Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Chính sách phát triển văn hoá cơ sở trên địa bàn quận hải châu, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 97 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI CÔNG KHANH

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HẢI CHÂU
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, Năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI CÔNG KHANH

CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HẢI CHÂU
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Ngành: CHÍNH SÁCH CÔNG
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HOÀNG THỊ TỐ QUYÊN

HÀ NỘI, Năm 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Những ý kiến khoa
học trong luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Đà Nẵng, ngày

tháng

năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Công Khanh


LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô
giáo hướng dẫn - TS. Hoàng Thị Tố Quyên, người đã tận tình giúp đỡ tôi
trong quá trình làm luận văn, từ việc định hướng, lựa chọn đề tài, đến việc
xây dựng đề cương và triển khai luận văn. Cô đã có những góp ý cụ thể cho
luận văn này và luôn luôn động viên để tôi có thể hoàn thành nhiệm vụ của
mình.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo giảng viên khoa
Chính sách công, các thầy cô phòng đào tạo sau đại học - Học viện Khoa học
xã hội Đà Nẵng và gia đình, bạn bè, đồng nghiệp nơi tôi công tác đã động
viên, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất, song do buổi đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, cũng như

hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những thiếu
sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất mong nhận được sự góp ý
của thầy, cô để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Công Khanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA Ở CƠ SỞ VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ................. 11
1.1. Một số vấn đề lý luận về chính sách phát triển văn hóa ở cơ sở .......................... 11
1.2. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu ........................................................................ 20
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG, BAN HÀNH, TRIỂN KHAI,THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN ........ 26
2.1. Thực trạng xây dựng, ban hành chính sách phát triển văn hóa cơ sở trên địa bàn
..................................................................................................................................... 26
2.2. Thực trạng triển khai, thực hiện chính sách phát triển văn hóa cơ sở ở quận Hải
Châu............................................................................................................................. 40
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUÁ TRÌNH
XÂY DỰNG, BAN HÀNH, TRIỂN KHAI VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN ............................................. 59
3.1. Đánh giá về quá trình xây dựng, ban hành, triển khai và thực hiện chính sách
phát triển văn hóa cơ sở trên địa bàn ........................................................................... 59
3.2. Giải pháp .............................................................................................................. 68
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCĐ

: Ban chỉ đạo

CNH - HĐH

: Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CT

: Chỉ thị

HĐND

: Hội đồng nhân dân

MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc

NQ


: Nghị quyết

NSTP

: Ngân sách Thành phố

NSĐP

: Ngân sách địa phương

NXB

: Nhà xuất bản

PGS.TS

: Phó Giáo sư. Tiến sĩ



: Quyết định

TTg

: Thủ tướng

TDĐKXDĐSVH

: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa


Tr

: Trang

TW

: Trung ương

UBMTTQVN

: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

UBND

: Ủy ban nhân dân

VHTT

: Văn hóa - Thông tin

XDNSVH-VMĐT

: Xây dựng nếp sống văn hóa-văn minh đô thị

XHH

: Xã hội hóa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

bảng

Trang

Tổng hợp kết quả thực hiện phong trào
2.1.

“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” giai đoạn

44

2010-2017
2.2.

Ghi nhận các mô hình trong Đề án “XDNSVH-VMĐT”
từ năm 2012-2018

46

Tổng hợp Nguồn vốn dự kiến đầu tư cho các Thiết chế văn
2.3.

hóa trên địa bàn quận Hải Châu từ các nguồn ngân sách giai
đoạn 2019-2022

51


51


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại hiện nay, văn hóa đã trở thành một trong những mối quan tâm
lớn nhất của các quốc gia trên thế giới. Nó được coi là một nhân tố có tính quyết
định sự bền vững của một quốc gia, dân tộc. Việt Nam đang bước vào thời kỳ kinh
tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều cơ hội, nhưng cũng đầy khó khăn
và thử thách, việc quan tâm, chăm lo xây dựng văn hóa, đặc biệt là văn hóa ở cơ sở
ngày càng trở nên cấp thiết hơn. Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú
trọng trong việc quan tâm xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, “đảm bảo mỗi nhà
máy, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, cơ
quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, ấp đều có đời sống văn
hóa” [10, tr.102], nhằm tạo lập môi trường văn hóa cơ sở lành mạnh, huy động mọi
tiềm lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, góp phần hạn chế những tác
động tiêu cực của nền kinh tế thị trường trong tiến trình xây dựng nền văn hóa mới
và con người mới.
Với mục tiêu phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII) năm 1998 của Đảng đã nêu “Văn hóa vừa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy xây dựng đời sống văn hóa cơ sở đang được xác định là một
trong 4 giải pháp lớn mà Nghị quyết TW5 (khóa VIII) đã đề ra "Phải đưa văn hoá
thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú trọng xây dựng đời
sống văn hoá ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy, công trường, mỗi cơ quan, trường học,
bệnh viện đều có đời sống văn hóa” [3, tr.9]
Hải Châu là một quận trung tâm, trọng điểm của Thành phố Đà Nẵng, có vị
trí đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đối với thành phố. Trong
những năm qua, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, cùng với những thành tích
trong việc phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất, quận Hải Châu đã tích cực

triển khai các hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tại các phường, các cộng
đồng dân cư và đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, việc xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở ở đây cũng bộc lộ nhiều mặt bất cập, những thiếu sót,
khuyết điểm làm ảnh hưởng tới sự phát triển chung của toàn quận. Mặt khác, trong
những năm gần đây, mặt trái của nền kinh tế thị trường kéo theo nhiều tệ nạn xã hội
có xu hướng gia tăng trên địa bàn quận. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân từ những bất cập của công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của

1


một quận mà thành phần dân cư đa dạng và nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển
đổi.
Nhận thức được tầm quan trọng của chính sách phát triển văn hóa ở cơ sở,
trước những mục tiêu, nhiệm vụ mới mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra, là cán bộ
đang công tác tại UBND quận Hải Châu, tôi nhận thấy đây là vấn đề có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn cao, cần được nghiên cứu một cách sâu sắc, có hệ thống để tìm ra
giải pháp nhằm phát triển văn hóa cơ sở trên địa bàn quận Hải Châu. Do đó, tôi đã
mạnh dạn chọn “Chính sách phát triển văn hoá cơ sở trên địa bàn quận Hải
Châu, thành phố Đà Nẵng” làm Luận văn cao học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có thể nhận thấy vấn đề chính sách văn hoá nói chung và chính sách văn hóa
cơ sở nói riêng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều quốc gia, nhiều nhà khoa học
với nhiều công trình nghiên cứu khác nhau.
2.1. Các nghiên cứu về chính sách phát triển văn hoá trên thế giới
Sau hàng loạt những khủng hoảng về lối sống, về giá trị, về mô hình phát
triển của xã hội đô thị nhiều quốc gia, nửa đầu thế kỷ XX, nhân loại chú trọng hơn
tới văn hóa. Chính sách phát triển văn hoá (chính sách văn hoá) - khái niệm cốt lõi
của khoa học quản lý văn hóa đã trở thành một mối quan tâm của giới nghiên cứu
và lãnh đạo, quản lý vào thập kỷ 60 của thế kỷ XX.

Năm 1967, Tổ chức văn hóa, khoa học, giáo dục của Liên hiệp quốc (viết tắt
là UNESCO) đã tổ chức một hội nghị bàn tròn chuyên gia để bàn luận về chủ đề
chính sách văn hóa. Sau rất nhiều tranh luận, các nhà khoa học, các nhà quản lý văn
hóa của nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa ra một quan niệm về chính sách văn hóa
như sau: “Chính sách văn hóa là một tổng thể các thực tiễn xã hội, có ý thức và có
suy nghĩ, những can thiệp và không can thiệp nhằm mục đích thoả mãn một số nhu
cầu văn hóa bằng cách sử dụng tối ưu tất cả các nguồn vật chất và nhân lực mà
một xã hội nào đó sắp đặt vào thời điểm được cân nhắc kỹ” [65, 23]. Đến năm
1998, tại hội nghị ở Stockhom, trong chương trình hành động của mình, UNESCO
một lần nữa lại khẳng định muốn phát triển bền vững nền văn hóa các quốc gia phải
hoàn thiện chính sách văn hóa của mình. Cũng với tinh thần đó, một vài công trình
được xuất bản ở châu Âu và Mỹ (United States of America) đã đề cập tới chính
sách văn hóa với tư cách là một điều kiện khung của quản lý văn hóa và là một
phương diện của chính sách xã hội, như cuốn Quản lý văn hóa của Thomas Heinz
[59].

2


Nhằm phục vụ cho việc soạn thảo các dự án luật và những chế độ, chính sách
thuộc lĩnh vực văn hóa thông tin, Bộ Văn hoá - Thông tin Việt Nam cũng đã lựa
chọn dịch và giới thiệu chính sách văn hóa của một số quốc gia châu Á, châu Âu,
châu Phi và Bắc Mỹ trong cuốn Tổng thuật chính sách văn hóa của một số nước
trên thế giới [28]. Tuy chính sách văn hóa của mỗi nước có sự khác nhau do chịu sự
qui định của các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa của mỗi
nước nhưng về cơ bản, có thể thấy chính sách văn hóa của các quốc gia được giới
thiệu trong các tài liệu trên nhằm hướng tới các mục tiêu sau: (1) Sưu tầm, giữ gìn
và phát huy vốn văn hóa nghệ thuật các dân tộc hoặc đa dân tộc; (2) Xây dựng nền
văn hóa vừa dân tộc, vừa hiện đại, làm nổi bật được bản sắc dân tộc; (3) Sáng tạo
được nhiều giá trị và thành tựu văn hóa, nghệ thuật có chất lượng tư tưởng và nghệ

thuật cao; (4) Xây dựng được một hệ thống bảo quản, phân phối và tiêu dùng những
sản phẩm văn hóa nghệ thuật một cách hợp lý, có hiệu quả; (5) Đảm bảo cho đông
đảo nhân dân đều được sáng tạo, hưởng thụ và hoạt động văn hóa nghệ thuật, tiến
tới công bằng xã hội trên lĩnh vực này; (6) Tạo được một phong trào văn hóa xã hội
rộng lớn, phát huy được mọi tiềm năng sáng tạo và hoạt động văn hóa nghệ thuật
theo định hướng xây dựng đời sống văn hóa tươi vui, lành mạnh; (7) Xây dựng
được một đội ngũ cán bộ văn hóa nghệ thuật đồng bộ (cán bộ quản lý, nghiên cứu,
nghiệp vụ, kỹ thuật trên các lĩnh vực hoạt động), có kiến thức chính trị, nghiệp vụ
chuyên môn, tư cách đạo đức, nhiệt tình; (8) Từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng
mà trọng tâm là các thiết chế văn hóa với đầy đủ các trang thiết bị hiện đại và các
phương tiện truyền thông đại chúng; (9) Tăng cường sự hợp tác và giao lưu văn hóa
quốc tế vừa làm phong phú đời sống văn hóa của nhân dân mỗi nước, vừa tiếp thu
những tinh hoa và thành tựu văn hóa thế giới. [28]
2.2. Các nghiên cứu về chính sách phát triển văn hóa ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu về phạm trù văn hóa nói chung từ trước đến nay có rất
nhiều công trình, tuy nhiên nghiên cứu riêng biệt về khía cạnh Chính sách văn hóa, đặc
biệt là Chính sách văn hóa cơ sở thì còn khá hạn chế. Có thể khái quát một số công
trình tiêu biểu liên quan đến vấn đề nghiên cứu như sau:
Trong công trình Phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 2011-2020: Những vấn
đề phương pháp luận, nhà nghiên cứu Phạm Duy Đức đã bàn đến các vấn đề phương
pháp luận nghiên cứu, thực trạng và giải pháp để phát triển văn hóa, con người Việt
Nam trong giai đoạn 2011-2020 căn cứ từ Chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2020
của nước ta với những định hướng và nhiệm vụ được xác định cụ thể.[7]

3


Cuốn Chính sách văn hoá (Giáo trình dành cho sinh viên Đại học và Cao
đẳng các trường văn hoá - nghệ thuật) do Nguyễn Hữu Thức biên soạn và giữ
bản quyền đã giới thiệu các khái niệm, đặc tính, vai trò CSVH của một số nước

trên thế giới và những vấn đề cốt yếu trong CSVH Việt Nam qua các giai đoạn lịch
sử, đặc biệt là thời kỳ đổi mới. Đây là nguồn tài liệu quan trọng để tác giả luận văn
xây dựng phần cơ sở lý luận của đề tài. [59]
Tổng kết 15 năm thực hiện NQ TW V Khóa VIII, tác giả Nguyễn Tri Nguyên
đã có bài viết: Đổi mới và hoàn thiện chính sách văn hoá. [41] Ở công trình này, tác giả
khẳng định vai trò của chính sách văn hóa. Ông viết: “Chính sách văn hóa hiện thực
hóa được những tư tưởng cơ bản trong các nghị quyết của Đảng ta về văn hóa, thực
chất là ý chí, quan điểm và định hướng, tạo điều kiện cơ bản để quản lý văn hóa của đất
nước với tư cách là phương tiện hiệu quả để thiết lập cuộc sống tốt đẹp đồng thời với
việc phát triển một nền sản xuất và thị trường văn hóa lành mạnh”. [41]
Năm 2000, tác giả Lê Như Hoa công bố cuốn sách Quản lý văn hóa đô thị trong
điều kiện CNH - HĐH đất nước, trong đó đã bàn về những vấn đề quản lý văn hóa đô
thị ở nước ta trong bối cảnh chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường,
quá trình đô thị hóa phát triển mạnh mẽ. Rõ ràng điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới
chính sách phát triển văn hóa và quản lý văn hóa tại các khu đô thị. [24]
Ngoài ra, trên các tạp chí khoa học như Tạp chí Cộng Sản, Tạp chí Văn hoá
nghệ thuật, Tạp chí Xây dựng & đô thị, Tạp chí Tia sáng,… thường xuyên có đăng
tải các bài viết tìm hiểu về chính sách văn hóa ở Việt Nam, đặc biệt là ở các đô thị
cũng như những vấn đề tồn tại trong đời sống văn hoá ở nước ta. Có thể kể đến một
số bài viết tiêu biểu như bài viết “Về khái niệm hành chính công và chính sách văn
hóa” của Nguyễn Quang Long [32]; “Đô thị hoá và xây dựng văn hoá đô thị Việt
Nam hiện đại” của tác giả Trần Minh Tơn [53]; “Đô thị hoá và sự biến đổi nhu cầu
văn hoá của cư dân đô thị nước ta” của Lê Trung Kiên[29],… Vấn đề cơ bản của
văn hoá được các tác giả đề cập tới là chính sách phát triển văn hoá trong các lĩnh
vực như: Phong trào toàn dân đoàn kết; Xây dựng Nếp sống văn minh đô thị, thiết
chế văn hoá và các hoạt động văn hoá - nghệ thuật, hoạt động vui chơi giải trí, bảo
vệ môi trường cảnh quan trong đời sống, v.v...
Vấn đề chính sách văn hóa cũng được nhiều nhà khoa học, nhiều nhà quản lý
quan tâm. Một số cuộc Hội thảo khoa học xung quanh chủ đề này đã được tổ chức.
Năm 2003, Uỷ ban Văn hóa, thanh thiếu niên nhi đồng của Quốc hội đã tổ chức Hội

thảo bàn về chính sách văn hóa, và năm 2006 Viện Văn hóa và Phát triển (Học viện

4


CTQG Hồ Chí Minh) cũng tổ chức Hội thảo Chính sách văn hóa cấp bách hiện nay.
Các cuộc Hội thảo này đã đặt vấn đề nghiêm túc xem xét, đánh giá chính sách văn
hóa ở nước ta ở nhiều góc độ, từ góc độ quản lý vĩ mô đến góc độ quản lý vi mô.
Thậm chí, có ý kiến đặt ra là nước ta đã có chính sách văn hóa hay chưa? Tất nhiên,
trong khuôn khổ của các cuộc Hội thảo, những tham luận, ý kiến đó không phải là
chân lý cuối cùng nhưng nó cũng là những gợi mở đáng lưu ý trong quá trình
nghiên cứu về chính sách phát triển văn hoá.
Trong khuôn khổ hợp tác giữa tổ chức SIDA (Thụy Điển) và Bộ Văn hóa
Thông tin (Việt Nam), một Dự án nghiên cứu về chính sách văn hóa đã được triển
khai và giao cho Viện Văn hóa Thông tin (nay là Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia
Việt Nam) là đơn vị chủ trì. Dự án này đã hoàn thành giai đoạn 1 là điều tra về thực
trạng văn hóa thông tin của Việt Nam. Dự án được tiến hành với một quy mô lớn.
Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề chính sách văn hóa, trong đó có chính sách phát
triển văn hoá vẫn còn đang cần được tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ. Hy vọng
kết quả của dự án sẽ là một tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề
này.
Ngoài ra còn có một số công trình khác cũng đề cập đến vấn đề chính sách
văn hóa ở khía cạnh này hay khía cạnh khác. Chẳng hạn, trong vấn đề xây dựng
chính sách văn hóa mới, chúng ta không thể không kế thừa di sản của nhân loại, mà
trong đó, một phần quan trọng là di sản của ông cha trong lịch sử dân tộc. Các triều
đại phong kiến Việt Nam trước đây trong quá trình dựng nước và giữ nước cũng
quan tâm đến vấn đề này ở những mức độ khác nhau và đã thể hiện vai trò cầm
quyền của mình thông qua một số chính sách văn hóa cơ bản. Có thể nói, đây là một
loại di sản văn hóa chứa đựng nhiều yếu tố tích cực, có giá trị đối với công cuộc xây
dựng nền văn hóa mới. “Ôn cố tri tân” không chỉ là một truyền thống của đạo lý mà

còn là một thao tác tất yếu của nghiên cứu khoa học để rút ra những bài học kinh
nghiệm vì các chiến lược phát triển hiện đại. Tinh thần ấy được thể hiện trong công
trình “Chính sách văn hóa của các triều đại phong kiến Việt Nam” của Hoàng Vinh.
Tài liệu này nằm trong khuôn khổ của Chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà
nước KX 06. [64]
Nguyễn Tri Nguyên trong một số công trình nghiên cứu của mình cũng đã
bàn đến khái niệm chính sách văn hóa và các công cụ của chính sách văn hóa. Năm
2004, vấn đề chính sách văn hóa được đặt ra trong cuốn Quản lý văn hóa trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng nhìn chung, tác giả này mới

5


chỉ dừng lại ở việc lược thuật, giới thiệu quan niệm về chính sách văn hóa và cách
thức triển khai chính sách văn hóa trong thực tiễn của một số nước phương Tây, đặc
biệt là Đức và Mỹ. [42]
2.3. Các nghiên cứu về chính sách phát triển văn hóa trên địa bàn quận Hải
Châu
Cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào viết về đời sống văn
hóa cơ sở ở quận Hải Châu một cách riêng biệt, toàn diện và có hệ thống. Hiện nay, chỉ
có một số bài viết đăng trên các Tạp chí, các Tập san, Chuyên trang có nghiên cứu,
đề cập đến vấn đề phát triển văn hóa trên địa bàn quận Hải Châu trong tổng thể phát
triển văn hóa ở thành phố Đà Nẵng nói chung, như: Lê Hữu Ái trong công trình “Đô
thị hoá và các hiệu ứng văn hoá cho sự phát triển kinh tế ở thành phố Đà Nẵng hiện
nay” đã chỉ ra những nét khác biệt trong lối sống của cư dân Đà Nẵng so với các
vùng miền khác, chịu tác động của quá trình ĐTH, nhưng lối tư duy tiểu nông (tính
tuỳ tiện, tính vô tổ chức...) của người dân Đà Nẵng, cũng như của những người nhập
cư trong nước khó có thể nhanh chóng thay đổi để phù hợp với lối sống đô thị văn
minh, hiện đại; đồng thời đề xuất biện pháp khắc phục những tồn tại trên.[2, tr.5356].
Năm 2012, Viện Phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng đã tiến hành khảo sát lấy

ý kiến của người dân về thực trạng và nhu cầu sử dụng đối với hệ thống thiết chế
văn hoá thể thao trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, từ năm 2002-2012, tại 3 phường
thuộc quận Hải Châu (Hoà Cường Bắc, Bình Hiên và Thuận Phước). Trên cơ sở này
Huỳnh Năm và Đàm Thị Vân Dung đã căn cứ để nhận định vấn đề trên với bài viết
Hệ thống thiết chế văn hoá cơ sở tại thành phố Đà Nẵng, thực trạng và nhu cầu qua
ý kiến của người dân và đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần xây dựng và
sử dụng có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở xã, phường trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng [40, tr. 6-10]
Năm 2014, Đỗ Thanh Tân trong bài viết Xu hướng vận động văn hoá trong
bối cảnh đô thị hoá ở Đà Nẵng hiện nay đã có những đóng góp khi chỉ ra: Đà Nẵng
trong bối cảnh ĐTH diễn ra trên diện rộng, văn hoá thành phố đang ở vào giai đoạn
đặc biệt, không ngừng tiếp biến, văn hoá phát triển trong thời cơ và thánh thức mới
(văn hoá và lối sống đô thị, sự biến đổi của văn hoá gia đình…). [51, tr.19-22].
Năm 2017, Luận văn “Vấn đề chính sách phát triển văn hoá từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng” được Trần Thị Hồng Hạnh bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã
hội Việt Nam đã đưa ra một cái nhìn đầy đủ về quá trình phát triển văn hóa của

6


thành phố Đà Nẵng, nêu được thực trạng trong thời gian qua, các bất cập, hạn chế
và mạnh dạn đề xuất các vấn đề chính sách nhằm sửa đổi, bổ sung những CHÍNH
SÁCH VĂN HÓA không còn phù hợp, kịp thời đề ra những CHÍNH SÁCH VĂN
HÓA mới đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu cầu của sự phát triển bền vững [26].
Ngoài ra, còn có một số bản báo cáo tổng kết có liên quan đến khía cạnh này,
như: Báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa” trên địa bàn quận Hải Châu, biểu dương thành tích xây dựng các
danh hiệu văn hóa tiêu biểu xuất sắc của BCĐ quận và phường. Từ thực tiễn 15
năm thực hiện phong trào, báo cáo đã chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, khó khăn và
rút ra bài học kinh nghiệm nhằm thực hiện có hiệu quả phong trào trong giai đoạn

mới (2016-2020); Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Kế hoạch số 4180/KH-UBND
của UBND Thành phố về thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW. Báo cáo đã thể hiện rõ
những nỗ lực của Ngành Văn hóa và Thông tin quận Hải Châu nhằm hoàn thành các
mục tiêu của Quận ủy đề ra, đó là: Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, thể
thao hướng về cơ sở; Phát huy tính tự quản trong cộng đồng dân cư; Hoàn thiện hệ
thống thiết chế văn hóa thể thao quận và cơ sở; Phát huy năng lực hoạt động của bộ
máy ngành VHTT quận và phòng; Nâng cao hiệu quả, chất lượng các hoạt động văn
hóa, thể thao đáp ứng nhu cầu của nhân dân, trên cơ sở đó đề ra kế hoạch hoạt động
của ngành,…
Nhìn chung, trên thế giới, nghiên cứu chính sách văn hóa đã được tiến hành
nửa thế kỷ nay, tuy nhiên tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi vùng, mỗi quốc
gia, mỗi thể chế chính trị khác nhau mà chính sách văn hóa có những thay đổi phù
hợp. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu chính sách phát triển văn hóa, đặc biệt là chính
sách phát triển văn hóa ở cơ sở đã bắt đầu được quan tâm; được triển khai thực hiện,
với những thành quả bước đầu. Những công trình nghiên cứu này là cơ sở, là tài liệu
khoa học quan trọng cho tác giả luận văn xây dựng phần mở đầu và triển khai nội
dung luận văn. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay chưa có công trình nào
nghiên cứu về chính sách phát triển văn hóa, đặc biệt là chính sách phát triển văn
hóa cơ sở trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Đây vẫn đang là một
khoảng trống cần được lấp đầy, một sự thiếu hụt cần được bổ sung và là cơ sở cho
phép tôi triển khai thực hiện, hoàn thành đề tài luận văn cao học về quản lý văn hóa
của mình.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là Chính sách phát triển văn hóa cơ sở trên

7


địa bàn bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về văn hóa và văn hóa cơ sở, nêu được
những chủ trương, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về chính sách phát triển
văn hóa và việc phát triển văn hóa ở cơ sở ở nước ta;
- Nghiên cứu làm rõ thực trạng quá trình xây dựng, ban hành; triển khai, thực
hiện các chính sách phát triển văn hóa cơ sở ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
(từ khi thành lập tới nay);
- Phân tích, đánh giá chi ra những thành tựu và hạn chế (của quá trình trên);
tìm ra nguyên nhân (của những thành tựu và hạn chế đó), đề xuất giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng và phát triển đời sống văn hóa cơ sở (ở quận Hải Châu, thành
phố Đà Năng nói riêng và trên đất nước Việt Nam nói chung).
5. Đối tượng và phạm vi nội dung nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là quá trình xây dựng, ban hành; triển
khai, thực hiện chính sách phát triển văn hóa cơ sở trên địa bàn quận Hải Châu. Cụ
thể hơn, đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm các phương diện, như: công
tác lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng và ban hành các văn bản; công tác tuyên truyền, cổ
động về vai trò, tầm quan trọng xây dựng đời sống văn hóa trong nhân dân; xây
dựng hệ thống cơ sở vật chất và thiết chế văn hóa; tổ chức các hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể dục thể thao, các hoạt động xã hội,... của nhân dân trên địa bàn quận.
5.2. Phạm vi nội dung nghiên cứu
5.2.1. Phạm vi không gian
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu việc xây dựng, ban hành chính sách
phát triển văn hóa cơ sở ở UBND quận Hải Châu, UBMTTQVN quận, Phòng Văn
hóa và Thông tin quận (nhưng có quan tâm tới quá trình xây dựng, ban hành chính
sách văn hóa cơ sở ở Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Đà Nẵng và 13 phường
trực thuộc quận, trong các mức độ nhất định); việc triển khai và thực hiện chính
sách phát triển văn hóa cơ sở ở UBND quận Hải Châu, UBMTTQVN quận, Phòng
Văn hóa và Thông tin quận và UBND 13 phường thuộc quận (Chủ yếu tập trung ở
các phường: Thạch Thang, Hòa Cường Nam, Hòa Cường Bắc, Hòa Thuận Đông,
Hòa Thuận Tây, Phước Ninh, Nam Dương, Hải Châu I, Hải Châu II).

5.2.2. Phạm vi thời gian
Luận văn đi sâu nghiên cứu việc xây dựng, ban hành và triển khai, thực hiện

8


chính sách phát triển văn hóa cơ sở trên địa bàn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
trong khoảng thời gian từ năm 2000 cho đến thời điểm hiện nay (2019).
5.2.3. Phạm vi vấn đề
Luận văn đặt vấn đề nghiên cứu quá trình xây dựng, ban hành; triển khai,
thực hiện chính sách phát triển văn hóa ở cơ sở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Văn hóa là một khái niệm rất rộng (xem phần trình bày khái niệm văn hóa ở
Chương 1), nhưng do hạn chế về thời gian và dung lượng, nên luận văn chỉ đi vào
nghiên cứu cụ thể việc xây dựng, ban hành; triển khai, thực hiện các chính sách
sau: (1) Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; (2) Đề án
“Xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh đô thị”; (3) Phát triển các thiết chế văn hóa,
thể thao ở cơ sở; (4) Bảo tồn, gìn giữ và phát huy các di tích lịch sử - văn hóa và
Khôi phục các hoạt động văn hóa mang bản sắc dân tộc và địa phương.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu: Thông qua các tài liệu, các công
trình nghiên cứu của các tác giả đi trước, chúng tôi tập hợp, sắp xếp, phân tích, tổng
quan để đánh giá và làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn chính sách phát triển
văn hóa trên địa bàn quận Hải Châu.
- Phương pháp khảo sát thực tiễn: Phương pháp nghiên cứu này giúp học
viên tìm hiểu thực trạng xây dựng, ban hành; triển khai, thực hiện các chính sách
văn hóa cơ sở, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công
tác này qua khảo sát thực tiễn (Chúng tôi lấy ý kiến của một số người dân và cán bộ
quản lý văn hóa trên địa bàn bằng hình thức phỏng vấn trực tiếp để làm rõ hơn về

công tác xây dựng, ban hành; triển khai, thực hiện các chính sách phát triển văn hóa
hiện nay ở quận Hải Châu)
Ngoài ra, trong luận văn học viên còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học xã hội khác như tổng hợp, so sánh, thống kê, đối chiếu... nhằm làm nổi rõ
vấn đề nghiên cứu trên địa bàn nghiên cứu.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được tổ chức thành 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chính sách phát triển văn hóa ở cơ sở và địa
bàn nghiên cứu

9


Chương 2: Thực trạng xây dựng, ban hành; triển khai, thực hiện chính sách
phát triển văn hóa cơ sở trên địa bàn
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình xây dựng, ban hành;
triển khai, thực hiện chính sách phát triển văn hóa cơ sở trên địa bàn

10


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở
CƠ SỞ VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Một số vấn đề lý luận về chính sách phát triển văn hóa ở cơ sở
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Văn hóa và văn hóa cơ sở
a/ Khái niệm “văn hoá”
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Tùy

theo mỗi ngành khoa học, mỗi trường phái nghiên cứu có nhãn quan và chiêm
nghiệm khác nhau thì có định nghĩa khác nhau về văn hóa. Trong bài Khái luận về
văn hóa, Trần Ngọc Thêm viết: “Ngay từ thuở lọt lòng, chúng ta đã đắm mình trong
chất men văn hóa. Cái tinh thần như tư tưởng, ngôn ngữ… là văn hóa; cái vật chất
như ăn, ở, mặc… cũng là văn hóa… Từ “văn hóa” biết bao nhiêu là nghĩa, nó được
dùng để chỉ những khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau” [58,tr.4]. Như vậy, văn
hóa là một khái niệm rộng và có nội hàm phong phú nên trên thế giới cũng như
trong nước, hiện tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Tuy nhiên, trên
thực tế những ai nghiên cứu văn hóa đều dựa vào một định nghĩa đã có hoặc đưa ra
định nghĩa về khái niệm này làm công cụ nhận thức nhằm đảm bảo tính nhất quán
và là cơ sở để nghiên cứu. Chính vì vậy, định nghĩa về văn hóa không ngừng gia
tăng.
Con người có khả năng sáng tạo văn hóa và với tư cách là thành viên của một
xã hội; con người cũng chính là chủ thể tiếp thu văn hóa, bảo tồn cũng như truyền
đạt văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc cùng có chung một nền văn hóa
giúp xác định nhóm người hay xã hội mà các cá thể là thành viên.
Việc xác định và sử dụng khái niệm văn hoá thay đổi theo thời gian. Năm
1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển sách Culture, a critical review of
concept and definitions (Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái niệm và
định nghĩa), cuốn sách này sau đó được tái bản lại năm 2018. Trong đó tác giả đã
đưa ra khoảng 160 định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước
khác nhau. Điều này cho thấy, khái niệm “Văn hóa” rất phức tạp. [30]
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa
rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm

11


lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội” [50, tr.13]. Theo định nghĩa này thì văn

hóa và văn minh là một; nó bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống
con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật… Có người ví
định nghĩa này mang tính “Bách khoa toàn thư” vì đã liệt kê hết mọi lĩnh vực sáng
tạo của con người.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh
vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên
nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá
trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng
và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu
cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức
đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [21, tr.22]. Theo
định nghĩa trên thì văn hóa là tất cả những gì đối lập với thiên nhiên và do con
người sáng tạo nên từ tư tưởng, tình cảm đến ý thứcvà sức đề kháng của mỗi cá
nhân, mỗi dân tộc.
Trong công trình Việt Nam văn hóa sử cương, xuất bản đầu tiên năm 1938,
Ðào Duy Anh quan niệm nghiên cứu chuyển biến sinh hoạt của một dân tộc trên các
phương diện kinh tế, xã hội, trí thức chính là nghiên cứu lịch sử văn hóa của dân tộc
ấy, nên ông cho rằng: “Văn hóa là cách sinh hoạt của con nguời”[1, tr.10-11]. Cùng
với quan niệm ấy, Nguyễn Hồng Phong cũng định nghĩa: “Văn hóa là cái do con
nguời sáng tạo ra, là nhân hóa” [45]. Riêng Phan Ngọc lại có quan niệm khác: “Văn
hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người
với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hóa
theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Ðiều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan
hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa
chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của các cá nhân hay
tộc nguời khác” [43, tr.19-20].
Ta thấy, mặc dù tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa nhưng nhìn
chung, đa số các nhà nghiên cứu đều thống nhất, văn hóa chính là sản phẩm của một
cộng đồng người cùng tồn tại và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử. Mỗi một dân
tộc, mỗi cộng đồng người đều có nền văn hóa riêng, biểu hiện ở lối sống, nếp sống

phù hợp với điều kiện tự nhiên mà họ cư trú. Ðồng thời, cũng chính vì mỗi dân tộc
có nền văn hóa riêng nên muốn tìm hiểu bản sắc của một dân tộc nào đó thì không
thể không khảo sát bộ mặt văn hóa của dân tộc đó.

12


Tóm lại, có thể hiểu định nghĩa Văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất và
tinh thần được hình thành, lưu truyền và phát triển qua quá trình sáng tạo của con
người trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội. Văn hóa là sự thống
nhất hữu cơ giữa giá trị văn hóa vật chất và giá trị văn hóa tinh thần. Cùng với sự ra
đời và hình thành các dân tộc, văn hóa phát triển dưới các hình thức dân tộc. Nội
dung của văn hóa cũng rất phong phú, nhưng chung quy có thể xác định trong bốn
mặt: các thành tựu thuộc văn hóa vật chất, các thành tựu của văn hóa nhận thức
(nhân sinh quan, thế giới quan, triết học, mỹ học, văn học, nghệ thuật…), các thành
tựu của văn hóa ứng xử (bao gồm các thang giá trị trong cách ứng xử với thiên
nhiên và ứng xử với con người, với gia đình, với xã hội…), các thành tựu của văn
hóa tổ chức đời sống (bao gồm các thang giá trị trong cách tổ chức đời sống gia
dình, cộng đồng, xã hội…). Nội dung đó dã xác định nội hàm và ngoại diên của
khái niệm văn hóa.
b/ Khái niệm “văn hoá cơ sở”
Cụm từ “cơ sở” hàm chứa nhiều nghĩa, nhưng nó được dùng ít nhất trên ba
phương diện ngữ nghĩa sau:
- Cơ sở được quan niệm như những gì căn bản, làm nền, làm gốc, làm căn cứ
chính cho một lĩnh vực hoạt động, hay một tri thức nào đó. Ví dụ: Cơ sở lý luận, cơ
sở văn hóa, cơ sở vật chất…
- Cơ sở được quan niệm như một địa điểm, địa chỉ, tụ điểm trung tâm… diễn
ra một loại hình hoạt động nào đó về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội như: Cơ sở
hoạt động cách mạng, cơ sở dạy nghề, cơ sở đào tạo, cơ sở văn hóa, cơ sở y tế, v.v...
- Cơ sở được quan niệm như một địa bàn, một đơn vị hành chính, một tổ

chức… có cơ cấu hoàn chỉnh ở cấp cuối cùng của một hệ thống. Ví dụ, trong hệ
thống chính trị có Đảng bộ cơ sở, Đoàn cơ sở, Công đoàn cơ sở hay đơn vị hành
chính cấp cơ sở… Ở nước ta, bộ máy tổ chức quản lý nói chung đều tổ chức theo 4
cấp: (1) Trung ương – (2) Tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương – 2 đô thị loại đặc
biệt và 3 số đô thị cấp I) – (3) Huyện (thành phố trực thuộc tỉnh/quận (của thành
phố trực thuộc trung ương)/ huyện) và(4) Xã (phường, thị trấn).
Đơn vị “cơ sở” là hình thức tổ chức cơ bản của văn hóa. Đó là những cộng
đồng dân cư liên kết với nhau trong các sinh hoạt vật chất và tinh thần diễn ra trong
đời sống hàng ngày của nhân dân [54, tr.269]. Lâu nay, ngành VHTT thường tập
trung chú ý nhiều đến việc xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn cơ sở (theo phân
cấp hành chính), cho nên lý luận phương pháp công tác cũng chỉ mới nói đến việc

13


xây dựng đời sống văn hóa theo địa bàn.Trong trường hợp đang bàn, từ “cơ sở” gắn
với ý nghĩa thứ ba, “cơ sở” ở đây được hiểu là một địa bàn, địa điểm cụ thể, gắn với
một đơn vị hànhchính cơ bản hoặc một đơn vị cụ thể của một tổ chức chính trị xã
hội.
Từ những luận điểm, khái niệm trên có thể hiểu văn hoá ở cơ sở là văn hoá
diễn ra ở cộng đồng: gia đình, khu dân cư, tổ dân phố, doanh nghiệp, cơ quan, bệnh
viện trên một không gian địa lý nhất định… Đặc điểm cơ bản của thuật ngữ văn hoá
cơ sở là các hoạt động văn hoá diễn ra gắn liền với sinh hoạt vật chất và tinh thần
của cá nhân và cộng đồng trong các mối liên kết thường xuyên và trực tiếp với
không gian địa lý nhất định cùng với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và các thiết
chế văn hoá nhất định. Mỗi cộng đồng dân cư sống cố định và hình thành một tổ
chức hành chính (xã, phường, trường học, bệnh viện) hay một cộng đồng nhỏ hơn
(gia đình, tổ dân phố, khu dân cư…) đều có thể được xem là đơn vị văn hoá cơ sở.
Chính sách phát triển văn hoá ở cơ sở là xây dựng, thực hiện các chính sách văn hoá
ngay từ trong gia đình và trong cộng đồng dân cư, cộng đồng nghề nghiệp diễn ra

sinh hoạt văn hoá thường nhật của quần chúng nhân dân.Tuy vậy, do hạn chế về
thời gian và dung lượng khoa học, luận văn chỉ đề cập quá trình xây dựng, ban hành
4 chính sách cụ thể trên ở cấp thành phố Đà Nẵng, cấp quận (Hải Châu) và quá trình
triển khai, thực hiện các chính sách đó ở cấp quận (Hải Châu) và cấp phường (các
phường thuộc địa bàn quận Hải Châu).
1.1.1.2. Chính sách phát triển văn hóa ở cơ sở
a/ Chính sách văn hoá
Chính sách văn hóa là một bộ phận của chính sách công, đã được thế giới
quan tâm trong những thập kỷ gần đây với định nghĩa của các chuyên gia văn hoá tại
Monaco năm 1967 và của UNESCO cuối thế kỷ XX. Ở Việt Nam cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu về chính sách văn hóa, tuy nhiên trên đại thể, các nhà nghiên
cứu đều thống nhất cho rằng: “Chính sách văn hoá là một hệ thống các nguyên tắc,
các thực hành của nhà nước trong lĩnh vực văn hoá nhằm phát triển và quản lý thực
tiễn đời sống văn hoá theo những quan điểm phát triển và cách thức quản lý riêng,
đáp ứng nhu cầu phát triển đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân trên cơ sở vận
dụng các điều kiện vật chất và tinh thần sẵn có của xã hội” [28,70]
b/ Chính sách phát triển văn hóa
Phát triển văn hóa là một khái niệm chưa được thống nhất trong các nhà
nghiên cứu ở nước ta. Nhà nghiên cứu Hồ Bá Thâm cho rằng: “Phát triển văn hoá là

14


quá trình hoạt động sáng tạo các giá trị tinh thần và vật chất, phát huy các giá trị
truyền thống, tiếp thu, tiếp biến giá trị văn hoá trong giao lưu, đưa văn hoá vào cuộc
sống thành nền tảng tinh thần, động lực và nguồn nội sinh, mục tiêu của phát triển
kinh tế và chính trị, xã hội, tạo nên chất lượng mới của cuộc sống” [56, tr.37]. Trong
khi đó, Dương Phú Hiệp lại cho rằng: “Về đại thể, phát triển văn hoá là một quá
trình có tính tất yếu và khách quan trong sự vận động của các lĩnh vực văn hoá. Quá
trình này dẫn tới sự biến đổi giá trị và hệ giá trị. Tính tất yếu và khách quan của quá

trình này, tuy không đơn giản, không đơn tuyến, và thậm chí có lúc thụt lùi, tha hoá,
nhưng xu hướng chung vẫn là đảm bảo cho cuộc sống của con người hướng tới cái
tốt, cái thiện và cái đẹp ngày một cao hơn, nhân đạo hơn”.[28, 53]
Khi nói văn hoá và phát triển thực chất là văn hoá trong phát triển hay văn
hoá phát triển, tức gồm: văn hoá kinh tế, văn hoá môi sinh, văn hoá chính trị, văn
hoá tinh thần mà trung tâm là hoạt động sáng tạo của con người với những hệ thống
giá trị và phương thức thể hiện theo hướng nhân văn, hướng tới chân - thiện - mỹ.
Nhắc đến phát triển văn hoá, ta nghĩ ngay đến khái niệm bảo tồn văn hoá và mối
quan hệ giữa chúng. Giữa phát triển văn hóa và bảo tồn văn hoá đôi khi được coi là
đối lập, tuy nhiên, nhìn ở phạm vi vĩ mô,phát triển văn hóa không phải là hoạt động
cản trở sự bảo tồn văn hoá vì trong quá trình phát triển văn hóa thì tự thân nó sẽ có
sự đào thải yếu tố văn hoá lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với hiện thực khách
quan. Như vậy, hoạt động bảo tồn văn hoá không triệt tiêu sự phát triển văn hóa mà
ngược lại phát triển văn hóa sẽ có chức năng bảo tồn văn hoá. Chính vì vậy, bảo tồn
văn hoá giữ vai trò là cơ sở góp phần thúc đẩy phát triển văn hóa và phát triển văn
hóa tạo điều kiện cho bảo tồn văn hoá.
Dựa trên sự phân tích các khái niệm trên, chúng tôi xây dựng định nghĩa về
chính sách phát triển văn hóa như sau: “Chính sách phát triển văn hoá là một hệ
thống các quyết định thực hành của nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, có những quan điểm
và có cách thức quản lý riêng, đáp ứng nhu cầu đời sống văn hoá tinh thần, vật chất
của người dân trên cơ sở vận dụng các điều kiện vật chất, tinh thần sẵn có của xã
hội và cả sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới tiên tiến đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao về hưởng thụ và sáng tạo văn hoá của người dân”.
1.1.2. Chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển văn
hóa cơ sở
1.1.2.1. Chủ trương của Đảng
Vấn đề Chính sách phát triển văn hóa không phải đến ngày nay mới được đặt

15



ra. Từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930) đến Đề cương văn hóa của
Đảng (1943) và các Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng, bên cạnh việc chủ trương
xây dựng nền văn hóa mới, Đảng ta lúc nào cũng rất coi trọng phát triển văn hóa cơ
sở ở khắp mọi miền đất nước.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã chỉ rõ cần phải có những chính sách và
biện pháp nhằm tạo điều kiện cho mọi người tham gia vào hoạt động văn hóa, văn
nghệ; đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu thưởng thức và hoạt động văn hóa, văn
nghệ của nhân dân từ thành thị đến nông thôn, từ nơi đông người đến những vùng
xa xôi hẻo lánh và tiếp tục nhấn mạnh đến việc phát triển VHCS cần phải: “Đặc biệt
chú trọng xây dựng ĐSVH ở cơ sở, đảm bảo mỗi nhà máy, nông trường, lâm
trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, cơ quan, trường học, bệnh
viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, phường, ấp, đều có đời sống văn hóa” [10, tr.
102]. Đại hội cũng chỉ rõ nhiệm vụ phải phát triển VHCS ở từng vùng. Đó là phải tổ
chức tốt hơn nữa ĐSVH ở thành phố, thị xã, làm cho các thành thị xứng đáng giữ
vai trò tiêu biểu của nền văn hóa mới; Phải hết sức chăm lo xây dựng văn hóa ở
nông thôn, phải chú ý đến vùng căn cứ cũ, vùng có đồng bào các dân tộc. Ở các
quận lỵ và các xã, các cấp chính quyền cần quan tâm xây dựng các công trình văn
hóa như nhà văn hóa, rạp chiếu bóng, thư viện, sân vận động… tạo thành một mạng
lưới có chức năng xây dựng, phát triển và tuyên truyền văn hóa mới ở nông thôn.
Từ năm 1986, trên tinh thần đổi mới toàn diện và sâu sắc đất nước, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), Đảng đã có những nhận thức mới về vai trò,
vị trí của văn hóa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội đã khẳng định: “kinh tế và văn hóa là hai mặt tác động qua lại lẫn nhau nhằm
xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người” [9, tr.10]. Có thể thấy, cơ chế thị trường và quá trình mở cửa trong những
năm đổi mới đã làm sống động và khởi sắc môi trường văn hóa. Tuy nhiên những
mặt trái của nó đã làm vẩn đục môi trường văn hóa và làm biến dạng nhân cách con
người. Vì thế việc xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh không chỉ có ý nghĩa lâu
dài đối với việc chủ động phòng chống “văn hóa đen” và tệ nạn xã hội mà còn tạo

dựng được lối sống và lẽ sống lành mạnh tốt đẹp giúp cho quá trình hình thành nhân
cách ở mỗi con người.
Việc phát triển VHCS còn nằm trong chiến lược xây dựng môi trường văn
hóa, tức là phải tạo ra các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, thôn, ấp, xã, phường,
khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông - lâm trường, đơn vị bộ đội, công an nhân

16


dân…), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi…) có đời sống văn hóa lành
mạnh, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp
nhân dân” [14, tr. 59 – 60]. Để thực hiện những điều đó, Đảng chủ trương “đẩy mạnh
phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa, nâng cao tính tự quản của cộng
đồng dân cư trong công cuộc xây dựng nếp sống văn minh”. Bên cạnh đó, Đảng cũng
nhấn mạnh vào việc “phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của
các thiết chế văn hóa cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm tầm
quốc gia. Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hóa nghệ thuật, phát triển phong
trào quần chúng hoạt động văn hóa nghệ thuật” [14, tr.60].
Ngoài ra, đối với việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện các thể chế văn hóa,
Đảng ta nhấn mạnh đến việc “xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở”. Thực hiện
khẩu hiệu “Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa”, “Ban hành chính sách
khuyến khích sáng tạo văn hóa và khả năng đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của
nhân dân” [14, tr.69].
Một trong những giải pháp lớn để phát triển văn hóa là dành sự ưu tiên cho
việc phát triển VHCS bằng việc “phát động phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa”, huy động mọi lực lượng của nhân dân và cả hệ thống chính trị từ
trên xuống, từ trong Đảng, cơ quan Nhà nước, các đoàn thể, ra ngoài xã hội tích cực
tham gia phong trào” [14, tr. 71].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (4/2001) đã tiếp tục khẳng định tầm quan
trọng của việc xây dựng ĐSVHCS. Văn kiện Đại hội chỉ rõ cần “mở rộng và nâng

cao hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng ĐSVH”, “xây dựng nếp
sống văn minh, gia đình văn hóa”… Làm sao cho văn hóa thấm sâu vào từng khu
dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện giá trị mới của con người Việt Nam”
[15, tr.208]. Bên cạnh đó, để góp phần xây dựng tốt ĐSVHCS, Đảng ta chủ trương
đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động văn hóa. Mục đích chủ yếu nhằm “khuyến khích
nhân dân và các tổ chức tham gia thiết thực, có hiệu quả các hoạt động văn hóa”
[15,tr.209].
Trên cơ sở tổng kết từ thực tiễn, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (4/2006)
đã nhấn mạnh vào việc “đẩy mạnh việc xây dựng đời sống văn hóa đại chúng và
môi trường văn hóa lành mạnh”, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và của con
người trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy, quyết tâm xây dựng ĐSVH lành mạnh ở khắp mọi nơi trên đất nước
luôn xuyên suốt trong đường lối lãnh đạo của Đảng. Trong đó, Đảng chú trọng đến

17


việc phát triển VHCS nhằm tạo lập yếu tố bền vững trong phát triển kinh tế- xã hội nói
riêng và phát triển con người Việt Nam nói chung.
1.1.2.2. Chính sách của Nhà nước
Nhà nước của chúng ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, vận hành vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Không giống
một số kiểu nhà nước khác hoạch định chính sách văn hóa với những chuẩn mực từ
trên xuống, đối trọng với các chuẩn mực từ dưới lên của nhân dân lao dộng, chính
sách văn hoá của Nhà nước ta luôn vì mục tiêu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của
tuyệt đại đa số nhân dân. Chính sách phát triển văn hóa của Nhà nước Việt Nam
luôn vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước Việt Nam luôn chú ý đến sự phát triển đa đạng văn hóa, do nền
văn hóa của chúng ta là một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, vì thế chính sách
văn hóa của nhà nước ta không chỉ đảm bảo cho văn hóa của các tộc người được gìn

giữ bản sắc; văn hóa của các nhóm nhỏ được duy trì; các tín ngưỡng, tôn giáo được
tự do mà cả liên văn hóa và quyền con nguời cũng tuyệt đối được tôn trọng. Mọi sự
sáng tạo và hưởng thụ văn hóa dều được thừa nhận trong khuôn khổ luật pháp.
Những nhận thức về sự khác biệt văn hóa được duy trì. Nhà nước ta đã thiết lập
những cơ chế dân chủ và đang hoàn thiện thiết chế dân chủ. Nhà nước Việt Nam đã
đề ra mục tiêu: Dân chủ hoá đời sống văn hóa là bản chất, là mục tiêu của mọi chính
sách phát triển văn hóa của chúng ta.
Ngày nay, nhiệt độ văn hóa trong xã hội ta đang tăng lên từng ngày bởi các
phản văn hóa, những luồng văn hóa độc hại không phù hợp với bản chất của chế độ
ta, đang lợi dụng các làn sóng thông tin, tự do, nhân quyền làm phá hỏng những giá
trị văn hóa tốt dẹp, những định huớng văn hóa đúng đắn của chúng ta. Vì lẽ đó, nhà
nước ta đã chủ trương xây dựng các chính sách phát triển văn hóa để kiểm soát chặt
chẽ hơn các làn sóng tin học lạ lẫm; củng cố được các gia đình ấm no, hòa thuận,
hạnh phúc; ngăn chặn được nạn trộm cắp, mại dâm, nghiện hút, cờ bạc, cướp giật,
tham nhũng, đề đóm, rượu chè... Trong điều kiện hiện nay, chính sách xây và chống
trong phát triển văn hóa đã tạo ra mối liên hệ biện chứng, xây để chống, chống để
xây và vì chúng ta xây tích cực nên chúng ta phải chống tiêu cực mạnh. Từ đó phát
triển được nền văn hóa tiên tiến, đậm dà bản sắc dân tộc, từng bước khiến cho văn
hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội trong thời kỳ hội nhập nhạy cảm như
hiện nay.
Bên cạnh đó, nhà nước ta đã kịp thời đặt ra phạm vi điều chỉnh mới của các

18


×