổng hợp đầu tiên quy định đầy đủ quyền
và nghĩa vụ của người tiêu dùng, trách nhiệm của các ngành, các cấp chính
quyền, trách nhiệm của nhà sản xuất, các tổ chức xã hội đối với quyền lợi người
tiêu dùng; là chất xúc tác cho sự xuất hiện của hàng loạt các văn bản pháp quy
khác về bảo vệ người tiêu dùng.
Để thực thi Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng, ngày 02/10/2001, Chính phủ
ban hành Nghị định số 69/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ
người tiêu dùng. Nghị định gồm 6 chương, 24 Điều quy định chi tiết việc thi hành
Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng theo những nguyên tắc được nêu trong Pháp lệnh.
Nghị định không nhắc lại quyền của người tiêu dùng nhưng có thêm chương quy
định về tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Nội dung các chương khác tương
tự như nội dung trong Pháp lệnh nhưng được quy định chi tiết hơn. Tuy còn ở mức
độ khác nhau, các quyền của người tiêu dùng nêu trong Pháp lệnh bảo vệ người tiêu
dùng 1999 của Việt Nam, về cơ bản, đã cụ thể hóa được 8 quyền của người tiêu
dùng được Quốc tế người tiêu dùng (CI) và Liên hợp quốc công bố.
Bên cạnh việc ban hành Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng, còn có một số văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề bảo vệ người tiêu dùng được ban hành
như: Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu
tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả, Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa năm

1999 (sau đố được thay thế bằng Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007),
Pháp lệnh Đo lường năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 1999, Pháp lệnh Quảng cáo năm
2001, Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003, Pháp lệnh Giá năm 2002,
Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Tiêu chuẩn kỹ thuật năm 2006. Đây là những quy
định quan trọng của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong giai đoạn này.

14


1.2.5. Từ năm 2010 đến nay
Sau hơn 5 năm triển khai thi hành, Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng đã bộc lộ nhiều bất cập. Đặc biệt, trước sự phát triển ngày càng nhanh chóng
và đa dạng của nền kinh tế thị trường khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nhiều thách thức mới lại được đặt ra với
công tác bảo vệ người tiêu dùng. Do đó, ngày 17/11/2010, Quốc hội Việt Nam đã
thông qua Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đạo luật này quy định đầy đủ
hơn Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng năm 1999, với sự bổ sung của nhiều quy
định quan trọng như: Bảo vệ thông tin của người tiêu dùng; trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra, hợp đồng giao kết với người tiêu dùng,
điều kiện giao dịch chung. Với 6 chương, 51 điều, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng quy định các quyền, nghĩa của người tiêu dùng; tránh nhiệm của tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đối với người tiêu dùng; trách nhiệm của tổ
chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; giải quyết tranh chấp giữa
người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; trách nhiệm
quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Nhằm góp phần xây dựng môi trường tiêu dùng lành mạnh cho cả người tiêu
dùng và tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ, ngày 10/7/2015, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1035/QĐ-TTg quy định ngày 15/3 hàng năm
là ngày Quyền của người tiêu dùng Việt Nam. Quyết định này của Thủ tướng Chính
phủ đã khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác bảo vệ quyền lợi của

người tiêu dùng cùng với sự phát triển, ổn dịnh, bền vững của xã hội và đất
nước.[15, tr.36-39]
1.3. Kinh nghiệm pháp luật về bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùngcủa một số
nƣớc trên thế giới
1.3.1. Kinh nghiệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là một trong những quốc gia đi tiên phong trong công tác bảo vệ
người tiêu dùng. Ngay từ những năm 1960-1970, ở cấp liên bang và cấp bang, hàng
loạt đạo luật bảo vệ người tiêu dùng được ban hành. Hoa Kỳ là quốc gia tiên phong

15


cho phép áp dụng chế độ trách nhiệm sản phẩm nghiêm ngặt theo đó người tiêu
dùng có quyền khởi kiện đòi bồi thường nhà sản xuất nếu bị thương tổn từ các
khuyết tật do hàng hóa có khuyết tật mà không cần phải chứng minh nhà sản xuất
có lỗi trong việc gây ra các khuyết tật ấy. Hoa Kỳ cũng là quốc gia thực hiện các
biện pháp cải cách cần thiết để khuyến khích người tiêu dùng sử dụng cơ chế khởi
nghiệp tập thể bảo vệ quyền lợi của mình, chống lại các hành vi vi phạm từ phía các
công ty, các tập đoàn doanh nghiệp.
Mục tiêu của chính sách bảo vệ người tiêu dùng của Hoa Kỳ là nhằm ngăn
chặn các hành vi kinh doanh gian dối trên thị trường. Để thực hiện mục tiêu này,
các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng thực hiện 3 biện pháp sau:
- Xác định các hành vi kinh doanh gian dối, không lành mạnh gây thiệt hại tới
lợi ích người tiêu dùng.
- Ngăn chặn các hành vi kinh doanh gian dối, không lành mạnh thông qua
việc thực thi pháp luật.
- Hạn chế thiệt hại cho người tiêu dùng thông qua việc giáo dục người tiêu dùng.
Trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng được chia sẻ cho nhiều cơ quan khác
nhau ở cấp liên bang, bang và thành phố. Tuy nhiên, ở Hoa Kỳ, cơ quan chịu trách
nhiệm thực thi chủ yếu là Ủy ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ. Ủy ban Thương

mại liên bang bảo vệ người tiêu dùng chủ yếu thông qua Luật Ủy ban thương mại
liên bang.
Văn bản pháp quy bảo vệ người tiêu dùng cở bản của Hoa Kỳ là Luật Ủy ban
Thương mại liên bang trong đó quy định “những hành vi không lành mạnh hoặc
gian dối hoặc gây ảnh hưởng xấu tới thương mại là bất hợp pháp”. Ủy ban cũng có
quyền đưa ra các quy định chi tiết hơn để bảo vệ người tiêu dùng ví dụ như các quy
định về bán hàng qua điện thoại, bán hàng tại nhà v.v…
Hoa Kỳ cũng có nhiều tổ chức người tiêu dùng hoạt động tích cực và hiệu
quả.Một số tổ chức có thể kể đến như Liên minh người tiêu dùng, Liên đoàn người
tiêu dùng quốc gia, Liên đoàn người tiêu dùng Hoa Kỳ.

16


Liên đoàn bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng luôn đi đầu trong các diễn đàn đấu
tranh bảo vệ sức mạnh của người tiêu dùng đòi hưởng cải thiện môi trường lao động
và bảo vệ môi sinh. Liên đoàn đã công bố các công trình khoa học báo động tác hại
của thuốc lá. Loạt bài thông tin về tình trạng ô nhiễm hệ thống ống dẫn tại Hoa Kỳ
đã gây tiếng vang lớn.
Hiện nay, Liên đoàn bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã mở rộng hoạt động
ra ngoài biên giới Mỹ, kêu gọi bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên toàn cầu.
1.3.2. Kinh nghiệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Pháp
Hệ thống pháp lý về tiêu dùng ở Pháp là một trong những hệ thống hoàn thiện
nhất trên thế giới. Qua nhiều thế kỷ kinh tế thị trường, ở Pháp đã hình thành một hệ
thống và quy định chi tiết đến mức khó tưởng tượng, bao quát được muôn vàn
trường hợp thực tế có thể xảy ra.
Bộ luật tiêu dùng của Pháp được công bố trên tờ công bố số ra ngày 27/7/1993
tập hợp tất cả các quy định liên quan đến các mối quan hệ cá nhân hay tập thể giữa
người tiêu dùng và các đối tượng chuyên doanh, đặc biệt phải kể đến các quy định
về tính trung thực của các giao dịch và tính an toàn của các sản phẩm và dịch vụ.

Theo quy định, các nhà sản xuất kinh doanh bắt buộc phải công bố tiêu chuẩn
chất lượng hàng của mình, đồng thời phải hướng dẫn cách sử dụng hàng hóa. Ở
Pháp có Trung tâm nghiên cứu và quan sát các điều kiện sinh sống (CREDOC),
Tổng cục Cạnh tranh tiêu dùng và chống hàng giả (DGCCRF), Viện tiêu dùng quốc
gia (INC), và còn có hàng trăm tổ chức quần chúng tự nguyện ở cấp quốc gia, quận
huyện và cơ sở để bảo vệ người tiêu dùng. Mỗi tổ chức quần chúng đó đều có cơ
quan ngôn luận của mình phát hành hàng chục vạn bản mỗi kỳ, tạo nên một sức ép
dư luận lớn đối với các nhà kinh doanh sản xuất. Nhà nước hàng năm trích một
phần ngân sách để trợ cấp cho các hội tiêu dùng này hoạt động có hiệu quả.
Khi có xảy ra tranh chấp, khiếu nại thì trước hết người tiêu dùng bàn bạc, thỏa
thuận trực tiếp với nhà kinh doanh, hoặc thông qua công đoàn (tức Hội nghề
nghiệp) của nhà kinh doanh. Tiếp đó, có thể nhờ sự can thiệp của Viện Tiêu dùng
quốc gia. Cuối cùng mới là nhờ luật pháp can thiệp. Ở Pháp, người tiêu dùng có thể
yêu cầu sự can thiệp của Viện Công tố quốc gia.

17


×