Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH
BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Bích Phương
Sinh viên thực hiện: Trần Nguyễn Ngọc Bạch
MSSV: 1511270919

Lớp: 15DLK10

TP. Hồ Chí Minh, 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH
BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM

Ngành:


LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Bích Phương
Sinh viên thực hiện: Trần Nguyễn Ngọc Bạch
MSSV: 1511270919

Lớp: 15DLK10

TP. Hồ Chí Minh, 2019


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này trước hết em xin gửi đến quý thầy, cô
trong khoa Luật trường Hutech lời cảm ơn chân thành.
Đặc biệt, em xin gửi đến cô Nguyễn Thị Bích Phượng, người đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này lời cảm ơn sâu sắc
nhất.
Vì kiến thức bản thân còn hạn chế, trong quá trình hoàn thiện khóa luận tốt
nghiệp này em không tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được những ý kiến
đóng góp từ quý thầy, cô khoa Luật trường Hutech.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

Trần Nguyễn Ngọc Bạch


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: Trần Nguyễn Ngọc Bạch, MSSV: 1511270919
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khoá luận tốt nghiệp
này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn đầy đủ và

theo đúng qui định);
Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường
và pháp luật.
Sinh viên

Trần Nguyễn Ngọc Bạch


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
BHNT :

Bảo hiểm nhân thọ

BVNĐBH :

Bảo vệ người được bảo hiểm

DNBH :

Doanh nghiệp bảo hiểm

HĐBH :

Hợp đồng bảo hiểm

HĐBHNT :


Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TIẾNG NƯỚC NGOÀI
International Association of Insurance Supervisors
IAIS :
(Hiệp hội quốc tế các cơ quan giám sát bảo hiểm)
Insurance Core Principles
ICP :
(Các nguyên tắc cốt lõi của bảo hiểm)
The National Association of Insurance Commissioners
NAIC :
(Hiệp hội quốc gia các Ủy ban bảo hiểm Hoa Kỳ)
World Trade Organization
WTO :
(Tổ chức Thương mại Thế giới)


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài ................................................................................... 2
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài....................................................... 2
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu ......................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................... 4
6. Kết cấu của đề tài .................................................................................................. 4
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ VÀ
PHÁP LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ......................................5
1.1. Khái quát về BHNT, sản phẩm BHNT và hoạt động kinh doanh BHNT .... 5
1.1.1.

Bảo hiểm nhân thọ ....................................................................................... 5


1.1.2. Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ .......................................................................... 8
1.1.3. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ................................................... 11
1.2. Khái quát về pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ............................... 12
1.2.1. Khái niệm pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ .................................. 12
1.2.2. Nguyên tắc của pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ .......................... 12
1.2.3. Các yếu tố cấu thành luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ .......................... 13
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 15
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM
NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM ....................................................................................16
2.1. Thực trạng quy định về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ..... 16


2.1.1. Quy định về cấp phép hoạt động và cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ ....................................................................................... 16
2.1.2. Quy định về hoạt động cung ứng dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và hoạt động
đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ ......................................................... 18
2.1.3. Quy định về khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm .................. 26
2.2. Thực trạng quy định về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ................................. 29
2.2.1. Quy định về chủ thể tham gia bảo hiểm........................................................ 29
2.2.2. Quy định về nội dung của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ............................. 31
2.2.3. Quy định về hình thức của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ........................... 33
2.3. Thực trạng quy định về giám sát đối với hoạt động kinh doanh BHNT .... 35
2.3.1. Quy định về nghĩa vụ minh bạch thông tin .................................................. 35
2.3.2. Quy định về thẩm quyền giám sát kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ............. 37
2.3.3. Quy định về nội dung giám sát và phương thức giám sát đối với hoạt động
kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ............................................................................... 38
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 39
Chương 3: NHỮNG BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ KINH DOANH BHNT Ở VIỆT NAM ............................................................40

3.1. Bất cập trong quy định pháp luật hiện hành về kinh doanh BHNT ........... 40
3.1.1. Bất cập về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ........................... 40
3.1.2. Bất cập về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ ....................................................... 44
3.1.3. Bất cập về giám sát đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ....... 47
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ............ 50


3.2.1. Hoàn thiện các quy định về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân
thọ.............................................................................................................................. 50
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ .......................... 53
3.2.3. Hoàn thiện các quy định về giám sát đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ .................................................................................................................... 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 57
KẾT LUẬN ..............................................................................................................58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................59
PHỤ LỤC I ................................................................................................................1
PHỤ LỤC II ...............................................................................................................8
PHỤ LỤC III ...........................................................................................................10


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vừa công bố tình hình ung thư hiệu chỉnh theo độ
tuổi tại 185 quốc gia và vùng lãnh thổ 2018, theo đó: “… Việt Nam xếp vị trí 19 châu
Á và thứ 5 tại khu vực Đông Nam Á”1. Tại Hội nghị tổng kết năm 2018 và triển khai
kế hoạch năm 2019 của Bộ GTVT diễn ra ngày 11/1, Thứ trưởng Lê Đình Thọ thay
mặt Bộ GTVT báo cáo công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông năm 2018, theo
đó: “…Về tình hình tai nạn giao thông (TNGT), cả nước để xảy ra 18.736 vụ tai nạn
giao thông, làm chết 8.248 người, bị thương 14.802 người”2. Ngày 3/10/2018, Cục
Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và Cứu nạn cứu hộ Bộ Công an cho biết: “… trong

9 tháng đầu năm 2018, cả nước xảy ra gần 3.000 vụ cháy, làm chết 73 người, bị
thương 163 người; thiệt hại về tài sản 1.590 tỷ đồng…”3.
Từ những số liệu thống kê dẫn chứng như trên, ta thấy rằng rủi ro về bệnh tật nói
chung bệnh ung thư nói riêng; tai nạn nói chung tai nạn giao thông và tai nạn cháy nổ
nói riêng, đã và đang là những rủi ro dẫn đến tỷ lệ tử vong đáng báo động của người
dân Việt Nam. Có thể nói, những rủi ro kể trên đang trở thành những nỗi ám ảnh hằng
ngày, hằng giờ, mà mỗi người dân Việt không biết khi nào nó sẽ ập đến với mình và
kéo theo các hậu quả tài chính hết sức to lớn. Khi đối mặt với nguy cơ bản thân có
thể gặp các rủi ro bất kỳ thời điểm nào, có nhiều người chọn cách trốn ránh rủi ro,
một số người chọn cách phòng tránh rủi ro, một số khác lại chọn cách tự gánh chịu
rủi ro,... nhưng cách phòng tránh rủi ro hiệu quả nhất đó là “chuyển giao rủi ro”. Đây
là hình thức thông qua hoạt động của các tổ chức bảo hiểm, rủi ro khi xảy ra cho một
số ít các thành viên thì hậu quả của nó (trước hết là mặt tài chính) sẽ được chia nhỏ,
chuyển cho số đông thành viên của cộng đồng cùng gánh chịu; hoặc rủi ro phát sinh
đột ngột vào một thời điểm nào đó, thì hậu quả tài chính sẽ được dàn mỏng cho tất cả
một quảng thời gian dài. Chính vậy, Kinh doanh BHNT đang ngày càng trở thành

Bộ Y tế (2018), Điểm tin y tế ngày 24/9/2018, Cổng thông tin điện tử Bộ Y tế, nguồn:
down load ngày 13/3/2019.
2
Thành Chung (2019), Năm 2018, toàn quốc có 8.248 người chết vì tai nạn giao thông, Báo Nghệ An điện
tử, nguồn: down load ngày 13/3/2019.
3
Phương Sơn (2018), Gần 3.000 vụ cháy khiến 73 người chết trong 9 tháng đầu năm, Báo điện tử
VNExpress, nguồn: down load ngày 13/3/2019.
1

1



một loại hình kinh doanh - dịch vụ phổ biến trong cộng đồng. Người dân càng ngày
càng quan tâm tìm hiểu và có nhu cầu sử dụng loại hình dịch vụ này.
Trên thực tế, kinh doanh BHNT là một công việc đầy ý nghĩa nhân văn, chia sẻ
rủi ro và mang tính phòng vệ. Bên cạnh đó, nó còn là được xem là một kênh đầu tư
hiệu quả đối với nền kinh tế với số vốn hàng nghìn tỷ đô-la Mỹ trên toàn thế giới.
Tuy từ Nghị định 100-CP ngày 18/12/1993, thị trường BHNT ở Việt Nam chính
thức được ghi nhận về mặt pháp lý. Nhưng các quy định về hoạt động kinh doanh bảo
hiểm như thiết kế, phân phối sản phẩm BHNT, hoạt động đầu tư,... còn nhiều hạn
chế. Trong khi đó, yêu cầu hoàn thiện pháp luật kinh doanh BHNT để hội nhập thị
trường quốc tế đang ngày càng cấp bách. Có rất nhiều các chuẩn mực, thông lệ quốc
tế đã được hình thành và áp dụng ở nhiều quốc gia, nhưng chưa được ghi nhận trong
pháp luật kinh doanh BHNT ở Việt Nam, đặc biệt là những khuyến nghị và hướng
dẫn của IAIS, mà Việt Nam đã là thành viên.
Chính vì vậy, người viết đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ ở Việt Nam” làm Khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của Khóa luận tốt nghiệp là góp phần tạo ra cơ sở lý luận và
đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh BHNT.
Để từ đó, khóa luận sẽ là tài liệu tham khảo về pháp luật kinh doanh BHNT.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của Khóa luận tốt nghiệp bao gồm:
Hệ thống quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh BHNT bao gồm:
Luật kinh doanh bảo hiểm, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh bảo
hiểm và các văn bản pháp luật khác có liên quan như Luật Doanh nghiệp, Bộ luật
Dân sự, Luật Thương mại, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Các quan điểm khoa học đã được các người viết cá nhân và các tổ chức công
bố trong các công trình nghiên cứu về kinh doanh bảo hiểm nói chung và kinh doanh
BHNT nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu của Khóa luận tốt nghiệp bao gồm:


2


Những nghiên cứu của Khóa luận tốt nghiệp tập trung vào hệ thống các quy
định pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh BHNT.
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đề tài “Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam” tuy không phải
là mới nhưng còn nhiều khía cạch cần khai thác. Có thể kể đến một số công trình đề
cập đến ở những khía cạnh khác nhau của khóa luận, bao gồm: Trương Mộc Lâm và
Lưu Nguyên Khánh (2001) trong tác phẩm “Một số điều cần biết về pháp lý trong
kinh doanh bảo hiểm”4; Nguyễn Thị Hải Đường (2006) trong công trình “Một số giải
pháp phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam”5; Nguyễn Văn Định (2008)
trong “Giáo trình Bảo hiểm”6; David Bland (1993) trong “Bảo hiểm: Nguyên tắc và
Thực hành”7; Nguyễn Văn Định (2009) trong “Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo
hiểm”8; Võ Trí Thành & Lê Xuân Sang (2013) trong “Giám sát hệ thống tài chính:
Chỉ tiêu và mô hình định lượng”9; Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm (2012) trong bài
“Đánh giá thực tiễn hoạt động giám sát các tập đoàn, doanh nghiệp cung cấp các
dịch vụ tài chính có kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam”10, Trần Thế Anh (2018) trong
“Pháp luật về bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam”11...
○ Người viết có thể đánh giá như sau: khái niệm sản phẩm BHNT vẫn chưa được
định nghĩa dưới góc độ đặc trưng riêng để làm nên sự khác biệt giữa nó với các dịch
vụ thương mại khác; đối với thực trạng quy định về DNBHNT, các tác giả thường
phân tích từng nội dung dưới các khía cạnh chuyên ngành kinh tế học, chưa phân tích
cụ thể dưới góc độ luật học để từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật; hoạt
động giám sát trong kinh doanh BHNT còn chưa đi sâu và đánh giá các quy định

Trương Mộc Lâm và Lưu Nguyên Khánh (2001), Một số điều cần biết về pháp lý trong kinh doanh bảo
hiểm, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
5
Nguyễn Thị Hải Đường (2006), Một số giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam, Luận

án Tiến sỹ kinh tế, Trường ĐH Kinh tế quốc dân, Hà Nội
6
Nguyễn Văn Định (2008), Giáo trình Bảo hiểm, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội
7
David Bland (1998), Bảo hiểm: Nguyên tắc và Thực hành, Nxb. Tài chính, Hà Nội
8
Nguyễn Văn Định (2009), Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, Nxb. Đại học Kinh tế quốc dân, Hà
Nội
9
Võ Trí Thành & Lê Xuân Sang (2013), Giám sát hệ thống tài chính: Chỉ tiêu và mô hình định lượng,
Nxb.Tri thức, Hà Nội
10
Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm (2012), Đánh giá thực tiễn hoạt động giám sát các tập đoàn, doanh
nghiệp cung cấp các dịch vụ tài chính có kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam, Bản tin Thị trường bảo hiểm
toàn cầu, số 3, Hà Nội
11
Trần Thế Anh (2018), Pháp luật về bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật,
Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
4

3


pháp luật về yêu cầu minh bạch thông tin, thẩm quyền giám sát, nội dung giám sát và
phương thức giám sát.
○ Những công trình kể trên ít nhiều có đề cập đến kinh doanh BHNT. Tuy nhiên,
như người viết đã phân tích, các đề tài nghiên cứu này vẫn chưa đi sâu vào khai thác
và làm rõ một số vấn đề. Từ đó, khóa luận tốt nghiệp sẽ giải quyết những vấn đề sâu
sắc như sau: xây dựng: khái niệm BHNT làm nổi bật bản chất pháp lý và những đặc
trưng của nó, khái niệm sản phẩm BHNT, khái niệm kinh doanh BHNT; phân tích

thực trạng hoạt động kinh doanh BHNT thông qua các quy định của pháp luật (bao
gồm các quy định về DNBHNT, về HĐBHNT và về giám sát kinh doanh BHNT); đề
xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về: địa vị pháp lý của DNBH, các quy định
về HĐBHNT và quy định về giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu bao gồm: Khóa luận tốt nghiệp được tiếp cận theo
phương pháp phân tích luật viết, phương pháp liệt kê và phương pháp so sánh luật
học. Trong đó, phương pháp phân tích luật viết là: một hoạt động của những người
nghiên cứu và thực hành pháp luật nhằm làm sáng tỏ luật, làm rõ các quy tắc mà
người làm luật muốn thiết lập và bảo đảm tính chính xác của việc áp dụng luật trong
thực tiễn. Còn phương pháp liệt kê là: phương pháp sắp xếp nối tiếp hàng loạt, từ hay
cụm từ cùng loại để diễn được đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những khía cạnh khác nhau
của một vấn đề. Phương pháp so sánh luật học là: phương pháp nghiên cứu so sánh
các quy phạm pháp luật khác nhau nhằm tìm ra sự tương đồng và khác biệt của chúng.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Khóa luận tốt nghiệp có 3 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Khái quát về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và pháp luật kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.
- Chương 3: Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ ở Việt Nam.

4


Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ
VÀ PHÁP LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1.1. Khái quát về BHNT, sản phẩm BHNT và hoạt động kinh doanh BHNT
1.1.1. Bảo hiểm nhân thọ
∆ Sự hình thành của bảo hiểm nhân thọ

○ Lịch sử ra đời bảo hiểm nhân thọ
Vào thế kỷ thứ VI, ở La Mã phát triển hình thức BHNT sơ khai một cách độc lập
khi người dân, đặc biệt là các thợ thủ công, đã tổ chức ra mô hình phường hội gọi là
“xã hội từ thiện” (benevolent societies) để trả chi phí tang lễ của các thành viên và
chăm sóc cho gia đình của người này khi họ chết, đổi lại họ phải nộp lệ phí khi tham
gia sinh hoạt chung12.
Hình thức bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn, người được bảo
hiểm là William Gybbon. Như vậy, bảo hiểm nhân thọ có phôi thai từ rất sớm, nhưng
lại không có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ sở kỹ thuật ngẫu nhiên.
Cho đến năm 1654, Blaise Pascal, nhà toán học người Pháp, là người đầu tiên phát
minh ra máy tính và đồng hương của ông là nhà toán học Pierre de Fermat đã phát
hiện ra cách tính xác suất (từ đó cho phép hiểu và đo lường được mức độ rủi ro), thì
sự phát triển của bảo hiểm nhân thọ mới trở thành một tất yếu khách quan13.
Năm 1759, công ty bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra đời ở châu Mỹ nhưng chỉ bán các
hợp đồng bảo hiểm cho các con chiên trong nhà thờ của họ. Năm 1762, ở Anh thành
lập công ty bảo hiểm nhân thọ có tên là Equitable of London. Đây là công ty đầu tiên
bán các hợp đồng bảo hiểm rộng rãi cho nhân dân và áp dụng nguyên tắc phí bảo
hiểm không đổi trong suốt thời gian bảo hiểm. Năm 1860 bắt đầu xuất hiện hệ thống
mạng lưới đại lý bán bảo hiểm nhân thọ. Còn tại Châu Á, công ty BHNT có tên là
Oriental Life Insurance Company được thành lập ở Calcutta (Ấn Độ) vào năm 1818

12

Mike Elman (2011), History of Life Insurance, nguồn: www.onedollarglobeinsurance.com/article/Historyof-Life-Insurance, down load ngày 13/3/2019.
13
Andrew Beattie (2018), The History of Insurance, nguồn: www.investopedia.com/articles/08/history-ofinsurance.asp, down load ngày 13/3/2019.

5



được xem là sớm nhất. Công ty này mang quốc tịch nước Anh và có khách hàng là
người Châu Âu, vì lúc này Ấn Độ là thuộc địa của nước Anh14.
Cho đến nay bảo hiểm nhân thọ đã phát triển rất mạnh mẽ và đa dạng. Từ những
sản phẩm BHNT cơ bản là Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn (Bảo hiểm tử kỳ), Bảo
hiểm trọn đời, Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, Bảo hiểm trợ cấp hưu trí,... cho đến các
sản phẩm bổ trợ (phạm vi bảo hiểm là tai nạn, bệnh tật, ốm đau,… xảy ra trong thời
hạn bảo hiểm của hợp đồng chính)15.
○ Lịch sử ra đời bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam:
Trước năm 1954, ở miền Bắc, những người làm việc cho Pháp đã được bảo hiểm
và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ này. Các hợp đồng bảo hiểm này đều do các công ty bảo hiểm của Pháp trực
tiếp thực hiện.
Trong những năm 1970 - 1971 ở miền Nam công ty Hưng Việt bảo hiểm đã triển
khai một số loại hình bảo hiểm như “An sinh giáo dục”, “Bảo hiểm trường sinh” (Bảo
hiểm nhân thọ trọn đời), “Bảo hiểm tử kỳ thời hạn 5 - 10 - 20 năm”, nhưng công ty
này chỉ hoạt động từ một đến hai năm nên các nghiệp vụ bảo hiểm không được biết
đến rộng rãi.
Tháng 1 năm 1994, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam mới chính thức trình Bộ Tài
chính dự án thành lập công ty Bảo hiểm nhân thọ. Về mặt pháp lý, thị trường BHNT
chính thức được tái lập ở Việt Nam cách đây 25 năm, bởi sự ra đời Nghị định 100/CP
ngày 18/12/1993 của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm. Nghị định này là một cột
mốc quan trọng, chấm dứt tình trạng độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm
ở Việt Nam, đánh dấu thị trường bảo hiểm chuyển mình theo cơ chế kinh tế thị trường.
Nhưng trên thực tế, hoạt động kinh doanh BHNT chỉ thực sự được triển khai theo
quyết định số 568/QĐ/TCCB ngày 22/6/1996 của Bộ Tài chính cho phép thành lập

14

Tapen Sinha (2005), An Analysis of the Evolution of Insurance in India, nguồn:
down load ngày 13/3/2019, trang 6.

15
Đỗ Tiến Dũng (2013), Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ, nguồn: down load ngày 13/3/2019.

6


công ty bảo hiểm nhân thọ trực thuộc Bảo Việt. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt
mới trong sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam16.
∆ Khái niệm bảo hiểm nhân thọ:
Tuy đã xuất hiện từ khá lâu, nhưng hiện nay quan niệm về BHNT vẫn không có sự
thống nhất. Khái niệm BHNT có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong các tài liệu khoa
học và trong hệ thống pháp luật ở các quốc gia trên thế giới.
Dưới giác độ kinh tế học, Nguyễn Văn Định (2008) cho rằng: “BHNT là quá trình
bảo hiểm các rủi ro liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người”17.
Dưới khía cạnh luật học, theo Bryan A.Garner (1999) thì BHNT được định nghĩa là
một thỏa thuận giữa một DNBH (hoặc giữa các DNBH đồng bảo hiểm) để trả một số
tiền quy định cho người thụ hưởng được chỉ định về cái chết của người được bảo
hiểm18.
Nhiều quốc gia cũng định nghĩa BHNT trong các văn bản pháp luật của mình. Lấy
ví dụ Luật Công ty bảo hiểm của New Zealand năm 1994 có đưa ra định nghĩa về
BHNT là “bảo hiểm bằng việc trả tiền cho cái chết của người tham gia bảo hiểm
(không loại trừ là do tai nạn hoặc có nguyên nhân bệnh tật hoặc đau ốm) hoặc do bất
kỳ một sự cố ngẫu nhiên nào đó có tác động làm kết thúc hoặc duy trì cuộc sống của
người đó; và kể cả một thỏa thuận pháp lý quy định việc trả phí bảo hiểm theo thời
hạn phụ thuộc vào sự kết thúc hoặc tiếp tục sống của người được bảo hiểm cũng như
đảm bảo một khoản trợ cấp định kỳ phụ thuộc vào cuộc sống tiếp tục của người đó”19.
Ở Việt Nam, tại Đ3 K12 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung
năm 2010), định nghĩa BHNT như sau: “BHNT là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường
hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết”.
Từ những định nghĩa trên, ta có thể thấy việc định nghĩa BHNT là không dễ dàng

và có rất nhiều cách hiểu khác nhau. Hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này
là do: ở từng quốc gia có các đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau dẫn đến chính sách
Công ty TNHH một thành viên Bảo hiểm nhân thọ Bảo Việt (2009), Lịch sử ra đời ngành bảo hiểm, nguồn:
down load ngày 13/3/2019.
17
Nguyễn Văn Định (2008), Giáo trình Bảo hiểm, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, trang 432.
18
Bryan A.Garner (1999), Black’s Law Dictionary, West Publishing Co., USA, trang 806.
19
New Zealand (1994), Insurance Companies (Ratings and Inspections) Act 1994, nguồn:
/>down
load
ngày
13/3/2019.
16

7


phát triển thị trường BHNT khác nhau; do cách tiếp cận dưới giác độ khác nhau (kinh
tế, pháp lý hay nghiệp vụ quản lý nhà nước) mà dẫn đến những định nghĩa khác nhau.
Theo quan điểm của của người viết, dưới góc độ khoa học pháp lý, có thể đưa ra
khái niệm BHNT như sau: BHNT là một loại hình nghiệp vụ bảo hiểm thương mại
mang hình thái là sự cam kết của DNBH với điều kiện bên mua bảo hiểm đóng phí
bảo hiểm theo thỏa thuận; nếu người được bảo hiểm sống hoặc chết trong một thời
gian nhất định, thương tật toàn bộ vĩnh viễn hoặc xảy ra một sự kiện bảo hiểm nào đó
theo thỏa thuận thì DNBH sẽ phải trả một khoản tiền xác định cho người thụ hưởng
(các người thụ hưởng); có gắn liền hoặc không gắn liền với quyền lợi đầu tư từ số phí
bảo hiểm mà DNBH đã nhận.
1.1.2. Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ

∆ Khái niệm và đặc trưng của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
○ Khái niệm sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
Trước khi đưa ra khái niệm về sản phẩm BHNT ta phải hiểu khái niệm về sản phẩm.
Sản phẩm được hiểu là cái mà con người có thể tạo ra nhằm phục vụ lại cho cuộc
sống của con người. Như vậy, có thể đưa ra định nghĩa về sản phẩm BHNT như sau:
Sản phẩm BHNT là một loại dịch vụ thương mại được thỏa thuận trong HĐBHNT.
Loại dịch vụ thương mại này được thể hiện thông qua các nghiệp vụ BHNT mà
DNBH cung ứng cho bên mua bảo hiểm và những chủ thể liên quan (bao gồm: người
được bảo hiểm và người thụ hưởng).
○ Đặc trưng của sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
Để tiến hành kinh doanh một sản phẩm, một ngành nghề, một lĩnh vực nào đó thì
trước hết chúng ta phải nắm được tính năng và tác dụng của nó. Khác với các sản
phẩm khác, sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có đặc trưng riêng:
- Bảo hiểm là một loại sản phẩm đặc biệt. Bởi sản phẩm bảo hiểm là một dịch vụ
đặc biệt. Điều này được thể hiện rõ qua các đặc trưng cụ thể sau: là sản phẩm không
định hình, không biểu hiện dưới một hình thái vật chất cụ thể mà thông qua những
cam kết của DNBH đối với người tham gia bảo hiểm; là sản phẩm có hiệu quả về xê
dịch; là sản phẩm “của chu trình sản xuất kinh doanh đảo ngược” - doanh thu có trước
chi phí chủ yếu; là sản phẩm dễ bắt chước.

8


- Sản phẩm BHNT cũng như các sản phẩm bảo hiểm khác, thể hiện ra là một dịch
vụ nhưng có tính tài sản.
- Chi phí không chắc chắn cho từng sản phẩm cũng như đối với từng khách hàng.
- Sản phẩm BHNT thường được cung cấp với thời hạn tương đối dài.
- Cơ sở kỹ thuật cơ bản của sản phẩm BHNT là quy luật về số đông, bảng tỷ lệ tử
vong, lãi suất kỹ thuật và phí bình quân.
- Sản phẩm BHNT thường có tính đa mục đích (DNBH cung cấp nhiều loại sản

phẩm BHNT cho các đối tượng khách hàng khác nhau) và được thể hiện thông qua
HĐBHNT.
- DNBHNT được quyền nhận phí bảo hiểm trước khi chấp nhận bảo hiểm.
∆ Phân loại sản phẩm bảo hiểm nhân thọ
Theo nghiệp vụ BHNT, sản phẩm BHNT có 3 loại chủ yếu là bảo hiểm sinh kỳ,
bảo hiểm tử kỳ và bảo hiểm hỗn hợp.
- Bảo hiểm sinh kỳ là loại hình sản phẩm BHNT mà DNBH cam kết trả một khoản
tiền nhất định (một lần hoặc định kỳ) cho trường hợp sống của người được bảo hiểm
với điều kiện là bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm.
- Bảo hiểm tử kỳ là loại hình sản phẩm BHNT mà DNBH chỉ phải trả tiền bảo hiểm
nếu người được bảo hiểm chết trong thời gian bảo hiểm nên nghĩa vụ này là không
chắc chắn. Vì thế, bảo hiểm tử kỳ thường nghiêng về yếu tố bảo vệ hơn là tiết kiệm.
- Bảo hiểm hỗn hợp là loại hình sản phẩm BHNT mà DNBH cam kết trả một khoản
tiền nhất định (một lần hoặc định kỳ) khi xảy ra sự kiện bảo hiểm là người được bảo
hiểm sống đến thời điểm hết thời hạn bảo hiểm hoặc chết trong thời hạn bảo hiểm,
với điều kiện là bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm theo thỏa thuận. Bảo hiểm hỗn
hợp là sản phẩm được ưa chuộng nhất hiện nay vì tính đa mục đích của nó. DNBH
chắc chắn sẽ phải trả tiền bảo hiểm tùy thuộc vào sự kiện bảo hiểm nào xảy ra trước.
Theo số lượng người được bảo hiểm trong HĐBHNT, sản phẩm BHNT bao gồm
bảo hiểm cá nhân và bảo hiểm nhóm.

9


- Bảo hiểm cá nhân là sản phẩm BHNT mà chỉ có một cá nhân là người được bảo
hiểm.
- Bảo hiểm nhóm là sản phẩm BHNT trong đó một nhóm cá nhân là những người
được bảo hiểm. Những người được bảo hiểm trong bảo hiểm nhóm thường có mối
quan hệ với nhau về mặt lợi ích, hoặc cùng có quan hệ với bên mua bảo hiểm (ví dụ:
công ty du lịch mua bảo hiểm cho khách hàng trong các chuyến du lịch).

Theo sự kết hợp giữa BHNT và các dịch vụ ủy thác đầu tư do DNBH cung cấp
thì sản phẩm BHNT có hai loại là sản phẩm BHNT thuần túy và sản phẩm bảo
hiểm BHNT liên kết đầu tư.
- Sản phẩm BHNT thuần túy là sản phẩm bảo hiểm có đầy đủ các thuộc tính của
BHNT, không kèm theo các quyền lợi riêng về đầu tư. Tuy nhiên sản phẩm BHNT
thuần túy cũng có thể gia tăng quyền lợi bổ sung bằng các sản phẩm bổ trợ (đây là
loại sản phẩm được DNBHNT bán kèm sản phẩm BHNT thuần túy nhằm nâng cao
các tính năng bảo vệ cho sản phẩm BHNT thuần túy, khách hàng được quyền lựa
chọn mua hoặc không mua loại sản phẩm này).
- Sản phẩm BHNT liên kết đầu tư là sản phẩm BHNT mà ngoài những quyền lợi bảo
hiểm giống như sản phẩm BHNT thuần túy, bên mua bảo hiểm còn được tham gia
vào quỹ đầu tư của DNBH và được chia lãi đầu tư từ quỹ này. Về nguyên tắc, phí bảo
hiểm trong các sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư được tách bạch giữa phần phí dành
cho bảo hiểm và phần phí dành cho đầu tư.
Theo thời điểm và mức độ cam kết trách nhiệm bảo hiểm thì BHNT được phân
loại thành bảo hiểm chính thức và bảo hiểm tạm thời.
- Bảo hiểm chính thức là sản phẩm BHNT dưới dạng một HĐBHNT có hiệu lực giữa
bên mua bảo hiểm và DNBH.
- Bảo hiểm tạm thời là sản phẩm BHNT mà DNBH cung cấp cho bên mua bảo hiểm
trong khoảng thời gian từ khi bên mua bảo hiểm ký vào HĐBHNT, đã nộp phí bảo
hiểm cho đến khi DNBH chính thức chấp nhận bảo hiểm. Hiệu lực của sản phẩm
BHNT tạm thời chấm dứt ngay khi DNBH chấp nhận bảo hiểm bằng cách ký vào
HĐBHNT, tức là chuyển sang sản phẩm bảo hiểm chính thức.

10


1.1.3. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
∆ Khái niệm và các đặc trưng cơ bản của hoạt động kinh doanh BHNT
○ Khái niệm hoạt động kinh doanh BHNT

Kinh doanh BHNT là hoạt động mà DNBH cung cấp dịch vụ BHNT thông qua
các sản phẩm bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm, các chủ thể có liên quan (bao gồm:
người được bảo hiểm, người thụ hưởng) và tiến hành đầu tư từ nguồn phí bảo hiểm,
nguồn vốn khác để đảm bảo quyền lợi đã cam kết trong HĐBHNT theo quy định của
pháp luật.
○ Các đặc trưng cơ bản của hoạt động kinh doanh BHNT
- Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn nhằm mục đích thu lợi nhuận.
- Đối tượng kinh doanh bảo hiểm là một lời cam kết gắn liền với yếu tố rủi ro.
- Chu trình kinh doanh bảo hiểm là một chu trình đảo ngược - sản phẩm bảo hiểm
được bán ra trước khi doanh thu phát sinh, sau đó mới phát sinh chi phí.
- Bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn vừa không mang tính bồi hoàn.
- Do tính bất ngờ của rủi ro bảo hiểm cả không gian, thời gian và quy mô nên DNBH
phải xây dựng các quỹ dự phòng để thực hiện cam kết của mình trước bên tham gia
bảo hiểm. Quỹ này được sử dụng để tham gia đầu tư tuy nhiên phải bảo đảm tính
thanh khoản cao.
- Số tiền bồi thường bảo hiểm trong một hợp đồng nếu có thường rất lớn, lớn hơn
nhiều lần số phí mà người tham gia bảo hiểm đã đóng (Do lợi ích các bên có xung
đột trực diện thường xảy ra tranh chấp trong thực hiện hợp đồng). Vì thế có thể dẫn
đến các trường hợp trục lợi bảo hiểm.
- Hoạt động cung ứng dịch vụ BHNT là nghiệp vụ chính, cơ bản của kinh doanh
BHNT, còn hoạt động đầu tư là nghiệp vụ phái sinh.
- Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là hoạt động kinh doanh có điều kiện đặt dưới sự
quản lý nhà nước của Bộ Tài chính.

11


1.2. Khái quát về pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
1.2.1. Khái niệm pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ là tổng hợp các quy phạm pháp luật

điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong: việc định hình tư cách chủ thể của
DNBHNT; hoạt động cung cấp dịch vụ BHNT (thông qua các sản phẩm bảo hiểm)
của DNBH và hoạt động đầu tư từ nguồn phí bảo hiểm, nguồn vốn khác (để đảm
bảo quyền lợi đã cam kết trong HĐBHNT theo quy định của pháp luật); hoạt động
giám sát của cơ quan có thẩm quyền với DNBHNT.
1.2.2. Nguyên tắc của pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
- Chỉ bảo hiểm cho rủi ro không lường trước. Bảo hiểm nhân thọ chỉ bảo hiểm khi
có sự kiện rủi ro xảy ra bất ngờ, ngẫu nhiên, ngoài ý muốn với người được bảo hiểm
chứ không bảo hiểm cho những rủi ro chắc chắn sẽ xảy ra hoặc đã xảy ra.
- Số đông bù số ít. Bảo hiểm nhân thọ dựa vào số đông người tham gia để san sẻ, bù
đắp sự thiếu hụt tài chính cho những ai không may gặp rủi ro và khắc phục dần trong
nhiều năm. Chính nguyên tắc này thể hiện tính nhân đạo, nhân văn cao cả của bảo
hiểm nhân thọ.
- Nguyên tắc trung thực. Vì liên quan đến thân thể, tính mạng và sức khỏe con người
nên tính trung thực rất quan trọng trong bảo hiểm nhân thọ. Việc khách hàng cung
cấp thông tin, tình trạng sức khỏe là những yếu tố quan trọng để thẩm định xem khách
hàng có đủ điều kiện tham gia hay không. Bên cạnh đó, việc này còn là cơ sở cho
việc giải quyết quyền lợi bảo hiểm về sau (Điều 20 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm
2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)).
- Nguyên tắc khoán. Người được bảo hiểm sẽ nhận được số tiền khoán, đúng mức
mà họ đã thỏa thuận trước trên hợp đồng bảo hiểm nhân thọ với DNBH (tùy thuộc
vào sự phù hợp với nhu cầu cũng như khả năng đóng phí). Chính vì thế, người mua
bảo hiểm có thể cùng một lúc ký nhiều hợp đồng bảo hiểm cho một đối tượng bảo
hiểm và không bị hạn chế số tiền bảo hiểm.
- Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm là lợi
ích hoặc quyền lợi liên quan đến, gắn liền với, hay phụ thuộc vào sự an toàn hay
không an toàn của đối tượng bảo hiểm. Nguyên tắc này chỉ ra rằng người mua bảo

12



hiểm phải có lợi ích bảo hiểm. Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền, nghĩa vụ
nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm (Điều 3 Khoản 9 Luật Kinh
doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)).
- Nguyên tắc nguyên nhân gần. Nguyên nhân gần là nguyên nhân chủ động, hữu
hiệu và chi phối sự việc dẫn đến tổn thất cho đối tượng được bảo hiểm. Nguyên nhân
gần không nhất thiết phải là nguyên nhân đầu tiên hay nguyên nhân cuối cùng. Nó là
nguyên nhân chi phối, nguyên nhân chủ động gây ra tổn thất. Nếu có những tác động
của một số nguyên nhân, nguyên nhân gần sẽ là nguyên nhân chi phối hoặc nguyên
nhân mạnh nhất gây ra hậu quả dẫn tới tổn thất.
- Nguyên tắc bảo vệ người tham gia bảo hiểm. Đây là một trong những nguyên tắc
rất quan trọng cần được tuân thủ. Sở dĩ người tham gia bảo hiểm luôn là chủ thể được
chú ý bảo vệ vì những lý do cơ bản sau đây: HĐBHNT rất phức tạp, gồm nhiều nội
dung và thuật ngữ có tính chuyên môn cao; HĐBHNT là hợp đồng mẫu và thường có
thời hạn bảo hiểm rất dài (thường là từ 5 năm trở lên); quyền lợi của người tham gia
bảo hiểm lệ thuộc vào DNBH có thể dẫn đến hành vi không công bằng khi thực hiện
hợp đồng của DNBH (ví dụ như những đòi hỏi quá mức trong các thủ tục khai báo);
việc bảo vệ người tham gia bảo hiểm nhằm duy trì niềm tin của công chúng đối với
BHNT.
1.2.3. Các yếu tố cấu thành luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Để phân tích các yếu tố cấu thành luật kinh doanh BHNT, cách thuận lợi nhất là
xuất phát từ các quan hệ xã hội cơ bản có thể phát sinh từ hoạt động kinh doanh
BHNT. Với cách tiếp cận trên đây, pháp luật kinh doanh BHNT cần điều chỉnh những
nhóm quan hệ xã hội sau:
- Nhóm quan hệ xã hội định hình tư cách chủ thể của DNBHNT. Bộ phận pháp luật
này nhằm xác định địa vị pháp lý của DNBH với những quyền và nghĩa vụ phù hợp
với chức năng của nó trong mối tương quan với các chủ thể khác của nền kinh tế. Bộ
phận pháp luật này thông thường bao gồm những quy định về việc thành lập và hoạt
động của DNBH, những quy định về cơ cấu, tổ chức cùng với những quyền và nghĩa
vụ của DNBH khi hoạt động, trong đó quyền và nghĩa vụ khi thực hiện hoạt động

kinh doanh BHNT là những quy định quan trọng, đặc trưng nhất.

13


- Nhóm quan hệ xã hội giữa DNBHNT với người tham gia bảo hiểm. Do sản phẩm
BHNT là dịch vụ, nên khác với sản phẩm hàng hóa, HĐBHNT cần phải mô tả rõ về
nội dung dịch vụ đó với những quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng.
Chính vì vậy, pháp luật điều chỉnh đối với HĐBHNT luôn được coi là một bộ phận
pháp luật quan trọng đối với hoạt động kinh doanh BHNT.
- Nhóm quan hệ xã hội giữa cơ quan có thẩm quyền giám sát với DNBH trong hoạt
động giám sát. DNBH với tư cách là một chủ thể kinh doanh phải chịu sự giám sát
của cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể khác có thẩm quyền. Mối quan hệ này
chủ yếu là quan hệ pháp luật hành chính, dựa trên nguyên tắc mệnh lệnh giữa một
bên là chủ thể quản lý và một bên là chủ thể chịu quản lý. Những quy định của bộ
phận pháp luật này xác định những quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước và các
chủ thể khác có thẩm quyền trong hoạt động giám sát. Đồng thời, nó cũng xác định
những nghĩa vụ mà DNBH cần phải tuân thủ và thực hiện để đảm bảo sự minh bạch,
công bằng trên thị trường bảo hiểm tự do cạnh tranh và đảm bảo nguyên tắc bảo vệ
người tham gia bảo hiểm.

14


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Từ việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về kinh doanh BHNT và pháp luật kinh
doanh BHNT, có thể rút ra những kết luận sau:
1.

Dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm BHNT như sau: BHNT là một loại


hình nghiệp vụ bảo hiểm thương mại mang hình thái là sự cam kết của DNBH với
điều kiện bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm theo thỏa thuận; nếu người được bảo
hiểm sống hoặc chết trong một thời gian nhất định, thương tật toàn bộ vĩnh viễn hoặc
xảy ra một sự kiện bảo hiểm nào đó theo thỏa thuận thì DNBH sẽ phải trả một khoản
tiền xác định cho người thụ hưởng (các người thụ hưởng); có gắn liền hoặc không
gắn liền với quyền lợi đầu tư từ số phí bảo hiểm mà DNBH đã nhận.
2.
Kinh doanh BHNT là hoạt động mà DNBH cung cấp dịch vụ BHNT thông
qua các sản phẩm bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm, các chủ thể có liên quan (bao
gồm: người được bảo hiểm, người thụ hưởng) và tiến hành đầu tư từ nguồn phí bảo
hiểm, nguồn vốn khác để đảm bảo quyền lợi đã cam kết trong HĐBHNT theo quy
định của pháp luật.
3.

Pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ là tổng hợp các quy phạm pháp luật

điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong: việc định hình tư cách chủ thể của
DNBHNT; hoạt động cung cấp dịch vụ BHNT (thông qua các sản phẩm bảo hiểm)
của DNBH và hoạt động đầu tư từ nguồn phí bảo hiểm, nguồn vốn khác (để đảm bảo
quyền lợi đã cam kết trong HĐBHNT theo quy định của pháp luật); hoạt động giám
sát của cơ quan có thẩm quyền với DNBHNT.
4.
Pháp luật về kinh doanh BHNT có bảy nguyên tắc cơ bản là: nguyên tắc chỉ
bảo hiểm cho rủi ro không lường trước; nguyên tắc số đông bù số ít; nguyên tắc trung
thực; nguyên tắc khoán; nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm; nguyên tắc
nguyên nhân gần; nguyên tắc bảo vệ người tham gia bảo hiểm.
5.
Cấu trúc pháp luật kinh doanh BHNT được xem xét dựa trên những quan hệ
xã hội đặc thù phát sinh từ hoạt động kinh doanh BHNT. Theo đó, các bộ phận pháp

luật cơ bản bao gồm các nhóm quy định đặc thù sau: nhóm các quy định xác định địa
vị pháp lý của DNBH; nhóm các quy định về HĐBHNT; nhóm các quy định về giám
sát kinh doanh BHNT.

15


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ
KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng quy định về doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
2.1.1. Quy định về cấp phép hoạt động và cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý doanh
nghiệp bảo hiểm nhân thọ
► Quy định về cấp phép hoạt động đối với doanh nghiệp bảo hiểm
Theo Điều 60 Khoản 2 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung
năm 2010): “… lĩnh vực kinh doanh BHNT chỉ được thực hiện thông qua việc thành
lập DNBH tại Việt Nam. DNBH nước ngoài không được thành lập chi nhánh để kinh
doanh BHNT”. Nhưng, doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
thì có thể (theo Điều 8 Khoản 1 Nghị định 73/2016/NĐ-CP).
DNBH được thành lập và hoạt động khi thỏa mãn những điều kiện theo quy định
của pháp luật và phải được Bộ Tài chính cấp phép. Những điều kiện mà DNBH phải
thỏa mãn bao gồm: “yêu cầu về vốn pháp định phù hợp, về người quản trị và điều
hành phải đủ tiêu chuẩn và cơ sở vật chất, trang thiết bị phải đáp ứng được để đảm
bảo hoạt động ngay sau khi được cấp phép” (theo Điều 63 Luật Kinh doanh bảo hiểm
năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) và Điều 6 Nghị định 73/2016/NĐ-CP).
Mô hình DNBH bao gồm các loại hình: “công ty cổ phần bảo hiểm, công ty trách
nhiệm hữu hạn bảo hiểm, hợp tác xã bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tương hỗ” (theo
Điều 59 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)). Ta có
thể thấy, ngoài mô hình doanh nghiệp thuần túy (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn, hợp tác xã), pháp luật Việt Nam khuyến khích các quỹ bảo hiểm tương hỗ
phát triển để đảm bảo an sinh xã hội cho cộng đồng. Tổ chức bảo hiểm tương hỗ là

“tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập để kinh doanh bảo hiểm nhằm tương
trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên, thành viên tổ chức này vừa là chủ sở hữu
vừa là bên mua bảo hiểm” (theo Điều 70 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa
đổi, bổ sung năm 2010)). Để hạn chế việc khép kín trong hoạt động của DNBH cũng
như đảm bảo năng lực của các chủ thể tham gia thành lập DNBH, Luật Kinh doanh
bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn đã quy định khá chi tiết những điều kiện đối với
những chủ thể sáng lập, trong đó nổi bật là quy định về điều kiện và giới hạn góp vốn
đối với tổ chức và cá nhân, đồng thời quy định phải sử dụng vốn của chính mình để

16


góp vốn mà không được phép vay hoặc nhận ủy thác từ chủ thể khác (theo Điều 6
Khoản 1 Nghị định 73/2016/NĐ-CP). Riêng đối với DNBH nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam, Nghị định 73/2016/NĐ-CP vẫn có yêu cầu riêng, trong đó nổi bật là những
yêu cầu về “năng lực tài chính (tổng tài sản tối thiểu tương đương 02 tỷ đô la Mỹ),
kinh nghiệm hoạt động ít nhất 10 năm và đặc biệt là chỉ được tiến hành tại Việt Nam
nghiệp vụ bảo hiểm đang thực hiện tại nước ngoài, nơi có trụ sở chính của DNBH
đó” (theo Điểm a, Khoản 1, Điều 7 Nghị định 73/2016/NĐ-CP).
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm được phép kinh doanh, các doanh nghiệp kinh doanh
BHNT “không được bán các sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ một cách độc lập, mà
chỉ được bán loại sản phẩm này để bổ trợ, gia tăng yếu tố bảo hiểm cho sản phẩm
BHNT đã được cung cấp” và ngược lại (theo Điều 60 Khoản 2 Luật Kinh doanh bảo
hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)).
► Quy định về cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý doanh nghiệp bảo hiểm
DNBH có cơ cấu tổ chức bao gồm: “trụ sở chính, chi nhánh, phòng giao dịch và
có thể có văn phòng đại diện” (theo Điều 24 Khoản 1 Nghị định 73/2016/NĐ-CP).
Cũng theo Nghị định 73/2016/NĐ-CP, việc mở Chi nhánh hoặc Văn phòng đại diện
của DNBH phải được “sự chấp thuận của Bộ Tài chính, sau khi đáp ứng được những
điều kiện như vốn điều lệ, khả năng quản lý, giám sát,..” (theo Điều 19 Khoản 1 và

Khoản 5 Nghị định 73/2016/NĐ-CP).
Về bộ máy quản lý DNBH bao gồm các chức danh như: “Chủ tịch Hội đồng quản
trị (Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty); Tổng Giám đốc (Giám đốc);
Phó Tổng Giám đốc (Phó Giám đốc); thành viên Hội đồng quản trị (Hội đồng thành
viên); Trưởng Ban kiểm soát; Trưởng Ban kiểm toán nội bộ; kiểm soát viên (đối với
trường hợp doanh nghiệp không thành lập Ban kiểm soát); Trưởng bộ phận kiểm soát
nội bộ, kiểm toán nội bộ; kế toán trưởng; Giám đốc chi nhánh; Trưởng văn phòng đại
diện; người đứng đầu các bộ phận nghiệp vụ; chuyên gia tính toán” (theo Điều 25
Khoản 1 Nghị định 73/2016/NĐ-CP).
Có thể khái lược những yêu cầu từ Điều 26 đến Điều 30 Nghị định 73/2016/NĐCP đưa ra đối với các chức danh quản trị, điều hành như sau:
+ Một là, người quản lý phải không thuộc các đối tượng bị cấm quản lý doanh
nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp và không vi phạm pháp luật, đặc biệt

17


×