Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.81 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HOÀNG VŨ

TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HOÀNG VŨ

TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHẠM CÔNG NGUYÊN


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đề tài luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu được sử dụng trong luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Hoàng Vũ


Từ viết tắt
BLHS
CQĐT
QĐHP
TTHS
TAND
THTT
VKSND


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu
bảng
2.1
2.2


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.................................................................................................................................................. 01
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ......................................................................... 07
1.1. Những vấn đề lý luận về tội chống người thi hành công vụ................................. 07
1.2. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội chống người thi hành công vụ....................31
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG TẠI TỈNH
QUẢNG NAM...................................................................................................................................... 38
2.1. Định tội danh chống người thi hành công vụ............................................................... 38
2.2. Quyết định hình phạt đối với tội chống người thi hành công vụ........................47
2.3. Nhận xét, đánh giá trong thực tiễn định tội danh, quyết định hình phạt đối
với tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam............................................ 56
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG
VỤ................................................................................................................................................................. 67
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm
chống người thi hành công vụ và hướng dẫn áp dụng pháp luật về tội phạm
chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam............................................................ 67
3.2. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội chống người thi hành
công vụ....................................................................................................................................................... 69
3.3. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự về tội chống
người thi hành công vụ...................................................................................................................... 69
3.4. Các giải pháp, kiến nghị khác............................................................................................... 70
KẾT LUẬN............................................................................................................................................ 74
DANH MỤC TÀI LIỆUTHAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Kể từ khi Đảng ta đưa ra chính sách đổi mới vào năm 1986, lãnh đạo
tập trung thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt được
những thành tựu vô cùng to lớn, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh
tế - xã hội và tình trạng kém phát triển. Nền kinh tế có những bước đột phá
vượt bậc. Văn hoá - xã hội từng bước phát triển, bộ mặt nông thôn mới ngày
càng khởi sắc, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. An ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh đảm bảo. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những tiêu cực, tồn tại, hạn chế như:
tình hình tội phạm nói chung và tội phạm chống người thi hành công vụ nói
riêng diễn ra ngày càng phức tạp, gây bức xúc trong nhân dân.
Tỉnh Quảng Nam với điều kiện thuận lợi về kinh tế, văn hóa, xã hội khi
có khu kinh tế mở Chu Lai và hai di sản văn hóa thế giới là Hội An và Mỹ
Sơn đã góp phần phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trên địa bàn tỉnh. Tuy
nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó, cũng còn những hạn chế liên quan đến
công tác phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm chống người thi hành
công vụ.
Trong thời gian qua, tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ngày càng gia tăng, diễn biến phức tạp, khó
lường. Theo thống kê của cơ quan chức năng, từ năm 2015 đến tháng 6 năm
2019 đã xét xử 64 vụ án/ 87 bị cáo về tội chống người thi hành công vụ. Qua
nghiên cứu các vụ án cho thấy, hành vi chống người thi hành công vụ của các
đối tượng ngày càng tinh vi, thể hiện sự chủ động, trắng trợn và có chuẩn bị
trước. Các đối tượng dùng nhiều biện pháp rất côn đồ, hung hãn, chủ động tấn

1


công các lực lượng khi đang xử lý vụ việc. Có nhiều trường hợp, sau khi bị
bắt giữ, xử lý, đối tượng lên kế hoạch, tìm cách tấn công lại lực lượng chức
năng bằng vũ khí, công cụ rất nguy hiểm, làm ảnh hưởng đến tính mạng của

người thi hành công vụ.
Để ngăn chặn tình trạng này, thời gian qua các Cơ quan tiến hành tố
tụng (THTT) tại tỉnh Quảng Nam đã không ngừng tăng cường các giải pháp
nhằm đấu tranh ngăn chặn hành vi phạm tội chống người thi hành công vụ,
góp phần ngăn chặn loại tội phạm này. Tuy nhiên, hiệu quả trong hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm này chưa cao, còn có những hạn
chế nhất định, làm ảnh hưởng đến công tác phòng chống tội phạm nói riêng,
tình hình an ninh chính trị nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Tội
chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Quảng Nam”. Với mong muốn là đề tài này sẽ góp phần nâng cao nhận
thức trong các cấp, các ngành, các địa phương về phương pháp tiếp cận các lý
luận về tội chống người thi hành công vụ; đồng thời, qua nghiên cứu việc áp
dụng pháp luật hình sự về tội chống người thi hành công vụ từ thực tiễn tỉnh
Quảng Nam sẽ đánh giá kết quả đã đạt được, đồng thời rút ra được những mặt
còn hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong việc xử lý tội chống
người thi hành công vụ. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xử lý tội phạm chống người
thi hành công vụ thời gian đến ở tỉnh Quảng Nam và sẽ đóng góp thêm kinh
nghiệm cho các địa phương khác trên cả nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Luận văn đã tập trung nghiên cứu những nội dung lý luận của tội chống
người thi hành công vụ, dựa trên những thông tin từ thực tiễn của tỉnh Quảng

2


Nam (từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2019) để làm rõ thêm một số vấn đề
trong hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt (QĐHP) đối với loại tội
phạm này, nhằm góp phần giúp các Cơ quan THTT tại địa phương có được

bức tranh toàn cảnh về định tội danh và QĐHP đối với tội chống người thi
hành công vụ. Từ đó, có những định hướng, giải pháp trong việc áp dụng
pháp luật hình sự đối với tội này, góp phần đem lại niềm tin cho nhân dân và
chính quyền tỉnh Quảng Nam trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm, đảm bảo trật tự - an toàn xã hội.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
-

Đối tượng nghiên cứu: Tội chống người thi hành công vụ trên địa

bàn tỉnh Quảng Nam.
-

Phạm vi nghiên cứu:

+

Phạm vi về nội dung: Chuyên ngành Luật hình sự.

+

Phạm vi về tội danh và hình phạt: Đề tài luận văn nghiên cứu tội

chống người thi hành công vụ quy định tại Điều 330 BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) gọi chung là BLHS năm 2015.
+

Phạm vi về địa bàn: Đề tài luận văn nghiên cứu khoa học về tội

chống người thi hành công vụ trên phạm vi tỉnh Quảng Nam.

+

Phạm vi về thời gian: Thời gian nghiên cứu của đề tài luận văn giai

đoạn từ năm 2015 đến tháng 6/2019, gồm số liệu thống kê xét xử hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) và Tòa án nhân dân (TAND) hai cấp tỉnh
Quảng Nam và 30 bản án hình sự sơ thẩm và phúc thẩm.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
-

Mục đích nghiên cứu: Nhằm bổ sung, hoàn thiện lý luận về định tội

danh và QĐHP của tội chống người thi hành công vụ. Từ đó, xem xét kết quả
3


thực hiện, đánh giá ưu điểm, những hạn chế, bất cập, nguyên nhân ưu, khuyết
điểm và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xử lý tội
phạm này trong thời gian đến.
-

Nhiệm vụ nghiên cứu: Tác giả tập trung xem xét, giải quyết các vấn

đề sau:
+

Nghiên cứu, phân tích làm rõ và bổ sung hoàn thiện lý luận tội chống

người thi hành công vụ.
+


Phân tích, đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết định hình đối với tội

chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện nay, làm rõ kết
quả đã đạt được, hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót.
+

Đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống

và xử lý loại tội phạm này
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
-

Phương pháp luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận

của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; pháp luật của Nhà nước
và phương pháp luận của khoa học Hình sự; khoa học Tố tụng Hình sự, các
quy định của ngành Công an, Kiểm sát, Toà án trong đấu tranh phòng chống
tội phạm này.
+

Một số phương pháp nghiên cứu,cụ thể như sau:
Phương pháp khảo sát thực tiễn: Phỏng vấn sâu 10 cán bộ công chức

đang thực hiện công tác phòng, chống người thi hành công vụ ở tỉnh Quảng
Nam.
+ Phương pháp thu thập số liệu:
Số liệu thứ cấp: Thu thập số liệu các vụ án về tội chống người thi hành
công vụ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2019.
4



Số liệu sơ cấp: Tự thu thập qua điều tra thực tế.
+

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu Bộ Luật, Nghị định,

Thông tư, Nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước quy định về tội
chống người thi hành công vụ và các công trình nghiên cứu khoa học khác
liên quan đến tội chống người thi hành công vụ.
+

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn sử dụng phương pháp

này để nghiên cứu, phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm liên quan đến tội
chống người thi hành công vụ trên cơ sở quy định tại các Bộ Luật, Nghị định,
Thông tư hướng dẫn, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, Bộ, ngành
ở Trung ương và tỉnh Quảng Nam liên quan đến loại tội phạm này; trên cơ sở
đó tổng hợp, xem xét hình thức xử lý đảm bảo theo đúng quy trình, quy định.
+

Phương pháp chuyên gia: Chọn chuyên gia có năng lực chuyên môn

về tội chống người thi hành công vụ để tham khảo, trưng cầu ý kiến, làm cơ
sở để có xem xét, nhận định và tìm ra giải pháp cho nội dung của luận văn.
+

Phương pháp trao đổi khoa học và nghiên cứu điển hình: Nghiên cứu

các hồ sơ vụ án khởi tố, điều tra, truy tố tội chống người thi hành công vụ từ

năm 2015 đến hết tháng 6 năm 2019.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
-

Về lý luận: Góp phần bổ sung hoàn thiện hệ thống lý luận về tội chống

người thi hành công vụ. Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn là tư liệu cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy đào tạo chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng

hình sự trong trường Học viện khoa học xã hội, đặc biệt giúp cho các nhà
nghiên cứu xây dựng, bổ sung hoàn thiện các quy phạm pháp luật trong công
tác phòng chống, đấu tranh chống loại tội phạm này.

5


-

Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài, trước hết là góp phần

nâng cao nhận thức đối với các đồng chí lãnh đạo chính quyền, các hội, đoàn
thể các cấp từ tỉnh, huyện đến cơ sở hiểu rõ hơn về lý luận tội chống người thi
hành công vụ ở Việt Nam, xem xét giữa lý luận và thực tiễn từ kết quả thực
hiện pháp luật về tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam, từ đó
định hướng góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong xử lý tội
phạm chống người thi hành công vụ thời gian đến.
Kết quả đề tài luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu, học tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ thuộc Cơ quan
THTT tại tỉnh Quảng Nam.
7. Bố cục luận văn

Luận văn gồm có phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục và được chia làm ba Chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về tội chống người thi hành công vụ
theo pháp luật hình sự Việt Nam
Chương 2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự về tội phạm
chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam
Chương 3. Giải pháp đảm bảo quả áp dụng đúng các quy định pháp luật
về tội chống người thi hành công vụ

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CHỐNG
NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
1.1. Những vấn đề lý luận về tội chống người thi hành công vụ
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi
hành công vụ
1.1.1.1. Khái niệm tội chống người thi hành công vụ
Đến nay, thuật ngữ “công vụ” còn gây nhiều tranh cãi, chưa có khái
niệm thống nhất. Theo cách hiểu chung nhất, “công vụ” là công việc vì lợi ích
chung của Nhà nước. Một số văn bản pháp luật cũng đề cập đến thuật ngữ này
như sau:
Ngày 29/11/1986, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao ban hành Nghị
quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ có nội dung như sau: “Công vụ là một công
việc mà cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội giao cho một người thực
hiện” [Mục 1, Chương 2]. Ta có thể thấy, quy định này được hiểu theo nghĩa
rộng, không có việc giới hạn phạm vi trong lĩnh vực công vụ và không giới
hạn về phạm vi chủ thể của công vụ.
Đối với Luật cán bộ, công chức năm 2008 được quy định như sau:

“Hoạt động công vụ của cán bộ, công chức là thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của cán bộ, công chức theo quy định của Luật này và các quy định khác có
liên quan” [22, Điều 2]. Quy định này đã chỉ ra những đặc điểm quan trọng
của công vụ và giới hạn phạm vi chủ thể của hoạt động công vụ. Công vụ là
hoạt động được tiến hành trên cơ sở pháp luật để thực hiện công việc do Nhà
nước giao. Do đó, tính tuân theo pháp luật là đặc điểm quan trọng nhất của

7


“công vụ”. Định nghĩa này cũng giới hạn phạm vi đối tượng là cán bộ, công
chức.
Đối với Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ban hành năm
2017: Luật này không quy định trực tiếp về công vụ nhưng lại có nội dung
xác định người thi hành công vụ. Nội dung như sau: “Người thi hành công vụ
là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm theo quy định
của pháp luật về cán bộ, công chức và pháp luật có liên quan vào một vị trí
trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng
hoặc thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động quản lý hành chính, tố
tụng hoặc thi hành án” [21, Điều 3]. Quy định này đã giới hạn phạm vi lĩnh
vực của công vụ là trong quản lý hành chính, tố tụng và trong thi hành án.
Việc giới hạn phạm vi của công vụ chỉ trong ba lĩnh vực, gồm: quản lý
hành chính, tố tụng và thi hành án là hoàn toàn phù hợp. Hoạt động quản lý
nhà nước trong những lĩnh vực này thông qua các quyết định mang tính chất
cá biệt, có tính chất mệnh lệnh - phục tùng và tác động tới từng cá nhân cụ
thể. Cũng chính vì vậy, chủ thể của các hoạt động này cũng dễ bị các cá nhân
tác động của công vụ chống lại, gây thiệt hại.
Từ một số định nghĩa nêu trên, có thể thấy đặc điểm của công vụ là tính
đúng pháp luật và được giới hạn trong phạm vi nhất định bao gồm giới hạn về

phạm vi chủ thể của công vụ và giới hạn về phạm vi lĩnh vực của công vụ.
Theo đó, công vụ phải là hoạt động quản lý nhà nước và phải thực hiện theo
đúng pháp luật, tức là những hoạt động được thực hiện dựa trên quy định của
pháp luật bao gồm pháp luật nội dung và pháp luật hình thức. Phạm vi lĩnh
vực của hoạt động công vụ được giới hạn trong ba lĩnh vực quản lý hành
chính, tố tụng và thi hành án. Chủ đề của công vụ là người thuộc các cơ quan

8


Nhà nước hoặc được cơ quan Nhà nước giao quyền thực hiện những nhiệm
vụ cụ thể.
Với cách hiểu như vừa nêu ở trên về công vụ thì đặc điểm quan trọng
nhất của công vụ là tính đúng pháp luật. Muốn được coi là công vụ thì hoạt
động phải đúng pháp luật, đúng quy trình, thủ tục thực hiện đúng pháp luật và
người thực hiện được giao thẩm quyền theo đúng pháp luật. Tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật được coi là một trong các nguyên tắc của hoạt động công
vụ. Hoạt động không đúng pháp luật là hoạt động “làm trái công vụ” và rõ
ràng không phải là công vụ.
Như vậy, trong trường hợp người thi hành công vụ có hoạt động làm
trái công vụ thì hành vi không được xem là hành vi thực hiện công vụ và dẫn
đến thực hiện cũng không được coi là người thi hành công vụ. Việc xác định
chính xác thế nào là hoạt động “công vụ” có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác định dấu hiệu “người thi hành công vụ”.
Do chưa có khái niệm chưa thống nhất về “công vụ” nên khái niệm về
“người thi hành công vụ” nên cũng chưa thống nhất về khái niệm “người thi
hành công vụ” trong các văn bản pháp luật.
Ngày 29/11/1986 Hội đồng thẩm phán TAND tối cao ban hành Nghị
quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần
các tội phạm của BLHS quy định như sau: “Người thi hành công vụ là người

có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội, thực
hiện chức năng, nghiệp vụ của mình và cũng có thể là những công dân được
huy động làm nghiệp vụ (như: tuần tra, canh gác…) theo kế hoạch của cơ
quan có thẩm quyền, phục vụ lợi ích chung của nhà nước, của xã hội”. Từ
quy định trên, người thi hành công vụ là những người có chức vụ và quyền
hạn trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội mà các cơ quan này thực hiện

9


chức năng, nhiệm vụ của mình hoặc những công dân được huy động làm
nhiệm vụ theo kế hoạch của các cơ quan có thẩm quyền.
Đối với Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước năm 2017 quy định như
sau: “Người thi hành công vụ là người được bầu cử, phê chuẩn, tuyển dụng
hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để thực hiện nhiệm vụ
quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động
quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án” [21, Điều 3].
Theo Nghị định 208/2013/NĐ-CP ngày 17/12/2013 được Chính phủ
quy định về các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý những hành vi
chống người thi hành công vụ xác định người thi hành công vụ “…là cán bộ,
công chức, viên chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân
dân được cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ nhằm
phục vụ lợi ích của Nhà nước, nhân dân và xã hội” [3, Điều 3].
Từ những khái niệm trên có thể rút ra một số đặc điểm của tội chống
người thi hành công vụ như sau:
-

Thứ nhất: Người thi hành công vụ là người được giao nhiệm vụ để


thực hiện công vụ nhất định, tư cách pháp lý là điều kiện để cá nhân trở thành
người thi hành công vụ và quyền hạn là cơ sở, điều kiện để thực hiện công vụ
nhất định. Trong đó, quyền hạn được hiểu là quyền lực pháp lý của Nhà nước
trong một phạm vi nhất định được trao cho các tổ chức, cá nhân để thực thi
công vụ. Nói cách khác, đó là quyền đã được xác định về nội dung, mức độ và
phải gắn liền với công việc được giao. Quyền hạn này có thể phát sinh từ vị trí
công tác thường xuyên của người thi hành công vụ và trên cơ sở phù hợp với
công vụ cụ thể được giao thực hiện. Nếu công vụ được giao cho người thi

10


hành công vụ mà không kèm theo các quyền hạn thì sẽ có một số công vụ
không được thực hiện và ngược lại khi có nhiều quyền hạn mà quá ít công vụ
phải thựu hiện thì có thể xảy ra những trường hợp lạm quyền.
-

Thứ hai, người thi hành công vụ phải đang thực hiện một nhiệm vụ cụ

thể, nhất định. Một người được xác định là người thi hành công vụ không chỉ
vì người đó có thẩm quyền trong việc thực hiện công vụ mà còn phải đang
làm nhiệm vụ được giao. Nội dung này chỉ khẳng định một người có thể là
người thi hành công vụ vì họ có vị trí công tác có thẩm quyền tiến hành công
vụ. Như vậy, người thi hành công vụ luôn gắn liền với công vụ cụ thể, việc
xác định người thi hành công vụ đặt ra yêu cầu cần xác định sự tồn tại của
một công vụ thực tế và công vụ đó đang thực hiện một cách đúng pháp luật
bởi một chủ thể theo đúng thẩm quyền được giao.
-


Thứ ba, việc thực hiện công vụ của cá nhân phải theo đúng quy định

của pháp luật. Đặc điểm này xuất phát từ bản chất của công vụ. Người thi
hành công vụ theo đúng nghĩa phải là người thực hiện hoạt động đúng pháp
luật cả về nội dung, hình thức và thẩm quyền.
Từ những nội dung được phân tích nêu trên, tác giả định nghĩa tội
chống người thi hành công vụ như sau: Tội chống người thi hành công vụ là
hành vi cố ý cản trở, gây khó khăn cho người thi hành công vụ trong khi
người đó đang thực hiện nhiệm vụ thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về hành
chính, tố tụng và thi hành án.
Từ định nghĩa này, có thể đưa ra một số đặc điểm của tội chống người
thi hành công vụ như sau:
Thứ nhất, tội chống người thi hành công vụ xâm phạm hoạt động quản
lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính, tố tụng và thi hành án, xâm phạm hoạt
động bình thường của cơ quan Nhà nước, làm giảm hiệu quả quản lý của các
11


cơ quan này. Quan hệ xã hội bị tội chống người thi hành công vụ xâm hại là
quan hệ liên quan trực tiếp đến các hoạt động “công vụ”, là hoạt động thuộc
lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Tội chống người thi hành
công vụ xâm hại đến các quan hệ xã hội trên thông qua việc tác động trực tiếp
đến người đang thi hành công vụ.
Thứ hai, chủ thể của tội chống người thi hành công vụ phải đủ điều kiện
về năng lực trách nhiệm hình sự (đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của luật và
không thuộc trường hợp trong tình trạng mất năng lực nhận thức hoặc năng
lực điều khiển do mắc bệnh).
Thứ ba, hành vi phạm tội của tội này là hành vi cố ý có khả năng cản
trở, gây khó khăn cho người thi hành công vụ trong khi người đó đang thực
hiện công vụ của họ. Trong đó, “cản trở người thi hành công vụ” có thể hiểu

là: Làm họ không thực hiện được công vụ hoặc làm họ thực hiện hành vi trái
với công vụ.
Việc cản trở này có thể được thực hiện bằng các thủ đoạn như dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác có khả năng cản trở, gây kho khăn
cho người thi hành công vụ. Trong đó: Dùng vũ lực được hiểu là có sự tác
động vào cơ thể của người thi hành công vụ (có hoặc không sử dụng công cụ,
phương tiện) như đấm, đá, trói hoặc đánh bằng gậy, chém bằng dao…; đe dọa
dùng vũ lực được hiểu là sự tác động bằng cử chỉ, lời nói có tính răng đe, uy
hiếp tinh thần để làm cho người thi hành công vụ lo sợ vũ lực sẽ xảy ra…;
hoặc thủ đoạn khác được hiểu là các thủ đoạn tuy không phải là dùng vũ lực
hay đe dọa dùng vũ lực nhưng vẫn có thể uy hiếp được tinh thần người thi
hành công vụ như đe dọa sẽ công bố những tin tức, tài liệu bất lợi cho người
thi hành công vụ hoặc cho người thân thích của họ, đe dọa hủy hoại tài sản,

12


cởi bỏ quần áo trước người đang thi hành công vụ; tự gây thương tích hoặc
giả gây thương tích để vu khống bị người thi hành công vụ hành hung…
Người phạm tội chống người thi hàh công vụ mặc dù hiểu và nhận thức
được hành vi cản trở việc thực hiện công vụ của người thi hành công vụ của
mình là trái pháp luặt nhưng vẫn thực hiện và tìm mọi cách để người đang thi
hành công vụ không thể hoàn thành công vụ mà họ được giao.
Từ các đặc điểm chung trên đây, nhà làm luật có thể xây dựng cấu
thành tội của tội chống người thi hành công vụ theo các mô hình khác nhau
với thời điểm hoàn thành của tội phạm khác nhau. Trong đó, có thể xây dựng
hành vi là thủ đoạn dùng vũ lực, thủ đoạn đe dọa dùng vũ lực và thủ đoạn
khác và dấu hiệu mục đích phạm tội là “Cản trở người thi hành công vụ thực
hiện công vụ” (không thực hiện được công vụ hoặc thực hiện hành vi trái
công vụ).

1.1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội chống người thi hành công vụ
Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 quy
định về tội chống người thi hành công vụ cụ thể như sau:
Điều 330. Tội chống người thi hành công vụ
1.

Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn

khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc
họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02

năm đến 07 năm:
a. Có tổ chức;
b. Phạm tội 02 lần trở lên;

13


c. Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm
tội; d. Giây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng
trở lên đ. Tái phạm nguy hiểm.
Từ những quy định nêu trên, có thể khẳng định hành vi chống người thi
hành công vụ là hành vi dùng vũ lực, đến dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn
khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc
họ thực hiện hành vi trái pháp luật.
-


Về khung cơ bản quy định mức hình phạt cải tạo không giam giữ đến

03 năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Khung cơ bản của tội này gồm
những dấu hiệu đặc trưng bắt buộc đối với tội phạm được quy định tại khoản
1 Điều 330 BLHS năm 2015, các dấu hiệu đó phản ánh tính chất của loại tội,
cho phép phân biệt nó với loại tội phạm khác. Do đó, người thực hiện hành vi
dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người
thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi
trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm.
-

Khung hình phạt tăng nặng được quy định tại Khoản 2 Điều 330

BLHS năm 2015: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Khung hình phạt tăng nặng của tội chống người thi hành công vụ gồm
05 tình tiết thể hiện tính nguy hiểm hơn của hành vi phạm tội so với trường
hợp phạm tội thông thường.
Thứ nhất, “Phạm tội có tổ chức”. Tình tiết “phạm tội có tổ chức” được
hiểu là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người (đồng phạm),
cùng thực hiện tội phạm này. Sự cấu kết ở đây thể hiện sự liên kết chặt chẽ về
mặt chủ quan, sự phân hóa vai trò về mặt khách quan của người phạm tội.
Nghĩa là có từ hai người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội phạm và trước
14


khi thực hiện hành vi phạm tội, các đối tượng đã có sự bàn bạc, cấu kết, phân
chia công việc… Tất cả những điều này cho phép người phạm tội có thời gian

để xây dựng kế hoạch chuẩn bị tốt hơn về mọi mặt, có nhiều khả năng thực
hiện tội phạm theo đúng ý muốn, liên tục, lâu dài và cản trở triệt để hơn việc
thi hành công vụ có tổ chức, tùy thuộc vào quy mô và tính chất, mức độ mà có
thể có những người giữ những vai trò, vị trí khác nhau: Người tổ chức, người
thực hành, người xúi giục, người giúp sức.
Người tổ chức là xây dựng kế hoạch, lôi kéo, chỉ huy thực hiện các hoạt
động phạm tội. Họ là người có những hành vi vụ thể như: khởi xướng việc
chống người thi hành công vụ; lên kế hoạch thực hiện hành vi chống người thi
hành công vụ, xíu giục, lôi kéo người khác cùng thực hiện hành vi chống
người thi hành công vụ; phân công trách nhiệm cho người đồng phạm khác để
thống nhất thực hiện việc chống người thi hành công vụ; điều khiển hành
động của những người đồng phạm; yêu cầu, đôn đốc, thúc đẩy người đồng
phạm khác thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ…
Họ là người trực tiếp thực hiện một trong các hành vi khách quan được
quy định tại khoản 1 Điều 330 BLHS năm 2015. Đây là người có vai trò quyết
định việc thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ trên thực tế. Nếu
người phạm tội xúi giục trẻ em dưới 14 tuổi hoặc người không có năng lực
TNHS thực hiện tội phạm, thì hành vi xúi giục được coi là hành vi thực hành
thông qua hành vi của người bị xúi giục mà không phải chịu TNHS.
“Người giúp sức là người tạo điều kiện, hỗ trợ về tinh thần hoặc vật
chất cho việc thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ”. Hành vi tạo
điều kiện, hỗ trợ về tinh thần thường được biểu hiện như chỉ dẫn cho người
phạm tội cách thức thực hiện tội phạm, thông tin thời gian, địa điểm công vụ
được tiến hành để người phạm tội chuẩn bị đối phó; hứa hẹn trước sẽ che giấu
người phạm tội, đồng lõa với người phạm tội… hành vi tạo điều kiện về vật

15


chất cho việc thực hiện tội phạm có thể là hành vi cung cấp phương tiện phạm

tội như: cung cấp vũ khí như dao, súng, xe máy, xe ô tô… để người phạm tội
dễ thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ.
Phạm tội có tổ chức trong tội chống người thi hành công vụ là một
trong những trường hợp phạm tội này có tính nguy hiểm cao, bởi phạm tội
thường có hung khí nguy hiểm và có tư tưởng muốn chống đối đến cùng. Do
vậy, trường hợp phạm tội này có nhiều khả năng dẫn đến những hậu quả rất
nghiêm trọng, không những làm cho người thi hành công vụ không hoàn
thành nhiệm vụ của mình mà họ còn có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, thậm chí
tính mạng của họ.
Thứ hai, “Phạm tội 02 lần trở lên” được hiểu là có từ hai lần phạm tội
chống người thi hành công vụ trở lên, mà mỗi lần phạm tội có đầy đủ các yếu
tố cấu thành của tội này và trong các lần phạm tội đó chưa bị truy cứu trách
nhim hình sự và cũng chưa hết thời hiệu truy cứu tráh nhiệm hình sự.
Thứ ba, “Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội” được hiểu
là hành vi của người phạm tội đã tác động vào ý chí, tư tưởng của người khác
nhằm rủ rê, kêu gọi người khác cùng phạm tội (tuy không thuộc trường hợp
có tổ chức).
Tình tiết “Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội” được quy
định tại điểm c khoản 2 Điều 330 BLHS năm 2015 được hiểu là trường hợp
người phạm tội giữ vai trò là người xúi giục trong vụ phạm tội chống người
thi hành công vụ. Theo đó, họ đã có hành vi xúi giục, lôi kéo, kích động bằng
các thủ đoạn khác nhau khiến người khác có hành vi chống lại người thi hành
công vụ có thể do thiếu hiểu biết, do ý thức chấp hành luật kém hoặc do nóng
nảy, bức xúc hoặc do sĩ diện… Các thủ đoạn xúi giục, lôi kéo, kích động được
sử dụng có thể là mua chuộc, cưỡng ép hoặc lừa dối…

16


Theo quy định của điều luật, chỉ cần người phạm tội có một trong các

hành vi xúi giục, lôi kéo hoặc kích động người khác phạm tội mà không cần
phải thực hiện đầy đủ cả ba hành vi nói trên thì đã bị coi là có dấu hiệu định
khung hình phạt tăng nặng này. Người phạm tội trong trường hợp này có thể
là người vừa có hành vi xúi giục người khác phạm tội, đồng thời trực tiếp thực
hiện hành vi chống người thi hàh công vụ, nhưng cũng có thể là người không
thực hiện hành vi chống người thi hành căng vụ mà chỉ có hành vi xúi giục
người khác phạm tội.
So với tình tiết định khung hình phạt tăng nặng “Phạm tội có tổ chức”,
tình tiết định khung hình phạt tăng nặng “Xúi giục, lôi kéo, kích động người
khác phạm tội” là tình tiết áp dụng cho cá nhân còn tình tiết “Phạm tội có tổ
chức” áp dụng cho tất cả những người đồng phạm. Trong trường hợp phạm tội
chống người thi hành công vụ có tình tiết định khung hình phạt nặng “Xúi
giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội”, người phạm tội có hành vi như
hành vi của người xúi giục trong trường hợp phạm tội có tổ chức. “Xúi giục,
lôi kéo, kích động người khác phạm tội” chỉ đòi hỏi vụ phạm tội có dấu hiệu
của đồng phạm mà không đòi hỏi phải là trường hợp đồng phạm có tổ chức.
Thứ tư, “Gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên”. Tình tiết này
được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 330 BLHS năm 2015. Đây là trường
hợp hành vi phạm tội chống người thi hành công vụ gây ra thiệt hại lớn về vật
chất. Do đó, hành vi này cần được xử lý về hình sự với khung hình phạt cao
hơn so với khung cơ bản được áp dụng cho trường hợp chống người thi hành
công vụ thông thường. Điều luật quy định thiệt hại vật chất có giá trị trong
giới hạn từ “50.000.000 đồng trở lên”. Theo đó, điều luật chỉ quy định mức
thấp nhất của giá trị thiệt hại vật chất mà không có giới hạn về mức cao nhất.
Khi thỏa mãn mức thiệt hại về tài sản thấp nhất này, hành vi phạm tội chống

17


người thi hành công vụ được coi thuộc trường hợp phạm tội có tình tiết định

khung hình phạt tăng nặng “Gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên”.
Thứ năm, “Tái phạm nguy hiểm”: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 53
BLHS năm 2015, tái phạm nguy hiểm là những trường hợp sau: Một là, Đã bị
kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được
xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố
ý; Hai là, Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý.
Như vậy, tình tiết định khung hình phạt tăng nặng “Tái phạm nguy
hiểm” của tội chống người thi hành công vụ theo BLHS năm 2015 là trường
hợp người phạm tội đã tái phạm, chưa được xóa án tích lại phạm tội chống
người thi hành công vụ. Trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội rất
nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại
phạm tội chống người thi hành công vụ không phải là “Tái phạm nguy hiểm”
vì tội chống người thi hành công vụ không thuộc loại tội phạm rất nghiêm
trọng cũng như đặc biệt nghiêm trọng (khung hình phạt nặng nhất của tội này
chỉ có mức hình phạt cao nhất là 7 năm tù). Như vậy, tình tiết định khung hình
phạt tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” của tội chống người thi hành công vụ
được áp dụng khi thỏa mãn các điều kiện sau:
Một là, người phạm tội đã tái phạm nghĩa là trước lần bị đưa ra xét xử,
người phạm tội đã có (ít nhất) hai lần bị kết án và trong lần bị kết án thứ hai,
người phạm tội đã bị áp dụng tình tiết “tái phạm” được quy định tại khoản 1
Điều 49 BLHS năm 1999 hoặc tại Khoản 1 Điều 53 BLHS năm 2015.
Hai là, người bị kết án chưa được xóa án tích.
Nhìn chung, quy định về tội chống người thi hành công vụ của BLHS
năm 2015 không có thay đổi so với BLHS năm 1999. Điều 330 BLHS năm
2015 chỉ cụ thể hóa tình tiết định khung tăng nặng hình phạt được quy định

18


tại điểm d khoản 2 Điều 257 BLHS năm 1999. Theo đó, “gây hậu quả nghiêm

trọng” được cụ thể hóa là “Gây thiệt hại về tài sản 50.000.000 đồng trở lên”.
*

Các yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) như sau:

a. Về khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo
vệ và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến.
Tội chống người thi hành công vụ xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm
vụ của những người đang thi hành công vụ và từ đó xâm phạm đến hoạt động
của Nhà nước về quản lý hành chính khi thi hành nhiệm vụ công.
Đối tượng tác động của tội phạm này là người thi hành công vụ, thông
qua việc xâm phạm đến người thi hành công vụ mà xâm phạm đến việc thực
hiện nhiệm vụ công. Trong thực tế, những người làm việc tại các cơ quan, đơn
vị: Công an, kiểm sát, Tòa án, đơn vị tự vệ…. Là những người có nguy cơ bị
thực hiện hành vi chống người thi hành công vụ nhiều hơn.
b. Mặt khách quan của tội phạm
Đối với tội chống người thi hành công vụ thì mặc khách quan của tội
phạm là những gì được thể hiện ra bên ngoài của tội phạm, bao gồm: Hành vi
nguy hiểm cho xã hội, hành vi nguyên hiểm phải có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả cũng như các biểu hiện bên ngoài khác (công cụ,
phương tiện, địa điểm, thời gian, …).
Đối với tội chống người thi hành công vụ, dấu hiệu thuộc mặt khách
quan của tội phạm được mô tả trong cấu thành là dấu hiệu hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Do đó, tội phạm này hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực
hiện hành vi chống người thi hành công vụ. Theo Điều 330 BLHS năm 2015,

19



×