Tải bản đầy đủ (.docx) (113 trang)

Nâng cao năng lực cán bộ quản lý tại Kho bạc Nhà nước Đức Trọng – Lâm Đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (752.57 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH & CÔNG NGHỆ HÀ NỘI


LÊ TIẾN ĐẠI

NÂNG CAO NĂNG LỰC CÁN BỘ QUẢN LÝ
TẠI KHO BẠC NHÀ NƯỚC ĐỨC TRỌNG – LÂM ĐỒNG
Chuyên ngành

: Quản trị kinh doanh

Mã số

: 60.34.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. ĐINH VĂN TIẾN

1


HÀ NỘI - 2018

LỜI CAM ĐOAN
Cam đoan của tác giả đề tài “Nâng cao năng lực cán bộ quản lý tại Kho
bạc Nhà nước Đức Trọng – Lâm Đồng”.
“Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học do tác giả nghiên cứu các
tài liệu, thu thập các thông tin và quan sát, nghiên cứu thực trạng về năng lực


cán bộ lãnh đạo quản lý tại Kho bạc Nhà nước Đức Trọng – Lâm Đồng để đưa
ra các giải pháp, biện pháp với mong muốn nâng cao năng lực cho cán bộ lãnh
đạo quản lý nhằm đảm bảo chất lượng công tác cán bộ lãnh đạo quản lý góp
phần cho sự phát triển chung của tổ chức.
Tài liệu được trích dẫn rõ ràng, có nguồn và tác giả trích dẫn.
Số liệu dựa trên các văn bản thực tế và qua quá trình khảo sát điều tra.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước Nhà trường và Hội đồng khoa học về tính
minh bạch của Luận văn này”

Tác giả

Lê Tiến Đại

2


MỤC LỤC
PHỤ LỤC

3


DANH MỤC BẢNG, HÌNH

4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

5


KBNN

Kho bạc nhà nước

NSNN

Ngân sách nhà nước

CS

Chính sách



Quyết định

PGĐ

Phó Giám đốc

TP

Thành phố

TCCB

Tổ chức cán bộ

CB


Cán bộ

QHCB

Quy hoạch cán bộ


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác quản lý có tầm quan trọng đặc biệt do tác động chính trị, kinh
tế, xã hội của nó. Đồng thời cũng mang tính đặc biệt tinh tế, phức tạp do đối
tượng tác động của công việc. Để có thể điều chỉnh được các quá trình phát
triển kinh tế-xã hội, người cán bộ quản lý phải hiểu được bản chất và tính quy
luật của các hiện tượng, quá trình xã hội đó, làm sao có thể tập hợp, tổ chức,
định hướng suy nghĩ và hành động của quần chúng, phải hiểu và “biết làm
việc với con người”. Để làm được việc đó, người cán bộ quản lý không chỉ
phải có ý chí và lòng nhiệt thành mà còn phải được trang bị kỹ lưỡng về tri
thức và nghiệp vụ công tác quản lý.
Hoạt động quản lý chủ yếu là làm việc với con người, là sự ảnh hưởng tác
động qua lại giữa các chủ thể nhân cách, là cách giải quyết giữa các mối quan hệ
con người với con người. Để được mọi người đánh giá và thừa nhận là một
người quản lý tốt thì bản thân người quản lý phải có nhân cách mẫu mực, hoàn
thiện hơn những người dưới quyền, thể hiện rõ vai trò định hướng, có ưu thế ảnh
hưởng tác động về nhiều mặt, biết tổ chức tập hợp, lôi cuốn và thúc đẩy mọi
người cùng hoàn thành nhiệm vụ.
Được thành lập vào năm 1990, Kho bạc Nhà nước Đức Trọng với trọng
trách được giao là một tổ chức chính trị thực hiện nhiệm vụ chiến lược của
mình, của Kho bạc nhà nước Việt Nam qua từng thời kỳ. Trải qua quá trình phát
triển bền vững đồng thời cùng với quá trình hội nhập, Kho bạc Nhà nước Đức

Trọng luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Để phát huy tốt vai trò của Kho bạc Nhà nước Đức Trọng nói chung và
nâng cao một bước về chất lượng đội ngũ cán bộ cơ quan Kho bạc Nhà nước
Đức Trọng nói riêng trong thời gian tới, trước những cơ hội và thách thức của
tiến trình hội nhập và mở cửa, thì điều đầu tiên phải nói đến đó là sự tác động
mạnh mẽ đến nguồn nhân lực của cơ quan Kho bạc Nhà nước Đức Trọng: sự
thiếu hụt năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ chuyên gia giỏi đầu
6


ngành, lĩnh vực, đội ngũ cán bộ quản lý chưa quen với môi trường hội nhập.
Với những hạn chế về nguồn nhân lực như vậy sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả của tổ
chức trong tương lai. Vấn đề đặt ra là cần phải có những nghiên cứu, đánh giá
được năng lực hiện tại của cán bộ quản lý Kho bạc Nhà nước Đức Trọng, từ đó
đề ra giải pháp nâng cao năng lực của cán bộ quản lý Kho bạc Nhà nước huyện
Đức Trọng trong thời gian tới.
Với lý do trên, tôi lựa chọn vấn đề “Nâng cao năng lực cho cán bộ quản
lý tại Kho bạc Nhà nước Đức Trọng – Lâm Đồng” là đề tài nghiên cứu trong
luận văn này.
2.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục đích của đề tài là phân tích và làm rõ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về năng lực của cán bộ quản lý và xác định vị trí, vai trò của cán bộ quản lý
trong sự nghiệp đổi mới, phân tích và đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý
tại Kho bạc Nhà nước Đức Trọng. Từ đó, đề xuất phương hướng, giải pháp
nhằm góp phần nâng cao năng lực quản lý của cán bộ quản lý tại Kho bạc Nhà
nước Đức Trọng.
Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận văn là:

- Nghiên cứu và làm rõ khái niệm cán bộ công chức, cán bộ quản lý, năng
lực và năng lực quản lý.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực của cán bộ quản lý.
- Xác định các tiêu chí đánh giá năng lực của cán bộ quản lý.
- Đánh giá thực trạng năng lực của cán bộ quản lý tại Kho bạc Nhà nước
Đức Trọng và tìm ra nguyên nhân của kết quả đã đạt được cũng như những mặt
còn tồn tại.
- Đề ra các giải pháp nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý của Kho bạc
Nhà nước Đức Trọng trong thời gian tới.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

a.

Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là năng lực của các cán bộ quản lý tại
Kho bạc Nhà nước Đức Trọng.
7


b. Phạm vi nghiên cứu:

- Về nội dung: Luận văn chỉ đề cập đến đội ngũ cán bộ quản lý tại Kho
bạc Nhà nước Đức Trọng, Lâm Đồng.
- Về không gian: Điều tra đội ngũ nhân lực cơ quan Kho bạc Nhà nước
Đức Trọng, Lâm Đồng.
- Về thời gian: Dữ liệu được thu thập tính đến đến tháng 07/2018 và tầm
nhìn 2030.

4. Phương pháp nghiên cứu.

a. Xây dựng bảng yêu cầu về năng lực của cán bộ quản lý Kho bạc
Nhà nước Đức Trọng
Nguồn dữ liệu thu thập: Dữ liệu thứ cấp về yêu cầu năng lực cho cán bộ
quản lý Kho bạc Nhà nước Đức Trọng: Bản mô tả công việc hiện tại, hệ thống
kiến thức, kỹ năng chung của chức danh, tài liệu đào tạo của cơ quan. Tham
khảo khung năng lực của cơ quan, đơn vị có cùng cơ cấu cán bộ.
Kết quả thu thập dữ liệu: Bảng danh sách các năng lực cần thiết đối với
cán bộ quản lý .
b. Đánh giá năng lực hiện tại của đội ngũ cán bộ quản lý Kho bạc
Nhà nước Đức Trọng
Nguồn dữ liệu thu thập: Dữ liệu sơ cấp về năng lực hiện tại của cán bộ
quản lý Kho bạc Nhà nước Đức Trọng.
Đối tượng điều tra: cán bộ quản lý tại Kho bạc nhà nước Đức Trọng.
Phương pháp điều tra: Bảng hỏi
Đối tượng được hỏi: Cán bộ quản lý và cán bộ công chức tại Kho bạc Nhà
nước Đức Trọng
Nội dung phỏng vấn:
- Đánh giá trình độ kiến thức, kỹ năng, thái độ làm việc của cán bộ quản
lý Kho bạc Nhà nước Đức Trọng theo các tiêu chí được liệt kê trong bảng hỏi.
Kết quả điều tra: Khoảng cách giữa năng lực yêu cầu và năng lực hiện tại
của đội ngũ cán bộ quản lý tại Kho bạc Nhà nước Đức Trọng.
8


c. Giải pháp nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý Kho bạc Nhà nước
Đức Trọng
Phương pháp: Dựa trên kết quả phân tích, đánh giá của hai phần trên,
luận văn sẽ kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực của cán bộ quản

lý Kho bạc Nhà nước Đức Trọng.
5. Ý nghĩa đóng góp mới của luận văn:
- Hệ thống lý luận, phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp có luận cứ
khoa học.
- Luận văn là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý giảng dạy.
6. Kết cấu luận văn
Luận văn bao gồm 3 chương như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về năng lực cán bộ quản lý và nâng cao năng lực
cán bộ quản lý.
Chương 2. Thực trạng năng lực cán bộ quản lý tại Kho bạc Nhà nước Đức
Trọng – Lâm Đồng.
Chương 3. Giải pháp nâng cao năng lực cho các cán bộ quản lý tại Kho
bạc Nhà nước Đức Trọng – Lâm Đồng.
7. Phụ lục
8. Tài liệu tham khảo

9


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CÁN BỘ QUẢN LÝ
VÀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CÁN BỘ QUẢN LÝ
1.1 Khái niệm về cán bộ quản lý và năng lực cán bộ quản lý
1.1.1 Khái niệm về cán bộ công chức

Quan niệm cán bộ công chức là quan niệm mang tính lịch sử, chính trị. Nội
hàm của nó phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của nền công vụ của từng quốc gia,
cũng như từng giai đoạn cụ thể của từng quốc gia đó. Vì vậy trong thực tế, khó có
một quan niệm về cán bộ công chức một cách thống nhất cho tất cả các quốc gia,
mà ngay trong một quốc gia thì khái niệm cán bộ công chức cũng khác nhau trong
từng thời kỳ.

Tại Pháp, quan niệm về cán bộ công chức đầu tiên được xác định bằng “lệ
quan”, song trong đó khái niệm cán bộ công chức cũng chưa thật sự rõ ràng, đến
năm 1984 bằng việc ra đời bộ luật mới: “Luật địa vị nói chung của công chức”
Thì nội hàm từ cán bộ công chức cũng như địa vị, quyền và nghĩa vụ công chức
mới được xác định rõ ràng hơn. Theo luật nay, cán bộ công chức của Pháp bao
gồm toàn bộ những người được nhà nước hoặc cộng đồng lãnh thổ (công xã,
tỉnh, lĩnh vùng) bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên trong một công sử Nhà
nước hoặc một công sử tự quản, kể cả các bệnh viện và được biên chế vào một
ngạch của nền hành chính công. Công chức được gọi chung là nhân viên công
chức bao
gồm: nhân viên làm việc trong Bộ máy Hành chính Nhà nước, các Quan toà,
nhân viên sự nghiệp quốc doanh, nhân viên đơn vị quân sự và nhân viên làm
việc trong Quốc hội. Nhưng không phải tất cả nhân viên công chức đều chịu sự
điều chỉnh bởi luật công chức, mà chỉ có nhân viên giữ các chức vụ thường
xuyên trong Bộ máy Hành Chính Nhà nước, còn lại các nhân viên được điều
chỉnh bằng luật lao động, Luật hợp đồng họ được bảo vệ về mặt chức nghiệp.
Tại Anh, năm 1895 thuật ngữ “công chức” là những người do Vua Anh
trực tiếp bổ nhiệm hoặc được Uỷ ban dân sự cấp giấy chứng nhận hợp lệ cho
10


phép tham gia công tác của cơ quan dân sự và những người mà toàn bộ tiền
lương được hưởng từ ngân sách thống nhất của Vương quốc liên hợp hoặc và
các khoản khác được Nghị viện thông qua. Đến năm 1977, quan niệm công chức
được giải thích rõ hơn đó là những người thay mặt Nhà nước giải quyết công
việc công. Những người không có được vị trí trong Bộ máy Nhà nước được
pháp luật quy định thì không phải là công chức, Ví du: nhân viên Chính trị, nhân
viên Tư pháp….
Tại Trung Quốc cán bộ dùng chung để chỉ những nhân viên, công chức để
phân biệt với nhân viên tập sự, bình linh, công nhân; còn một nghĩa nữa là

chuyên chỉ những người có trách nhiệm quản lý và công chức không quản lý,
được tuyển dụng vào các cơ quan nhà nước thông quan một chế độ thi tuyển rất
khắt khe. Bằng cách liệt kê cụ thể những ngạch công chức không quản lý, và
những chức danh của công chức quản lý, Trung Quốc đã chỉ ra cụ thể những đối
tượng là công chức.
Tại Nhật Bản hiện nay, từ cán bộ phần lớn được dùng trong quân đội để
chỉ những người đóng vai trò bộ khung, còn để chỉ công chức hay viên chức họ
dùng từ “quan liêu”, theo nghĩa phổ biến là những người làm việc trong bộ
máy nhà nước.
Tại Việt Nam, khái niệm cán bộ công chức được thay đổi theo từng thời
kỳ. Ban đầu từ “cán bộ” được dùng để chỉ những người có chức vụ, vai trò và
cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có ảnh hưởng tác động đến hoạt động của
tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, đóng góp
phần định hướng phát triển của tổ chức. Đồng thời có thể hiểu rằng: cán bộ là
khái niệm chỉ những người làm việc, công tác có chức vụ trong một cơ quan,
một bộ máy nhất định của Đảng và Nhà nước, là người được đào tạo, rèn luyện
thử thách và trưởng thành trong quá trình thi hành đường lối, nhiệm vụ chính trị
của Đảng và Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng: “Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho quần chúng hiểu
rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình người dân báo cáo cho Đảng và Chính
11


phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng ”, “Vì vậy cán bộ là cái gốc của mọi
việc”. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của mình, Người luôn quan tâm
đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ. Người nói: Việc đào tạo bồi dưỡng, huấn
luyện cán bộ là “Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng
những cây cối quý báu, phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng những người có
ích cho công việc chung của chúng ta”.
Hiện nay, theo Luật cán bộ công chức năm 2008 qui định tại điều 1: Cán

bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức
danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà
nước.
Thực tế cho thấy, cán bộ luôn gắn liền với chức vụ, chức danh theo nhiệm
kỳ; hoạt động của họ gắn với quyền lực chính trị được nhân dân hoặc các thành
viên trao cho và chịu trách nhiệm chính trị trước Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Việc quản lý cán bộ phải thực hiện theo các văn bản pháp luật chuyên ngành
tương ứng điều chỉnh hoặc theo Điều lệ. Do đó, căn cứ vào các tiêu chí do Luật
Cán bộ, công chức quy định, những ai là cán bộ trong cơ quan của Đảng, tổ
chức chính trị - xã hội sẽ được các cơ quan có thẩm quyền của Đảng căn cứ
Điều lệ của Đảng, của tổ chức chính trị - xã hội quy định cụ thể. Những ai là cán
bộ trong cơ quan Nhà nước sẽ được xác định theo quy định của Luật Tổ chức
Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Toà án nhân dân, Luật Tổ
chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân, Luật Kiểm toán Nhà nước và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
1.1.2 Khái niệm cán bộ quản lý
Trước khi nghiên cứu khái niệm cán bộ quản lý chúng ta hãy phân định sự
giống nhau và khác nhau giữa cụm từ “lãnh đạo” và “quản lý” và mỗi quan hệ
giữa chúng .Về cơ bản lãnh đạo là khái niệm rộng hơn quản lý, quản lý được coi
12


là một loại lãnh đạo đặc biệt, trong đó chú trọng đến hoạt động tổ chức, điều
hành, sử dụng các phương tiện và nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu của tổ
chức.
Theo giáo trình Quản trị nguồn nhân lực của PGS.TS Trần Kim Dung
(2003) thì “Lãnh đạo” là khả năng ảnh hưởng, thu hút và tập hợp những người

cùng chung với một hướng, theo đuổi một hoặc một số mục tiêu nhất
định.Người lãnh đạo là người đứng đầu một tổ chức, vạch ra phương hướng,
chiến lược phát triển cho tổ chức, thuyết phục và vận động mọi người cùng thực
hiện.
Theo giáo trình quản lý hành chính Nhà nước, Học viện hành chính quốc
gia. “Quản lý ” là hoạt động tổ chức, điều hành, điều chỉnh, chỉ đạo các các
nguồn lực của tổ chức theo những cách thức nhất định nhằm thực hiện được
mục tiêu của tổ chức.
Theo thuật ngữ hành chính,Viện nghiên cứu hành chính “Quản lý là thuật
ngữ chỉ hoạt động có ý thức của con người nhằm sắp xếp tổ chức, chỉ huy, điều
hành, hướng dẫn, kiểm tra…Các quá trình xã hội và hoạt động của con người để
hướng chúng phát triển phù hợp với quy luật xã hội, đạt được mục tiêu đã xác
định theo ý trí của nhà quản lý với chi phí thấp nhất”.
Giữa “Lãnh đạo và Quản lý” đều giống nhau ở chỗ cả hai đều biểu hiện
những tác động tự giác của chủ thể lãnh đạo, quản lý đến đối tượng (khách thể)
lãnh đạo quản lý trên cơ sở những quy luật khách quan vốn có của đối tượng,
nhằm đảm bảo cho đối tượng vận động và phát triển một cách tối ưu theo những
mục tiêu đã định trước. Mặc dù lãnh đạo và quản lý có điểm giống nhau nhưng
không thể nói là giống nhau hoàn toàn nó có những điểm khác biệt nhau. Trước
hết “Quản lý” là sự điều khiển vận hành một hoạt động nào đó, đối tượng của
nó vừa có thể là con người, vừa có thể là công cụ. Còn “Lãnh đạo” là quá trình
làm thức tỉnh hành vi của con người vừa có thể định hướng hoạt động của con
người và xã hội. Như vậy đối tượng tác động của lãnh đạo là con người. Hơn thế
nữa trong “lãnh đạo” con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của mọi sự tác
13


động. Nói cách khác một người lãnh đạo tốt phải là người có uy tín cao trong tập
thể. Chủ tịch Hồ Chí Mình đã từng nói: Sự lãnh đạo của Đảng phải xuất phát từ
quần chúng và trở lại nơi quần chúng vì thế phải là phương pháp dân chủ. Lãnh

đạo phải bằng cách thuyết phục và nêu gương như Đảng chỉ rõ. Vì vậy trong
quản lý, sự tác động mang tính điều khiển vận hành thông qua những thiết chế
mang tính pháp lệnh. Do đó mệnh lệnh hành chính là phương pháp đặc trưng
của quản lý. Sự phân biệt giữa “Quản lý và Lãnh đạo” ở đây cũng chỉ là tương
đối không mang tính máy móc, nhưng lại có quan hệ mật thiết và tác động lẫn
nhau trong từng đối tượng tác động và từng nội dung tác động của nó. Do đó
cũng không khác gì một giám đốc làm kinh doanh một xí nghiệp nào đó vừa là
nhà quản lý giỏi đồng thời là nhà lãnh đạo có uý tín. Cho nên lãnh đạo và quản
lý là hai lĩnh vực khác nhau nhưng không hoàn toàn tách biệt, mà lại gắn bó mật
thiết với nhau, thống nhất chặt chẽ trong hoạt động của những người có chức vụ
trong hệ thống tổ chức xã hội. Đó chính là cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Theo cách hiểu thông thường và được phổ biến hiện nay khái niệm cán bộ
lãnh đạo còn gắn liền với khái niệm cán bộ quản lý được hiểu là những người có
chức vụ và trách nhiệm điều hành, cầm đầu trong các cơ quan, các tổ chức sự
nghiệp, kinh doanh như giám đốc, vụ trưởng, viện trưởng. Nội hàm khái niệm
cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý đều là chủ thể ra quyết định, điều khiển hoạt
động của một tổ chức, người cán bộ lãnh đạo cũng phải thực hiện chức năng
quản lý và một người bộ quản lý cũng phải thực hiện chức năng lãnh đạo.
Cán bộ quản lý là những người điều hành, nhà quản lý là những người có
chức và nhiệm vụ điều khiển, tổ chức và phối hợp thực hiện hoạt động chuyên
môn trong một khâu, một công đến, một chương trình dự án.
Trong khái niệm cán bộ lãnh đạo ở tầm vĩ mô, họ là những người đứng
đầu tổ chức, quốc gia. Thế giới hiện đại gọi là nhóm lãnh đạo chính trị quốc gia,
hay còn gọi là cán bộ lãnh đạo cao cấp, chủ chốt. Nhìn lại lịch sử ở bất kỳ thời
đại nào cũng thấy sự thể hiện vai trò quyết định vận mệnh quốc gia, dân tộc theo
hai hướng: Khi tích cực, vai trò ấy là sự định hướng đúng, thúc đẩy xã hội tiến
14


bộ, dân tộc có cuộc sống văn minh, huy động và quy tụ được tài đức xã hội để

chấn hưng, đổi mới đất nước. Khi tiêu cực vai trò ấy là kìm hãm, đẩy lùi tiến bộ
xã hội, gây nên tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Trên thực tiễn nước ta khi bước
vào thế kỷ mới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trên cơ sở một
quan niệm mới về phân loại, phân định chức danh của các nhóm cán bộ và công
chức, phải xây dựng tiêu chuẩn, quy chế hoạt động cho từng loại, từ đó có sự đổi
mới về chính sách tuyển chọn, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng đãi ngộ và quản lý
phù hợp.
Như vậy, về cơ bản lãnh đạo là khái niệm rộng hơn quản lý, quản lý được
coi là một loại lãnh đạo đặc biệt, trong đó việc đạt được mục tiêu mới quan
trọng.
Cán bộ quản lý là người đứng đầu một tổ chức, một cơ quan nào đó, một
nghành trong cơ quan nhà nước các cấp từ trung ương đến cơ sở. Cán bộ quản lý
là những người được tập thể uỷ nhiệm có quyền thay mặt tập thể giải quyết và
xử lý các vụ việc, tình huống diễn ra có liên quan đến tổ chức mà họ phụ trách.
Lênin cho rằng “ cán bộ phải là người có tài tổ chức, có bộ óc sáng suốt, có bản
lĩnh tháo vát trong thực tiễn và trung thành với CNXH” (bất chấp sự hỗn loạn và
ồn ào) tổ chức công tác chung vững chắc và nhịp nhàng. Lênin còn nhấn mạnh “
đội ngũ cán bộ nói chung cán bộ quản lý ” giữ vị trí hết sức quan trọng vì họ là
hạt nhân, là những người quản lý chủ yếu, được giao những nhiệm vụ và trách
nhiệm quan trọng nhất trong tổ chức của Đảng và Nhà nước.
Như vậy, khái niệm cán bộ quản lý trong cơ quan hành chính Nhà nước
được hiểu là: Cán bộ quản lý là những người được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, có vai trò và cương vị nòng cốt trong một cơ quan, một tổ chức; có
ảnh hưởng tác động đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo,
chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng phát triển của tổ chức theo
các mục tiêu đã đề ra.
Từ những quan niệm trên có thể hiểu các chức danh cán bộ quản lý tại
Kho Bạc Nhà Nước ở địa phương của Đảng ta hiện nay bao gồm: Từ Ban Giám
15



đốc, Trưởng phòng – Tổ trưởng, Phó phòng – Tổ phó, Kế toán trưởng, Giám đốc
Kho Bạc, Phó Giám đốc Kho bạc tại Kho bạc Nhà nước các quận, huyện, thị xã
trực thuộc.
1.1.3. Kho bạc Nhà nước
1.1.3.1.Khái niệm
Theo Trần Vũ Hải và Hoàng Minh Thái (2013), Kho bạc Nhà nước (State
Treasury) đã có từ lâu. Thuật ngữ “Treasury” theo nguồn gốc La tinh có nghĩa là
“vật quý” hay “kho báu”. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, những
vật quý tìm được ngày một nhiều hơn, dần dần được tập trung vào tay những
người có thế lực, hình thành các kho cất giữ châu báu. Khi các bộ tộc xuất hiện,
kho báu chính là nơi cất giữ tập trung các tài sản quý của cộng đồng bộ tộc.
Cùng với sự ra đời của Nhà nước cổ đại, bộ máy quản lý tài sản của Nhà
nước cũng được hình thành, theo đó, xuất hiện các tổ chức chuyên quản lý các
loại tài sản quý của Nhà nước và các khoản thu nhập công (tô, thuế). Tổ chức
này dần dần hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy để trở thành
Ngân khố quốc gia hay Kho bạc Nhà nước sau này.
Dưới chế độ quân chủ, các vua chúa thường chọn những người ruột thịt,
thân tín cho làm quan coi giữ các kho châu báu, tiền bạc, vũ khí để củng cố sức
mạnh của Nhà nước và quân đội. Trong thế giới tư bản, cùng với sự phát triển về
kinh tế - tài chính, bộ máy Kho bạc Nhà nước trở thành một loại công sở đặc
biệt, với chức năng chủ yếu là quản lý các khoản thu chi của ngân sách Nhà
nước; các loại tài sản quý hiếm; các nguồn dự trữ tài chính - tiền tệ của Nhà
nước.
Ngày nay, mặc dù còn có nhiều khác biệt về lịch sử và kinh tế, song hầu
hết các nước đều có cơ quan Kho bạc Nhà nước. Ở các nước phát triển, bộ máy
Kho bạc Nhà nước được thành lập khá sớm và hoàn chỉnh như Vương quốc Anh
và Hoa Kỳ - năm 1789-1790; Pháp – năm 1800; Canada – năm 1867.

16



1.1.3.2. Nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Kho bạc Nhà nước
a. Nhiệm vụ
Theo Quyết định số 235/2003/QĐ-TTg, của Thủ tướng Chính phủ về quy
định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Kho bạc Nhà nước, KBNN có
những nhiệm vụ như sau:
- Tập trung và phản ánh các khoản thu ngân sách nhà nước, thực hiện điều
tiết thu ngân sách nhà nước cho các cấp ngân sách theo quy định của cấp có
thẩm quyền.
- Thực hiện chi trả và kiểm soát chi ngân sách nhà nước theo từng đối
tượng thụ hưởng theo dự toán ngân sách nhà nước được duyệt.
- Kiểm soát và thực hiện việc xuất, nhập các quỹ dự trữ tài chính nhà
nước, tiền, tài sản tạm thu, tạm giữ và các khoản tịch thu đưa vào tài sản nhà
nước theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
- Mở tài khoản, kiểm soát tài khoản tiền gửi và thực hiện thanh toán, giao
dịch bằng tiền mặt, chuyển khoản với các cơ quan, đơn vị, các nhân có quan hệ
giao dịch với Kho bạc Nhà nước.
- Tổ chức huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển
thông qua các hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ, Công trái xây dựng tổ
quốc...theo quy định của Chính phủ.
- Tổ chức kế toán, thống kê và báo cáo quyết toán quỹ ngân sách nhà
nước, quỹ dự trữ tài chính nhà nước, tiền và tài sản tạm thu, tạm giữ.
- Mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước hoặc Ngân hàng thương mại quốc
doanh để giao dịch thanh toán giữa Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng.
- Tổ chức thanh toán, điều hoà vốn và tiền mặt trong hệ thống Kho bạc
Nhà nước, bảo đảm tập trung nhanh, đầy đủ các khoản thu, đáp ứng đầy đủ, kịp
thời nhu cầu thanh toán, chi trả của ngân sách Nhà nước.
- Lưu trữ, bảo quản tài sản, tiền và các chứng chỉ có giá của Nhà nước,
của các cơ quan, đơn vị, các nhân gửi tại Kho bạc Nhà nước.

17


- Khi phát hiện đơn vị, tổ chức thụ hưởng ngân sách nhà nước vi phạm
chế độ quản lý tài chính nhà nước, Kho bạc Nhà nước được tạm thời đình chỉ
việc chi trả, thanh toán và báo cáo với cấp có thẩm quyền để xử lý.
- Tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra trong hệ thống Kho bạc Nhà nước.
- Tổ chức quản lý hệ thống thông tin, tin học trong toàn hệ thống Kho bạc
Nhà nước.
- Quản lý công chức, viên chức, vốn và tài sản thuộc hệ thống Kho bạc
Nhà nước.
b. Tổ chức bộ máy
- Kho bạc Nhà nước được tổ chức như một Bộ trực thuộc Chính phủ. Mô
hình này phổ biến ở Mỹ, Anh, Canada, Úc... Ngoài nhiệm vụ chính là lập cân
đối thu chi tiền tệ, phát hành tiền, quản lý nợ quốc gia và các loại tài sản quý
hiếm, Kho bạc một số nước còn làm nhiệm vụ quản lý biên chế công chức Nhà
nước.
- Kho bạc Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính (hoặc Bộ Kinh tế-Tài chính)
gồm phần lớn các nước ở Tây Âu và Trung Âu, điển hình là Pháp, Ðức, Ý... và
các nước ở Ðông Nam á như Indonexia, Malaysia, Thái Lan,Việt Nam...Kho bạc
Nhà nước còn có tên gọi khác như Vụ quản lý tài chính công, Vụ Kế toán công,
trong đó có các nghiệp vụ quản lý quỹ ngân sách Nhà nước, kế toán và quyết
toán ngân sách Nhà nước, quản lý nợ công...
- Kho bạc Nhà nước trực thuộc Ngân hàng Trung ương như ở Nga, Trung
Quốc, các nước Ðông Âu và Châu Phi. Trong bộ máy của Ngân hàng trung ương
có một đơn vị làm nhiệm vụ quản lý quỹ ngân sách Nhà nước, đặc trách theo dõi
và giúp Bộ Tài chính quản lý các khoản thu chi ngân sách Nhà nước, phối hợp
với Vụ Ngân sách Nhà nước của Bộ Tài chính làm nhiệm vụ kế toán và quyết
toán ngân sách Nhà nước.
- Kho bạc Nhà nước trực thuộc một Bộ của Chính phủ. Ðây là một mô

hình khá đặc biệt, tồn tại ở một số nước thuộc khu vực Trung Cận Ðông và Tây
Á.. ở Thổ Nhĩ Kỳ, ngoài một số Bộ được gọi là “siêu bộ” như Tài chính, Ngoại
18


giao, Quốc phòng, các cơ quan còn lại được phân thành các nhóm để hình thành
các Bộ 1, Bộ 2, Bộ 3 của Chính phủ. Theo mô hình này, Bộ 1 của Chính phủ
gồm có các cơ quan Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước, Thương mại, Kế
hoạch - Thống kê.
Như vậy, có thể thấy rằng Kho bạc Nhà nước ở các nước ra đời khá sớm,
hầu hết được chia tách và phát triển từ cơ quan Tài chính, chuyên môn hoá công
tác quản lý ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, mô hình tổ chức bộ máy và chức
năng, nhiệm vụ của Kho bạc Nhà nước ở các nước còn có nhiều điểm khác
nhau.
Trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam, hệ thống Kho bạc Nhà nước được
thành lập và nhanh chóng trở thành công cụ sắc bên trong quản lý mọi hoạt động
thu chi ngân sách Nhà nước. Vượt qua chặng đường đầu tiên đầy khó khăn và
thách thức, với sự phấn đấu nỗ lực Kho bạc Nhà nước đã hoàn hành suất sắc mọi
nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
KBNN Lâm Đồng là cơ quan đóng trên địa tỉnh Lâm đồng giúp UBND
tỉnh thực hiện chức năng tham mưu và quản lý Nhà nước về quỹ ngân sách
Nhà nước (NSNN), các quỹ tài chính nhà nước (TCNN); quản lý ngân quỹ Nhà
nước; tổng kế toán Nhà nước; thực hiện việc huy động vốn cho NSNN và cho
đầu tư phát triển thông qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ theo quy
định của pháp luật.
Từ ngày thành lập, chức năng, nhiệm vụ của KBNN Lâm Đồng ngày
càng phát triển, góp phần quan trọng cho địa phương hoàn thành tốt các nhiệm
vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước giao phó, từng bước xây dựng, ổn định,
hoàn thiện và phát triển, khẳng định được vị thế, vai trò trong hệ thống công cụ

quản lý tài chính - NSNN trên địa bàn tỉnh.
Nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của KBNN cấp huyện (Quyết
định số 695/QĐ-KBNN của Kho bạc Nhà nước ban hành ngày 16/07/2015)
19


. Vị trí và chức năng
Kho bạc Nhà nước ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung
là Kho bạc Nhà nước cấp huyện) là tổ chức trực thuộc Kho bạc Nhà nước ở tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh) có
chức năng thực hiện nhiệm vụ của Kho bạc Nhà nước trên địa bàn theo quy định
của pháp luật.Kho bạc Nhà nước cấp huyện có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con
dấu riêng và được mở tài khoản tại ngân hàng thương mại trên địa bàn để thực
hiện giao dịch, thanh toán theo quy định của pháp luật.
. Nhiệm vụ
1. Tổ chức thực hiện thống nhất các văn bản quy phạm pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, chương trình, dự án, đề án thuộc phạm vi quản lý của Kho bạc
Nhà nước cấp huyện sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
2. Quản lý quỹ ngân sách Nhà nước và các khoản tạm thu, tạm giữ, tịch
thu, ký cược, ký quỹ, thế chấp theo quy định của pháp luật:
a) Tập trung và phản ánh đầy đủ, kịp thời các khoản thu ngân sách Nhà
nước; tổ chức thực hiện việc thu nộp vào quỹ ngân sách Nhà nước các khoản
tiền do các tổ chức và cá nhân nộp tại Kho bạc Nhà nước cấp huyện; thực hiện
điều tiết các khoản thu cho các cấp ngân sách theo quy định;
b) Thực hiện kiểm soát, thanh toán, chi trả các khoản chi ngân sách Nhà
nước và các nguồn vốn khác trên địa bàn theo quy định của pháp luật;
c) Quản lý tiền, tài sản, ấn chỉ đặc biệt, các loại chứng chỉ có giá của Nhà
nước và của các đơn vị, cá nhân gửi tại Kho bạc Nhà nước cấp huyện.
3. Thực hiện giao dịch thu, chi tiền mặt và các biện pháp bảo đảm an toàn
kho, quỹ tại Kho bạc Nhà nước cấp huyện.

20


4. Thực hiện công tác kế toán ngân sách Nhà nước:
a) Hạch toán kế toán về thu, chi ngân sách Nhà nước, các khoản vay nợ,
trả nợ của Chính phủ, chính quyền địa phương và các hoạt động nghiệp vụ kho
bạc tại Kho bạc Nhà nước cấp huyện theo quy định của pháp luật;
b) Báo cáo tình hình thực hiện thu, chi ngân sách nhà nước cho cơ quan tài
chính cùng cấp và cơ quan Nhà nước có liên quan theo quy định của pháp luật.
5. Thực hiện công tác điện báo, thống kê về thu, chi ngân sách nhà nước,
các khoản vay nợ, trả nợ của Chính phủ và chính quyền địa phương theo quy
định; xác nhận số liệu thu, chi ngân sách nhà Nước qua Kho bạc Nhà nước cấp
huyện.
Tổng hợp, đối chiếu tình hình thực hiện các hoạt động nghiệp vụ phát sinh
tại Kho bạc Nhà nước cấp huyện.
6. Quản lý ngân quỹ Nhà nước tại Kho bạc Nhà nước cấp huyện theo chế
độ quy định:
a) Mở tài khoản, kiểm soát tài khoản và thực hiện thanh toán bằng tiền
mặt, bằng chuyển khoản đối với các tổ chức, cá nhân có quan hệ giao dịch với
Kho bạc Nhà nước cấp huyện;
b) Mở tài khoản, kiểm soát tài khoản của Kho bạc Nhà nước cấp huyện tại
ngân hàng thương mại trên cùng địa bàn để thực hiện các nghiệp vụ thu, chi,
thanh toán của Kho bạc Nhà nước theo chế độ quy định;
c) Tổ chức thanh toán, đối chiếu, quyết toán thanh toán liên kho bạc theo
quy định.
7. Thực hiện công tác phát hành, thanh toán trái phiếu Chính phủ theo quy định.
21


8. Thực hiện công tác tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố

cáo tại Kho bạc Nhà nước cấp huyện theo quy định.
9. Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin tại Kho bạc Nhà nước cấp huyện.
10. Quản lý đội ngũ công chức, lao động hợp đồng; thực hiện công tác
văn thư, lưu trữ, hành chính, quản trị, tài vụ tại Kho bạc Nhà nước cấp huyện
theo quy định.
11. Tổ chức thực hiện chương trình hiện đại hoá hoạt động Kho bạc Nhà
nước; thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính theo mục tiêu nâng cao chất
lượng hoạt động, công khai hóa thủ tục, cải tiến quy trình nghiệp vụ và cung cấp
thông tin để tạo thuận lợi phục vụ khách hàng.
12. Quản lý các điểm giao dịch thuộc Kho bạc Nhà nước cấp huyện theo
quy định.
13. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Kho bạc Nhà nước cấp
tỉnh giao.

. Quyền hạn
Kho bạc Nhà nước cấp huyện có quyền:
1. Trích tài khoản tiền gửi của tổ chức, cá nhân để nộp ngân sách nhà
nước hoặc áp dụng các biện pháp hành chính khác để thu cho ngân sách nhà
nước theo quy định của pháp luật.
2. Được từ chối thanh toán, chi trả các khoản chi không đúng, không đủ
các điều kiện theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về quyết định của
mình.
. Cơ cấu tổ chức
22


1. Kho bạc Nhà nước cấp huyện tổ chức thành 2 tổ: Tổ Tổng hợp – Hành

chính và Tổ Kế toán nhà nước.
Kho bạc Nhà nước quận đóng trên địa bàn thành phố trực thuộc Trung

ương và Kho bạc Nhà nước thành phố đóng trên địa bàn đô thị loại I, loại II
thuộc tỉnh tổ chức thành 02 phòng: Phòng Tổng hợp - Hành chính và Phòng Kế
toán Nhà nước.
Tổ (phòng) có Tổ trưởng (Trưởng phòng) và Tổ phó (Phó Trưởng phòng).
2. Tại các địa bàn có khối lượng giao dịch lớn, Kho bạc Nhà nước cấp
huyện có thể tổ chức các điểm giao dịch thường xuyên ngoài trụ sở.
. Lãnh đạo Kho bạc Nhà nước cấp huyện
Kho bạc Nhà nước cấp huyện có Giám đốc và Phó Giám đốc.
Giám đốc Kho bạc Nhà nước cấp huyện chịu trách nhiệm toàn diện trước
Giám đốc Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh và trước pháp luật về: thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn; quản lý tiền, tài sản, hồ sơ, tài liệu, công chức, lao động của đơn vị.
Phó Giám đốc Kho bạc Nhà nước cấp huyện chịu trách nhiệm trước Giám
đốc Kho bạc Nhà nước cấp huyện và trước pháp luật về lĩnh vực công tác được
phân công.

23


1.1.4. Vai trò của người cán bộ quản lý
1.1.4.1 Vai trò đối với đơn vị, tổ chức
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động tổ chức và điều hành
để thực hiện quyền lực nhà nước - là hoạt động điều chỉnh các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người bằng quyền lực Nhà nước. Trong đó cán bộ
quản lý là một bộ phận quan trọng, là lực lượng lao động nòng cốt trong bộ máy
hành chính Nhà nước từ trung ương đến địa phương, trực tiếp tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước. Đây chính là lực lượng lao động quyết định việc hoàn
thành chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước. Hiệu lực của bộ
máy Nhà nước nói chung và của hệ thống hành chính nói riêng, xét cho cùng
được quyết định bởi phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực... và hiệu
quả hoạt động của đội ngũ công chức, đặc biệt là đội ngũ công chức lãnh đạo

quản lý.
Giáo sư Henry Minzberg một nhà tư vấn nổi tiếng của nước Mỹ trong lĩnh
vực quản lý, từ cuối những năm của thập kỷ 60 đã đưa ra một cách nhìn thực
tiễn, cụ thể về vai trò của người quản lý trong tổ chức. Theo ông, người quản lý
cần thể hiện được 10 vai trò chủ yếu và được nhóm thành 3 nhóm thể hiện trong
hình 1.1.

24


Hình 1.1 Vai trò của cán bộ quản lý trong cơ quan, tổ chức
Thẩm quyền và vị trí chính

Vai trò quan hệ:
Vai trò đại diện
Vai trò lãnh đạo
Vai trò liên hệ

Vai trò thông tin: Vai trò ra quyết định:
- Vai trò phát hiện và phát triển ý tưởng
Vai trò theo dõi
- Vai trò thông báo - Vai trò giải quyết mâu thuẫn
- Vai trò phân bổ nguồn lực
Vai trò người phát ngôn
- Vai trò đàm phán

Nhóm vai trò quan hệ:
Vai trò đại diện
Người quản lý có vai trò đại diện cho tổ chức, nhà quản lý phải thực hiện
một số công việc có tính chất lễ nghi. Chẳng hạn, người quản lý phải chào đón

những đoàn khách tham quan, tiếp khách... Các công việc này là cần thiết để
làm cho hoạt động của tổ chức trở nên trôi chảy và do đó nhà quản lý không thể
không quan tâm đến chúng.
1. Vai trò lãnh đạo

Nhà quản lý chịu trách nhiệm về công việc của những người trong đơn vị
đó và các hành động thực hiện trách nhiệm này tạo nên vai trò lãnh đạo. Một số
trong các hành động trực tiếp gắn với vai trò lãnh đạo, như việc chịu trách
nhiệm về tuyển dụng hoặc đào tạo nhân viên của mình. Ngoài ra, thuộc về vai
trò lãnh đạo còn có các hoạt động gián tiếp. Mỗi nhà quản lý cần phải tạo động
lực và khuyến khích các nhân viên của mình, bằng cách nào đó điều chỉnh các
nhu cầu cá nhân của họ phù hợp với các mục đích của tổ chức.

25


×