Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Pháp luật về vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.55 KB, 62 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÕ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƢƠNG MẠI

Ngành: Luật Kinh tế

Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS.Bành Quốc Tuấn
Sinh viên thực hiện
MSSV: 1511270972

: Nguyễn Quốc Đạt
Lớp: 15DLK10

TP. Hồ Chí Minh, 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÕ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH THƢƠNG MẠI

Ngành: Luật Kinh tế



Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS.Bành Quốc Tuấn
Sinh viên thực hiện
MSSV: 1511270972

: Nguyễn Quốc Đạt
Lớp: 15DLK10

TP. Hồ Chí Minh, 2019


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực hiện nội dung của khóa luận tốt nghiệp, tôi xin trân
trọng gửi lời cám ơn sâu sắc nhất đến đơn vị trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ
Chí Minh (HUTECH), cũng như quý Thầy/Cô là giảng viên đang giảng dạy tại khoa Luật
của trường đã tạo điều kiện, thời gian và hướng dẫn tận tình cho tôi trong quá trình thực
hiện khóa luận. Đặc biệt, tôi xin dành sự biết ơn chân thành đối với PGS.TS Bành Quốc
Tuấn – Phó trưởng khoa Luật HUTECH là giảng viên hướng dẫn tôi trong suốt thời gian
vừa qua, với sự tận tâm và trách nhiệm dành cho sinh viên.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin dành sự cảm ơn trân trọng nhất đối với gia đình và bạn
bè, đã là nền tảng tinh thần vững chắc giúp tôi vượt qua những khó khăn gặp phải trong
quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Sinh viên
(Ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Nguyễn Quốc Đạt


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Nguyễn Quốc Đạt,


MSSV: 1511270972

Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khoá luận tốt nghiệp này
được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn đầy đủ và theo đúng qui
định);
Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường và pháp
luật.
Sinh viên
(Ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

Nguyễn Quốc Đạt


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT

TỪ VIẾT TẮT

TỪ ĐƢỢC THAY THẾ

1

BLTTDS

Bộ Luật Tố tụng dân sự

2


TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

3

TANDCC

Tòa án nhân dân cấp cao

4

HĐXX

Hội đồng xét xử

5

HĐPT

Hội đồng phúc thẩm

6

HTND

Hội thẩm nhân dân

7


KSV

8

VKSND

9

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

10

VKSNDCC

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao

11

TAND

Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân

Tòa án nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tình hình nghiên cứu của đề tài ...................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ...............................................................................................2
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài .............................................................................3
4. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài ...........................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu .........................................................................................................5
6. Kết cấu của khóa luận ..............................................................................................................6
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VAI TRÕ CÙA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƢƠNG MẠI ................. 7
1.1 Khái niệm hoạt động kiểm sát trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng
mại ....................................................................................................................................... 7
1.2 Khái niệm pháp luật điều chỉnh vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết tranh
chấp kinh doanh thƣơng mại ............................................................................................ 9
1.3 Nội dung điều chỉnh của pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong
giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại ...................................................................12
1.3.1 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại theo thủ tục sơ thẩm. ................................................................................................... 14
1.3.2 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại theo thủ tục phúc thẩm ............................................................................................... 25
1.3.3 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình xem xét lại bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm. ..................................................................................................... 31
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
GÓP PHẦN NÂNG CAO VAI TRÕ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƢƠNG MẠI .................... 36
2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát nhân
dân trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại. ..............................................36
2.1.1 Kết quả kiểm sát giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của Viện kiểm sát
nhân dân ............................................................................................................................. 36
2.1.2 Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật để thực hiện vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân khi giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại................ 38

2.2. Kiến nghị góp phần nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt
động giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại .........................................................42
2.2.1 Sự cần thiết phải nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại .......................................................................... 42
2.2.2 Phương hướng nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại .......................................................................... 43


2.2.3 Một số kiến nghị cụ thể nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt
động giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại .......................................................... 44
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày 31/12/1959, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
khóa thứ nhất đã thông quan bản Hiến pháp năm 1959, trong đó từ Điều 105 đến điều
108 đã đánh dấu sự ra đời của một cơ quan mới thuộc bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa
ở nước ta đó là Viện kiểm sát nhân dân, cụ thể tại Điều 105 ghi nhận “Viện kiểm sát nhân
dân tối cao nước Việt nam dân chủ cộng hòa kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các
cơ quan thuộc Hội đồng chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ
quan nhà nước và công dân. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát
quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định”. Tại bản Hiến pháp năm 1959,
với vai trò kế thừa nhiệm vụ của bản Hiếp pháp đầu tiên năm 1946, đáp ứng với tình hình
và nhiệm vụ mới của đất nước, sự ra đời của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân đã thể hiện
tầm nhìn mang tính thời cuộc, tạo ra cơ chế vận hành mới cho bộ máy nhà nước, đảm bảo
tính thống nhất, minh bạch trong hoạt động kiểm sát hệ thống pháp luật Việt Nam. Đến
ngày 26/07/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân, một cột mốc đánh dấu sự phát triển trong quá trình vận hành bộ máy nhà nước

và hệ thống pháp luật nước ta. Trải qua các bản Hiến pháp, cũng như sự hoàn thiện của
hệ thống pháp luật liên quan, thiết chế Viện kiểm sát nhân dân tiếp tục khẳng định tầm
quan trọng của mình, ngày càng được hoàn thiện hành lang pháp lý để góp phần thực
hiện nhiệm vụ và trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Qua công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân đã
góp phần chấn chỉnh công tác tuân thủ pháp luật, thực thi pháp luật được thật sự công
bằng và nghiêm minh. Từ đó, vị trí và vai trò của kiểm sát viên nói riêng cũng như Viện
kiểm sát nhân dân nói chung đã và đang ngày càng được nâng cao, đóng vai trò quan
trọng trong quá trình vẫn hành hệ thống pháp luật ở nước ta.
Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI năm 1986, nước Việt Nam ta
chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 33 năm thực hiện đổi mới về cơ cấu kinh tế, chấp nhận
nền kinh tế tư nhân, mở cửa thị trường Việt Nam để mở rộng giao thương, kinh tế, văn
hóa với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Qua đó, tạo tiền đề cho các hoạt động kinh
doanh thương mại trong và ngoài nước phát triển mạnh mẽ thông qua các giao dịch với
quy mô lớn, nhỏ khác nhau với sự tham gia của nhiều chủ thể, đối tượng, loại hình đa
dạng. Bên cạnh sự thay đổi theo hướng gia tăng về số lượng và chất lượng của các hoạt
động kinh doanh thương mại, thì các tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực
hiệc hoạt động này cũng có những sự chuyển biến nhưng lại theo chiều hướng phức tạp
1


về nội dung lẫn hướng giải quyết. Dẫn đến việc đòi hỏi hệ thống pháp luật và các cơ quan
thực thi quyền lực Nhà nước phải đưa ra những quy định phù hợp để có sự điều chỉnh và
tham gia giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt dộng kinh doanh thương mại kịp
thời, đẩy lùi các tiêu cực, biến tướng từ vấn đề tranh chấp, đặc biệt là phải đáp ứng được
việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các
đương sự khi có tranh chấp xảy ra. Là một cơ quan đóng vai trò quan trọng trong bộ máy
nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được ghi nhận nhiệm vụ và quyền hạn
thông qua các bản Hiến pháp ở từng thời kỳ quan trọng của đất nước, Viện kiểm sát nhân

dân với một trong những quyền hạn là kiểm sát các hoạt động tư pháp đã góp phần vào
việc bảo đảm việc thư thi pháp luật được công bằng, đẩy lùi các tiêu cực trong quá trình
thực hiện hoạt động tư pháp, tạo ra cơ chế kiểm tra và giám sát chặt chẽ gắn liền với các
cơ quan thực thi quyền lực Nhà nước. Với vai trò được khẳng định qua hơn 50 năm thành
lập, Viện kiểm sát nhân dân đã không ngừng thực hiện quyền hạn được giao trong rất
nhiều các lĩnh vực trong đó lĩnh vực kinh doanh thương mại cũng không phải là một
ngoại lệ. Với tình hình chung, các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh thương mại
ngày càng có xu hướng phức tạp hơn, yêu cầu đặt ra đối với ngành kiểm sát là việc đảm
bảo thực thi pháp luật được hiệu quả và nâng cao công tác trong giải quyết các tranh chấp
kinh doanh thương mại là những yếu tố được chú trọng. Với việc tìm hiểu bối cảnh lịch
sử và sơ lược về những yếu tố xoay quanh nội dung giải quyết tranh chấp trong hoạt động
kinh doanh thương mại, nên tác giả muốn thực hiện khóa luận với đề tài “Vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo
pháp luật Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Tác giả thực hiện khóa luận với mục tiêu hướng đến việc tổng hợp lại các kiến
thức cần thiết liên quan đến vấn đề giải quyết tranh chấp, cụ thể là trong lĩnh vực kinh
doanh thương mại gắn với chuyên ngành Luật Kinh tế mà tác giả đã học tập trong suốt
thời gian trên ghế nhà trường. Với mong muốn có được sự đúc kết, gợi nhớ cho bản thân
những kiến thức đã được học tập, để từ đó thông qua việc thực hiện đề tài khóa luận, tác
giả có thể tiếp xúc với nhiều nguồn tài liệu liên quan đến đề tài cũng như các vấn đề thực
tế trong việc áp dụng pháp luật. Từ đó, có sự so sánh tương quan giữa lý thuyết và thực
tiễn để góp phần giúp bản thân tích lũy thêm những vốn kiến thức cần thiết về ngành luật
nói chung, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại nói riêng. Ngoài ra, việc
lựa chọn cơ quan tiến hành tố tụng là Viện kiểm sát nhân dân là chủ thể trọng tâm của
khóa luận là dựa trên quan điểm muốn phân tích và tìm hiểu thêm về ngành kiểm sát với
chức năng và nhiệm vụ đặc biệt trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam ta, để có thể thấy rõ
hơn về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc thực thi và kiểm sát pháp luật.
2



Ngoài ra, khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại” hướng đến việc làm rõ vai
trò cần thiết của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết các tranh chấp
trong hoạt động kinh doanh thương mại theo thủ tục tố tụng dân sự. Qua đó, bài viết
mong muốn phân tích và so sánh quyền hạn kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân đối với phạm vi giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy
định của BLTTDS 2015, qua đó có sự đối chiếu với các quy định trước đây để tìm ra
những điểm khác biệt. Từ đó nhìn nhận ra những ưu điểm và khuyết điểm trong hoạt
động kiểm sát, để đưa ra những đề xuất góp phần nâng cao hiệu quả công tác đối với
Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại,
hướng đến việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự tham gia vào tranh
chấp, giải quyết cho đúng người, đúng việc, đúng pháp luật.
3. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Trong nội dung giới hạn của một bài khóa luận tốt nghiệp, tác giả với lượng kiến
thức còn hạn chế, xin được thực hiện việc nghiên cứu của mình trong phạm vi phân tích
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát việc
tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự trong lĩnh vực giải quyết vụ án kinh doanh thương mại
của Tòa án thông qua hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và thủ tục xét lại bản án giám
đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các văn bản
của ngành kiểm sát liên quan đến việc hướng dẫn thực hiện quy định về giải quyết vụ án
dân sự, nghiệp vụ kiểm sát.
Qua phạm vi nghiên cứu của khóa luận, tác giả mong muốn trình bày các nội dung
liên quan đến quy định của pháp luật tố tụng dân sự về vai trò của Viện kiểm sát nhân
dân trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thông qua trình tự, thủ tục giải
quyết vụ án của Tòa án các cấp. Luận văn cũng trình bày một số kết quả đã đạt được của
Viện kiểm sát nhân dân trong việc thực hiện công tác kiểm sát giải quyết vụ án kinh
doanh thương mại thông qua công tác kháng nghị, để từ đó làm căn cứ đưa ra kiến nghị
góp phần nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại.

4. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Với nội dung nghiên cứu như vừa trình bày ở phần nội dung trên, tác giả đã tìm
hiểu và thu thập các nguồn tài liệu liên quan đến đề tài và nhận thấy trong thời gian qua
có khá nhiều tác giả viết về vai trò, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống
pháp luật Việt Nam như: Luận văn tốt nghiệp của Nguyễn Thu Kim với nội dung “Viện
3


kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp” (2003); “Vị
trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” (2017) của ThS. Đỗ Trí Thành hay đề tài của ThS. Lê Ngọc Duy về
“Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân”
(2016) và còn nhiều đề tài khác có nội dung liên quan đến chức năng, quyền hạn chung
của Viện kiểm sát nhân dân như trên. Theo tác giả các đề tài trên đã hoàn thành trọn vẹn
nội dung của mình, phân tích rõ và khai thác đầy đủ các khía cạnh vai trò, chức năng của
cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống pháp luật Việt Nam, có sự trình bày đến
yếu tố lịch sự của Viện kiểm sát nhân dân để củng cố thêm cho nội dung vai trò của cơ
quan kiểm sát. Ngoài ra, các đề tài trên đa lần có sự thể hiện thực tiễn liên quan, phản ánh
đến nội dung để làm rõ hơn cơ sở lý luận, đưa ra những giải pháp, kiến nghị mang tính
xây dựng pháp luật, nâng cao công tác của Viện kiểm sát nhân dân theo chiều hướng bám
sát thực tiễn và đường lối, pháp luật của Nhà nước.
Ngoài ra, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên cũng được khai thác
ở nhiều khía cạnh trong hệ thống pháp luật Việt Nam, có thể kể đến một số các công trình
mà các tác giả đã có sự tham khảo như: Luận văn tốt nghiệp của Phan Châu Phát về “Sự
tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa
án” (2003) bài viết đã tiến hành phân tích các vấn đề xoay quanh pháp luật về vai trò và
nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết các tranh chấp về kinh tế theo
hướng dẫn của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Pháp lệnh trình tự giải
quyết các vụ án kinh tế năm 1994 hay còn gọi là tố tụng kinh tế tại thời điểm thực hiện
khóa luận này. Khóa luận hướng đến việc trình bày về mặt lý luận về vai trò của Viện

kiểm sát nhân dân trong hệ thống bộ máy Nhà nước nói chung, trong tố tụng kinh tế nói
riêng, đưa ra các quan điểm cá nhân về quy định của pháp luật còn tồn tại vướng mắc
trong việc thể hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân để từ đó đưa ra các đề xuất xây
dựng hoàn thiện cơ chế giải quyết các tranh chấp về kinh tế; Luận văn tốt nghiệp “Vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự” trải qua sự nghiên cứu của các tác giả
Trần Thị Thu Thuận (2014), khóa luận thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu phân
tích tổng hợp, so sánh, hệ thống, quy nạp,…Trên cơ sở thu thập các nguồn tài liệu, kiến
thức liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trải qua các giai đoạn phát triển
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, có sự đối chiếu, so sánh với các quy định pháp
luật của các nước trên thế giới để rồi đưa ra các ý kiến đóng góp mang tính chất xây dựng
pháp luật; hoặc có thể nói đến Luận văn thạc sĩ của tác giả Khuất Thu Hương “Vai trò
của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại
Tòa án theo quy định của pháp luật hiện hành” (2014), đây là đề tài được thực hiện dựa
trên cơ sở của Luật Tố tụng dân sự năm 2002 sửa đổi, bổ sung năm 2011, cũng trên nền
tảng phân tích các quy định của pháp luật, văn bản luật, dưới luật tại thời điểm bấy giờ
4


liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, khóa luận có khuynh
hướng đào sâu về nội dung tranh chấp kinh doanh thương mại và vai trò của Viện kiểm
sát nhân dân trong lĩnh vực này. Luận văn có sự dẫn dắt đối chiếu những quy định liên
quan ở từng giai đoạn phát triển pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.
Trên cơ sở lập luận, luận văn trên đưa ra phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết tranh
chấp và đề ra các kiến nghị cụ thể để góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự trong
giải quyết các vụ tranh chấp kinh doanh thương mại.
Những công trình nghiên cứu nêu trên đã là những nguồn tài liệu tham khảo quý
báu, mang ý nghĩa xây dựng đề tài nghiên cứu của tác giả rất lớn về vai trò, nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân khi tham gia vào các khía cạnh pháp luật cụ thể về dân sự, hành
chính, kinh doanh thương mại. Nhưng theo tác giả nhận định, chưa có nhiều công trình
thật sự đi sâu vào nghiên cứu nội dung cụ thể về vai trò của cơ quan kiểm sát liên quan

dến một khía cạnh của lĩnh vực luật dân sự như các tranh chấp như kinh doanh thương
mại, hôn nhân gia đình, hợp đồng, thi hành án,..thì lại ít được các tác giả khai thác. Từ
tình hình nghiên cứu đề tài như trên, với sự kế thừa và phát triển những nội dung đã đạt
được thành công của những công trình nghiên cứu trước, tác giả xin mạnh dạn đưa ra đề
tài nghiên cứu của mình với nội dung “Pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại”. Với việc nghiên cứu theo hướng vai
trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự theo quy định mới nhất để tiến hành
giải quyết các tranh chấp liên quan đến kinh doanh thương mại và phân tích, đánh giá,
đưa ra các kiến nghị để nâng cao chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở áp dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin để đưa ra các suy luận, diễn giải trên nền tảng pháp luật,
tác giả trình bày các khái niệm, nội dung nghiên cứu trên tinh thần bám sát các quan
điểm, chủ trương và đường lối của Đảng, Nhà nước trong công tác xây dựng và hoàn
thiện pháp luật. Qua đó xây dựng nên nền tảng lý luận vững chắc để hướng đến việc cũng
cố tính thuyết phục cho các kiến nghị liên quan đến những vấn đề thực tiễn. Bên cạnh đó,
nội dung trong bài viết còn áp dụng một số phương pháp về nghiên cứu lý thuyết, phân
tích, tổng hợp, đối chiếu và thống kê. Từ quá trình nghiên cứu các tài liệu, nội dung luật
định, tác giả thực hiện phân tích các nội dung, tìm hiểu theo hướng liên kết với nội dung
đề tài, từ đó có bước tổng hợp lý thuyết thành một hệ thống liên quan đến phạm vi và đối
tượng cần nghiên cứu, áp dụng phương pháp đối chiếu, so sánh với các quy định của luật
cũ với luật hiện hành để tìm ra những điểm mới, tiến bộ trong quá trình lập pháp. Song
song với đó, khóa luận còn sử dụng phương pháp thống kê để đưa ra các số liệu thực tiễn
5


liên quan đến kết quả kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại. Qua đó, người viết mong muốn trình bày các kết quả đạt được
trong quá trình thực thi pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân, để từ đó đề ra các kiến
nghị thiết thực mang đến hiệu quả trong công tác kiểm sát giải quyết tranh chấp kinh

doanh thương mại theo quy định pháp luật Việt Nam.
6. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận tốt nghiệp có kết cấu gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và
phần kết luận. Trong đó phần nội dung gồm có hai chương:
 Chương 1: Pháp luật về vai trò cùa Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại
 Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật và kiến nghị nâng cao vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại

6


CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VAI TRÕ CÙA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƢƠNG MẠI
1.1 Khái niệm hoạt động kiểm sát trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng
mại
Theo từ điển tiếng Việt do Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện Ngôn ngữ
học biên soạn và được nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm 1988 thì cụm từ “kiểm
sát” mang ý nghĩa nội hàm thể hiện cho hai hoạt động là kiểm tra và giám sát. Từ đó,
“kiểm sát” mang ý nghĩa là việc xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét việc thực
hiện những điều đã được quy định. Bên cạnh, cách tiếp cận ở góc độ ngữ nghĩa thông
dụng, tác giả còn tiếp cận khái niệm “kiểm sát” theo góc độ lý luận pháp lý thì cụm từ
trên được thể hiện thông qua chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là “kiểm sát hoạt
động tư pháp” được ghi nhận thông qua các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, cụ thể được thể hiện lần đầu tiên là tại bản Hiến pháp năm 1959 1 và
gần nhất là tại bản Hiến pháp năm 2013 với nội dung quy định tại Khoản 1 Điều 107
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Tác giả
nhận thấy căn cứ vào nội dung, phạm vi nghiên cứu của đề tài thì khái niệm “kiểm sát”
mà tác giả muốn phân tích mang ý nghĩa tương đồng về hình thức là điều thể hiện chức
năng của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời, mang

tính nhất quán về mặt nội dung đối với cụm từ “kiểm sát hoạt động tư pháp”. Vì vậy, khái
niệm “kiểm sát” trong nội dung của khóa luận mà tác giả hướng đến theo góc độ pháp lý
có sự đồng nhất với chức năng của Viện kiểm sát nhân dân. Theo từ điển luật học, kiểm
sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát, xem xét, theo dõi việc tuân theo pháp luật đối
với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, giam giữ, cải tạo của các cơ quan tiến
hành tố tụng và giải quyết các hành vi phạm pháp, kiện tung trong nhân dân nhằm bảo
đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất 2. Với việc tiếp cận cả về
mặt ngữ nghĩa thông dụng, hay dưới góc độ lý luận pháp lý thì hoạt động “kiểm sát” điều
thể hiện việc thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát đối với các quy định đã được đặt ra,
dù ở góc độ khác nhau nhưng nội hàm ý nghĩa đều thể hiện cùng một nội dung.
Thuật ngữ tranh chấp kinh doanh thương mai, tranh chấp thương mại hay tranh
chấp phát sinh từ hoạt động thương mại là các thuật ngữ được sử dụng rộng rãi và phổ
biến trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam, dùng để điều chỉnh các vấn đề liên quan
Điều 105, Hiến pháp năm 1959 quy định Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa
phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện
kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định.
2
Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý, Từ điển luật học, NXB Từ điển Bách khoa và NXB Tư pháp,
2006.
1

7


đến giải quyết các tranh chấp phát sinh khi thực hiện các hoạt động liên quan đến thương
mại. Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được quy định trong LTM năm 1997
tại Điều 238 với nội dung “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”. Trong đó
với nội dung “hoạt động thương mại” bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ

thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm
thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội3. Trong bối cảnh trình độ lập pháp của nước ta ở
giai đoạn này còn nhiều hạn chế, cho nên việc ra đời một đạo luật riêng về thương mại có
một ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhưng bên cạnh đó, viêc xây dựng một đạo luật mang
tính hội nhập cao như LTM thì không thể không tránh khỏi những vấn đề băn khoăn, trăn
trở về mặt lý luận và thực tiễn pháp lý4. Với định nghĩa ban đầu về tranh chấp thương
mại của LTM năm 1997 đã tạo nên một khái niệm rất hẹp so với các quan niệm trên
trường quốc tế về khía cạnh thương mại. Đồng thời, khái niệm trên tại LTM năm 1997 đã
loại bỏ rất nhiều tranh chấp mà xét về bản chất thì các tranh chấp đó có thể được coi là
các tranh chấp thương mại, nên dẫn đến sự mâu thuẫn giữa quy định của pháp luật quốc
gia và pháp luật quốc tế5.
Đến khi LTM năm 2005 ra đời với nhiều sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung để theo
kịp xu hướng phát triển trên thế giới, trong đó có sự thay đổi về khái niệm “hoạt động
thương mại”6, với nội dung bao hàm tất cả các hoạt động mang đến yếu tố sinh lợi thì
được xem là hoạt động thương mại. Với việc điều chỉnh như trên, góp phần tạo nên tính
đồng nhất giữa các văn bản luật lúc bấy giờ liên quan đến khái niệm kinh doanh như Luật
Doanh nghiệp năm 2005 và hiện tại là Luật Doanh nghiệp năm 2014 7, góp phần giúp việc
áp dụng pháp luật được dễ dàng với sự tương đồng giữa các khái niệm trong hệ thống
pháp luật, tránh việc giữa các văn bản luật có sự liên quan với nhau nhưng lại xuất hiện
khái niệm có sự khác biệt về nội dung. Ở khía cạnh luật điều chỉnh chung là dân sự thì
đối với BLTTDS năm 2004 đến BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 và tại
BLTTDS hiện hành năm 2015 thì thuật ngữ “tranh chấp về kinh doanh, thương mại” lại
được sử dụng thay vì việc sử dụng cụm từ “tranh chấp thương mại”8. BLTTDS năm 2015
quy định những tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của
Khoản 2, Điều 5, Luật Thương mại năm 1997.
/>truy cập ngày 30/5/2019
5
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam, tập II, NXB Tư pháp, 2018.
6
Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích

sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác.
7
Khoản 6 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu chị sản phẩm hoặc cung ứng dịc vụ
trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi
8
Xem thêm tại Tài liệu học tập HUTECH.
3
4

8


Tòa án theo hướng tiếp cận liệt kê các tranh chấp. So với BLTTDS năm 2014, sửa đổi, bổ
sung năm 2011 thì BLTTDS năm 2015 có sự điều chỉnh đáng kể với việc liệt kê thêm các
trường hợp tranh chấp được xem là tranh chấp kinh doanh, thương mại. Mặt khác, dù
thực hiện việc liệt kê nhưng BLTTDS năm 2015 hướng đến việc quy định chung nhất có
thể các nhóm tranh chấp được nhận định là tranh chấp về kinh doanh thương mại. Khoản
1 Điều 29 BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011quy định theo hướng liệt kê
các loại hình kinh doanh, thương mại (có 14 loại hình kinh doanh, thương mại mà khi
phát sinh tranh chấp thì được giải quyết theo quy định của luật dân sự) mặc dù đã có đưa
ra khái niệm chung về tranh chấp nào được xem là tranh chấp về kinh doanh, thương mại.
Đến BLTTDS năm 2015 thì đã lược bỏ, sửa đổi điều khoản này mà chỉ giữ lại khái niệm
chung “tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận”9. Nhưng nhìn
chung, ở cả hai BLTTDS gần đây thì hướng tiếp cận khái niệm tranh chấp về kinh doanh,
thương mại đều theo chiều hướng phân tích từ thuật ngữ của LTM 2005, theo hướng
nhận định chung là liên quan đến các hoạt động với mục đích sinh lợi. Các thuật ngữ
tranh chấp thương mại, tranh chấp về kinh doanh, thương mại hay tranh chấp trong kinh

doanh, với cách thức biểu đạt và ngôn ngữ sử dụng có khác nhau, nhưng quan niệm về
hoạt động thương mại và tranh chấp thương mại được thể hiện qua các quy định trong
các văn bản pháp luật tương đối nhất quán10.
Từ những phân tích và hướng tiếp cận như trên, khái niệm kiểm sát giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại, có thể được hiểu là các hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân khi thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát đối với những quy định đã đặt ra
trong việc giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ hợp pháp
của các bên trong hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi.
1..2 Khái niệm pháp luật điều chỉnh vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết tranh
chấp kinh doanh thƣơng mại
Sau 60 năm hình thành và không ngừng phát triển (26/07/1960 – 26/07/2019),
VKSND là một thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà nước ngày càng khẳng định vai trò
quan trọng của mình trong hệ thống pháp luật Việt Nam với những chức năng và quyền
hạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được

9

Khoản 1 Điều 30 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại tập II, NXB Tư pháp, 2018, tr. 314.

10

9


chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất11. Ngày 28 tháng 11 năm 2013, Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua bản Hiến pháp năm 2013
gồm 11 chương với 120 điều. Vai trò của VKSND một lần nữa được khẳng định rõ ràng

trong nội dung của bản hiến pháp thứ năm của nước Việt Nam12. Là văn bản pháp luật có
giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nên việc quy định chức năng,
vị trí, quyền hạn và vai trò của VKSND tại đây góp phần hình thành nên những quy định
chi tiết, đặc thù riêng biệt ứng với Hiến định, có thể nói Hiến pháp năm 2013 tiếp tục là
nền tảng vững chắc trong nhiệm vụ xây dựng các quy định của pháp luật xung quanh vai
trò của VKSND trong các văn bản pháp luật điều chỉnh những nội dung cụ thể như dân
sự, hình sự, kinh doanh, thương mại, luật chuyên ngành về VKSND,…
Luật Tổ chức VKSND năm 2014 với phạm vị điều chỉnh riêng biệt gồm các nội
dung liên quan đến ngành Kiểm sát nhân dân13, trong đó có nội dung quy định cụ thể các
chức năng gắn với quyền hạn trong công tác của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và
Kiểm sát viên VKSND nói riêng. Vai trò của VKSND trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại được thể hiện thông qua chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiểm
sát hoạt động tư pháp được quy định Luật Tổ chức VKSND năm 2014 theo hướng từ
khái quát đến cụ thể, mang cả yếu tố liệt kê các giai đoạn tham gia của VKSND và các
nhiệm vụ, quyền hạn trong quá trình giải quyết các vụ án, trong số đó có lĩnh vực kinh
doanh thương mại, cụ thể hóa tại Điều 4 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 với quy định
về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân.
Nếu Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thể hiện nội dung chuyên ngành về bộ
máy, nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó khi
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp ở các giai đoạn trong quá trình
giải quyết vụ án, vụ việc trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính, hôn nhân gia
đình, kinh doanh thương mại, lao động. Nhìn chung, Luật Tổ chức VKSND hoàn thành
tốt vai trò của một luật đặc thù dành cho một thiết chế theo Hiến định trong bộ máy cơ
quan nhà nước tại Việt Nam. Nhưng để chỉ ra được sự đóng góp, vai trò của Viện kiểm
sát nhân dân trong quy trình giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức
Khoản 3, Điều 107, Hiến pháp năm 2013 quy định Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp.
12
Điều 107, Hiến pháp 2013 quy định
1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.

2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định.
3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,
góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
13
Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định Luật này quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân; về Kiểm sát viên và các chức danh
khác trong Viện kiểm sát nhân dân; về bảo đảm hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
11

10


tham gia vào các mối quan hệ xã hội. Cụ thể, theo nội dung của khóa luận, tác giả muốn
hướng đến việc trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, thì phải cần
đến những hành lang pháp lý rõ ràng, thể hiện các bước giải quyết tranh chấp theo quy
định của pháp luật. Trên phương diện xây dựng pháp luật Việt Nam hiện nay thì có thể
thấy chỉ có các quy định tại BLTTDS là đáp ứng được các nhu cầu trong việc thể hiện vai
trò của VKSND trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và kiểm sát giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại nói riêng, vì bao gồm các nội dung liên quan
đến tố tụng nên việc các nội dung quy định tại bộ luật phải đáp ứng được các yêu cầu về
quy trình thực hiện cũng như cơ quan có thẩm quyền phụ trách giải quyết. Từ đó, vai trò
của VKSND trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại cũng được
pháp luật về tố tụng dân sự có sự điều chỉnh.
Kể từ khi thành lập cho đến nay, VKSND đã không ngừng nâng cao công tác,
xây dựng bộ máy để góp phần hoàn thành chức năng được giao trong hệ thống pháp luật
nước nhà. Việc ban hành các văn bản nội bộ trong ngành, các văn bản dưới luật, phù hợp
với các quy định, trình tự pháp luật đã có đóng góp to lớn trong công tác giải quyết vụ án,
vụ việc phát sinh trong xã hội. Với việc không ngừng ban hành các quyết định, quy chế,
văn bản hướng dẫn thực hiện công tác của ngành, đã một phần thể hiện sự đúc kết thực

tiễn, đưa ra các giải pháp, sáng kiến thiết thực, áp dụng vào công tác kiểm sát, không
những thế việc ban hành các văn bản dưới luật đã phần nào làm sáng tỏ các khúc mắc,
đưa ra hướng giải quyết, theo kịp các vấn đề phát sinh mới trong quá trình thực hiện công
tác, phù hợp với quy định của luật để từ đó nâng cao công tác của ngành kiểm sát qua
từng thời kì. Đặc biệt, nội dung liên quan đến tranh chấp kinh doanh thương mại thì càng
phải lưu tâm đến vấn đề phát sinh mới các tình tiết, liên quan đến nhiều chủ thể, đối
tượng tác động trong xã hội mà luật không tiên dự được. Yếu tố kinh doanh thương mại
mang đặc trưng của sự hội nhập, trong thời đại mà sự giao lưu văn hóa, kinh tế phát triển
vượt bậc và không có giới hạn về hình thức trong việc xác lập các quan hệ kinh doanh
thương mại như hiện nay, thì việc các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực này cần phải
được sự quan tâm, chú trọng điều chỉnh kịp thời từ các cơ quan chức năng có thẩm
quyền, cơ quan kiểm sát. Ngoài các văn bản luật, bộ luật có giá trị pháp lý nhất định
trong hệ thống các ngành luật ở nước ta, thì các văn bản dưới luật cũng góp phần điều
chỉnh các nội dung liên quan đế giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh
doanh thương mại.
Có thể thấy rằng, pháp luật điều chỉnh vai trò của VKSND trong giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại là khá rộng, từ luật điều chỉnh đặc thù về quyền hạn, nhiệm
vụ giải quyết tranh chấp cho ngành kiểm sát đến các hành lang pháp lý chung đối với
trình tự, thủ tục yêu cầu đối với từng giai đoạn trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh
11


doanh thương mại. Bên cạnh đó, các văn bản dưới luật cũng đóng vai trò nhất định khi
mang đến những hướng dẫn cụ thể cho người tiến hành tố tụng nói chung và chủ thể
VKSND nói riêng trong quá trình thực tiễn giải quyết tranh chấp còn nhiều vướng mắc,
ảnh hưởng đến kết quả, năng lực giải quyết và vai trò của VKSND trong quá trình giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.
Như vậy, khi nói đến pháp luật điều chỉnh vai trò của VKSND trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại thì có thể hiểu là bao gồm tổng thể các văn bản quy
phạm pháp luật, cũng như văn bản hướng dẫn, thông báo có hiệu lực áp dụng trong toàn

ngành kiểm sát được ban hành đúng hình thức, trình tự, thẩm quyền theo quy định của
pháp luật, mang tính bắt buộc thực hiện nhằm mục đích hướng đến việc điều chỉnh nhiệm
vụ, quyền hạn của cơ quan VKSND trong việc giải quyết các mối quan hệ xã hội có phát
sinh tranh chấp liên quan đến lĩnh vực kinh doanh thương mại.
1.3 Nội dung điều chỉnh của pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong
giải quyết tranh chấp kinh doanh thƣơng mại
VKSND với vai trò là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định tại Điều 2 Luật Tổ
chức VKSND năm 2014. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả dựa trên nền tảng
là BLTTDS năm 2015 để thực hiện việc phân tích vai trò của Viện kiểm sát trong giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại thông qua các trình tự, thủ tục khởi kiện; trình
tự, thủ tục giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại (thuộc nội dung vụ án dân sự) để
Tòa án nhân dân giải quyết14. VKSND theo quy định của BLTTDS năm 2015 là cơ quan
tiến hành tố tụng và là người tiến hành tố tụng đối với chức danh Kiểm sát viên VKSND,
với vị trí được quy định trong BLTTDS như trên, ngoài vai trò được quy định trong bản
Hiến pháp năm 2013 được nhắc lại trong BLTTDS năm 201515 đã một phần nào khẳng
định chức năng của VKSND trong trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, trong
đó bao gồm lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Điều 21 BLTTDS năm 2015 quy định nội
dung “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự”, qua điều luật này
BLTTDS đã phần nào quy định rõ về vai trò cụ thể của VKSND trong trình tự, thủ tục
giải quyết vụ việc dân sự là thực hiện chức năng kiểm sát. Kiểm tra, giám sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự, cũng như được BLTTDS năm 2015 trao quyền yêu
cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp
đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp
VKSND trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng
Nhà nước, muốn thể hiện được chức năng, vai trò
14
15

Xem thêm tại Điều 1, Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Xem thêm tại Điều 13, Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2013.

12

luật với mục đích chung là góp phần
thời, đúng pháp luật. Bên cạnh đó,
như các cơ quan khác trong bộ máy
của cơ quan mình được giao thì đều


phải thông qua đội ngũ cán bộ đang công tác chuyên trách theo quy định pháp luật đặc
thù của cơ quan. Cụ thể, BLTTDS năm 2015 đã thể hiện rõ các nhiệm vụ, quyền hạn đối
với Viện trưởng VKSND, KSV được Viện trưởng VKSND phân công thực hiện việc
kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của các chủ thể tham gia vào quy trình,
trình tự giải quyết vụ án dân sự hay cụ thể là trong việc tranh chấp kinh doanh, thương
mại. Với quy định của BLTTDS năm 2015 góp phần nâng cao trách nhiệm của cấp
trưởng với vai trò lãnh đạo, quản lý và đặc biệt là trong công tác kháng nghị. Điều 57
BLTTDS năm 2015 quy định Viện trưởng VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn "Kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án theo
quy định của Bộ luật này" và Viện trưởng không được ủy nhiệm cho Phó viện trưởng
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn này16. Ngoài ra, chức năng kiểm sát của VKSND được
diễn ra xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án dân sự, ở mỗi giai đoạn trước, trong và sau
khi diễn ra phiên tòa giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại. Căn cứ quy định tại
Điều 58, BLTTDS năm 2015 có thể chia các nhiệm vụ, quyền hạn của KSV diễn ra ở
từng giai đoạn như sau:
+ Trước khi mở phiên tòa: Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu;
kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự, nghiên cứu hồ sơ vụ việc.
+ Tại phiên tòa: tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát về việc giải quyết vụ việc theo quy định của Bộ luật này.
+ Sau khi kết thúc phiên tòa: kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án, đề

nghị Viện trưởng VKSND có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi
phạm pháp luật
Ngoài ra, còn có một số các nhiệm vụ, quyền hạn khác quy định tại Điều 58 của
BLTTDS năm 2015 mà tác giả không phân loại theo giai đoạn vì xét thấy rằng các hoạt
động này đều có thể diễn ra song song, xuyên suốt trong quá trình giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại của KSV hoặc phải theo từng cấp xét xử, quy định ở các giai
đoạn cụ thể trong quá trình tố tụng mới có thể thực hiện được như: kiểm sát việc quyết vụ
việc dân sự; yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự hoặc theo quy định tại khoản 6 Điều 97 của Bộ luật này17; kiến nghị, yêu cầu
Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; kiểm sát hoạt
động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; các nhiệm vụ, quyền
hạn tố tụng dân sự khác thuộc thẩm quyền của VKSND theo quy định của Bộ luật này.
Khoản 2 Điều 57 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Khoản 6 Điều 97 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Viện kiểm sát thu thập tài liệu, chứng cứ
để bảo đảm cho việc thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm”
16
17

13


Với quy định đảm bảo chế độ xét xử của Tòa án theo hai cấp là sơ thẩm và phúc
thẩm, cùng với đó là các thủ tục đặc biệt xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
như giám đốc thẩm hoặc tái thẩm được quy định tại Điều 17 của BLTTDS năm 2015, nên
việc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại cũng
phải thực hiện giải quyết dựa trên nội dung của quy định này. Theo mỗi trình tự đó việc
xét xử mang mỗi tính riêng, không giống nhau, tuy cùng chung mục đích hướng đến là
tìm ra sự thật khách quan, bảo về quyền lợi, nghĩa vụ hợp pháp của các bên khi xảy ra
tranh chấp. Do vậy, vai trò của VKSND ở mỗi giai đoạn xét xử, thủ tục đặc biệt cũng

khác nhau, khi phân tích vai trò, các quyền hạn cụ thể của VKSND theo quy định của
BLTTDS năm 2015 trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, tác giả
sẽ trình bày theo quy định ở các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái
thẩm.
1.3.1 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết tranh chấp kinh doanh
thƣơng mại theo thủ tục sơ thẩm.
BLTTDS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/07/219 với nhiều sự thay đổi tiến bộ,
trong đó các nội dung điều chỉnh giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại cũng có
những sự điều chỉnh tích cực, một trong số những sự điều chỉnh tích đó là các tranh chấp
kinh doanh thương mại được BLTTDS năm 2015 điều chỉnh. Tranh chấp kinh doanh
thương mại là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại của những cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh. Khác với quy định tại khoản 1 Điều 29 BLTTDS
2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011, tại khoản 1 Điều 30 của BLTTDS 2015 đã quy định rõ
hơn nhằm tránh việc nhầm lẫn giữa vụ việc kinh doanh thương mại với vụ việc dân sự.
Thực tiễn trước đây, nhiều trường hợp một số vụ việc thuộc về thương mại thì được giải
quyết thành vụ việc dân sự và ngược lại, một số vụ việc về dân sự thì lại áp dụng luật
thương mại để giải quyết. Các đặc điểm của tranh chấp kinh doanh thương mại thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm:
+ Chủ thể của tranh chấp phải là một tổ chức kinh tế hoặc hộ kinh doanh, cá
nhân có đăng ký kinh doanh. Các tranh chấp không có đặc điểm này là tranh chấp dân sự.
Đối với cá nhân, tổ chức không có đăng ký kinh doanh theo quy định của Nghị định
78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp thì sẽ không được coi là hoạt động thương
mại, do vậy tranh chấp giữa họ không phải là tranh chấp kinh doanh thương mại;
+ Các bên trong hoạt động thương mại có tranh chấp phải có mục đích lợi
nhuận. Tranh chấp nào chỉ có một bên có mục đích lợi nhuận còn bên con lại không vì
mục đích lợi nhuận sẽ không phải là tranh chấp thương mại. Việc quy định như vậy sẽ
tương thích, phù hợp với Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam.

14



BLTTDS năm 2015 bổ sung thêm quy định tranh chấp kinh doanh thương mại là
tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty đối với giao dịch chuyển nhượng
của công ty. Trong thực tiễn đã xảy ra nhiều tranh chấp về việc chuyển nhượng vốn của
công ty mà một bên chưa phải là thành viên công ty. BLTTDS năm 2015 bổ sung quy
định các tranh chấp về kinh doanh thương mại khác đều là tranh chấp kinh doanh thương
mại, trừ trường hợp pháp luật có quy định tranh chấp đó do các cơ quan khác giải quyết.
Quy định này nhằm cụ thể hóa khoản 2 Điều 4 của BLTTDS là Tòa án không có quyền
từ chối thụ lý những việc mà pháp luật không có quy định. Cụ thể hơn, bất cứ tranh chấp
gì mà không thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan khác thì tòa án phải thụ lý để
giải quyết, ngay cả khi luật không có quy định điều chỉnh. Với nội dung phạm vi điều
chỉnh và xử lý các tranh chấp liên quan đến kinh doanh thương mại được trình bày như
trên, có thể thấy việc xét xử sơ thẩm không chỉ là một trong hai cấp xét xử của Tòa án
được quy định trong BLTTDS năm 2015 mà đây được xem là giai đoạn xác định đối
tượng, chủ thể tranh chấp có thuộc thẩm quyền của Tòa án hay không hoặc xem xét lĩnh
vực tranh chấp là gì để Tòa án, Thẩm phán, VKSND thực hiện các biện pháp giải quyết
tranh chấp cho phù hợp.
Việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại cũng như việc giải quyết
các vụ án dân sự khác, đều phải dựa trên căn cứ phát sinh là đơn khởi kiện của đương sự
gửi cho Tòa án để tìm ra sự thật khách quan, trên tinh thần đảm bảo một trong những
nguyên tắc cơ bản theo quy định của BLTTDS năm 2015 là quyền quyết định và tự định
đoạt của đương sự được ghi nhận tại Điều 5 của Bộ luật này. Với những nhiệm vụ, quyền
hạn đã đề cập ở nội dung trên, thì VKSND cũng đã tham gia thực hiện công tác kiểm sát
của mình ngay từ giai đoạn này. Đối với trình tự, thủ tục sơ thẩm thực hiện việc giải
quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại, tác giả chia việc kiểm sát trong
giai đoạn này thành các hoạt động sau để thực việc phân tích vai trò của VKSND: trước
khi mở phiên tòa sơ thẩm, tại phiên tòa sơ thẩm và sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm.
Đối với các hoạt động trước khi mở phiên tòa sơ thẩm giải quyết các tranh chấp liên quan
đến lĩnh vực kinh doanh thương mại, căn cứ vào nội dung trình tự giải quyết của
BLTTDS năm 2015 có thế thấy rằng, đây là những bước đầu tiên trong toàn bộ quá trình

giải quyết tranh chấp phát sinh do đương sự gửi đơn khởi kiện đến Tòa án, mang ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong quá trình Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của nhân dân, với VKSND thì đây được xem là giai đoạn kiểm sát cơ
bản, với mục tiêu xác định đúng đối tượng, chủ thể, thẩm quyền, tính hợp pháp trong thủ
tục tiếp nhận giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, tránh những sai sót ban đầu
dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng về thời gian, tài chính của đương sự, năng lực thực
hiện chức năng kiểm sát, xét xử của VKSND và TAND.
15


Kiểm sát việc thụ lý vụ án kinh doanh, thương mại hoặc trả lại đơn khởi kiện của
Tòa án:
Theo từ điển tiếng Việt “Thụ lý là tiếp nhận, giải quyết vụ kiện”. Đồng thời, thụ
lý vụ án theo từ điển luật học là “bắt đầu tiếp nhận một vụ việc để xem xét giải quyết”.
Quy chiếu về quy định tại Điều 195 của BLTTDS năm 2015 việc thụ lý vụ án được diễn
ra sau khi Tòa án nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy
vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Thẩm phán phải thông báo ngay cho
người khởi kiện biết đề họ đến Tòa án làm các thủ tục liên quan. Như vậy, việc thụ lý hay
không thụ lý vụ án phụ thuộc vào Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo nội dung của đơn
khởi kiện. Phát luật về tố tụng dân sự hiện hành, cũng đã quy định nhiệm vụ kiểm sát của
VKSND ngay từ giai đoạn thụ lý vụ án với việc Tòa án khi tiến hành thụ lý vụ án phải
thông báo bằng văn bản cho VKSND cùng cấp biết về việc Tòa án đã thụ lý vụ án theo
quy định tại Điều 196 BLTTDS năm 2015 trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày Thẩm phán
ra quyết định tiến hành thủ tục thụ lý vụ án 18. Tại giai đoạn này VKSND với nhiệm vụ
kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng của mình sẽ tiến hành thực hiện các công tác
liên quan đến nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh việc kiểm sát thụ lý vụ án, VKSND còn có chức năng, nhiệm vụ kiểm
sát việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, khi Thẩm phán được phân công xét thấy đơn
khởi kiện vi phạm các nội dung tại Điều 192 BLTTDS năm 2015. Khi Thẩm phán ra
quyết định trả lại đơn khởi kiện thì Tòa án phải gửi đầy đủ đơn khởi kiện, tài liệu, chứng

cứ và văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện cho VKSND cùng cấp theo quy định tại
khoản 2 Điều 192 BLTTDS năm 2015 để VKSND tiến hành chức năng kiểm sát của
mình. Tại quy trình trả lại đơn khởi kiện, nhằm đảm bảo tính khách quan và công bằng
trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, Tòa án cung cấp thời hạn 10
ngày cho VKSND thực hiện chức năng kiến nghị19 kể từ ngày nhận được văn bản trả lại
đơn khởi kiện của Tòa án. Sau khi VKSND thực hiện việc kiến nghị nếu không đồng ý
với quyết định trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, trong thời hạn 05 ngày Tòa án sẽ tiến
hành mở phiên họp xem xét và giải quyết kiến nghị và có sự tham gia của KSV là đại
diện cho VKSND cùng cấp, tại phiên họp KSV thể hiện vai trò kiểm sát của mình thông
qua việc kiến nghị và phát biểu ý kiến xoay quanh việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.
Sau khi có kết quả trả lời việc kiến nghị của VKSND từ Tòa án, nếu VKSND vẫn có căn
Điểm b Khoản 3 Điều 191 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015
Khoản 2 Điều 5 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định về hoạt động kiến nghị của
VKSND như sau: Trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp
có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không thuộc trường hợp kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này
thì Viện kiểm sát nhân dân kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật…...Cơ
quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát
nhân dân theo quy định của pháp luật.
18
19

16


cứ cho rằng Tòa án đã chưa thật sự vận dụng đúng pháp luật vào trong quy trình trả lại
đơn khởi kiện, thì VKSND có quyền kiến nghị tiếp lên Chánh án Tòa án trên một cấp
trực tiếp để xem xét trong thời gian 10 ngày20. Nếu VKSND có cơ sở cho rằng quyết định
của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp là không đúng với quy định của pháp luật thì
VKSND có quyền tiến hành hoạt động kiến nghị đến Chánh án Tòa án cấp cao hoặc tối
cao để xem xét, đồng thời quyết định tại giai đoạn kiến nghị này mang tính chất là quyết

định cuối cùng.
Với việc quy định chặt chẽ, cụ thể về thời hạn, nội dung thực hiện, cơ sở giải
quyết và các giai đoạn tố tụng, kiểm sát thụ lý vụ án dân sự hoặc kiểm sát việc trả lại đơn
khởi kiện tranh chấp kinh doanh, thương mại là giai đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong cả một quá trình thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và
kiểm sát việc tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự nói riêng khi giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại. Vì là bước đầu tiên trong chuỗi các hoạt động tố tụng liên quan đến
giải quyết các vụ án dân sự nên khi thực hiện tốt công tác kiểm sát ở nội dung này sẽ góp
phần đảm bảo cho quá trình thụ lý, giải quyết vụ án của Tòa án được chính xác ngay từ
những bước đầu, sẽ hạn chế được các sai sót có thể xảy ra ngay từ thời điểm bắt đầu các
hoạt động tố tụng dân sự, dẫn đến tránh việc giải quyết vụ án dân sự phải qua nhiều lần
xét xử do sai phạm về tố tụng, thẩm quyền, tính hợp pháp của đơn khởi kiện,…Do đó,
công tác kiểm sát việc thụ lý vụ án dân sự, trả lại đơn khởi kiện cần phải coi trọng và
thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
Kiểm sát việc hòa giải và chuẩn bị xét xử vụ án kinh doanh, thương mại
Công tác hòa giải hay còn gọi là thủ tục hòa giải là một trong những giai đoạn
giải quyết vụ án dân sự theo quy định của BLTTDS năm 2015. Ngay từ những quy định
đầu tiên trong BLTTDS năm 2015 “Hòa giải trong tố tụng dân sự” được xem là một
trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTDS năm 2015, bên cạnh các nguyên tắc mang
yếu tố bình đẳng, tôn trọng, quyền lợi và trách nhiệm của các bên,… 21. Với tinh thần
việc dân sự cốt ở đôi bên, Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp cũng rất mong muốn
các bên tìm được tiếng nói chung, biện pháp giải quyết tốt nhất khi không phải tiêu tốn
thời gian và kinh tế của các đương sự. Đặc biệt, kinh doanh thương mại là một trong
những lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp rất cần đến yếu tố hòa giải vì nó sẽ giúp cho quy trình
tố tụng giải quyết tranh chấp được rút ngắn đi rất nhiều lần so với việc vụ án phải diễn ra
Khoản 6 Điều 194 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định việc Chánh án Tòa án trên một cấp trực
tiếp nếu nhận được đơn kháng nghị của VKSND trong thời hạn 10 ngày phải ra một trong các quyết định:
giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện hoặc yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu,
chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
21

Điều 10 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Tòa án tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận
lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”
20

17


ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm hoặc phải thực hiện đến thủ tục đặc biệt giám đốc thẩm, tái
thẩm để xem xét bản án. Từ đó, gây ảnh hưởng đến những lợi ích nhất định không liên
quan đến nội dung tranh chấp như các mối quan hệ kinh doanh, đối tác, tiềm năng phát
triển của doanh nghiệp hoặc cá nhân, thậm chí là ảnh hưởng đến cả thương hiệu, thị phần
của doanh nghiệp trên thị trường... với tính chất của một tranh chấp kinh doanh thương
mại thường gắn liền đến các lợi ích về kinh tế rất lớn của cá nhân hay doanh nghiệp, vì
vậy vụ án sẽ phải diễn ra kéo dài, với tình tiết phức tạp, khó đoán, không giải quyết được
dứt điểm lợi ích mà các bên được hưởng. Nên nếu tìm ra được phương án giải quyết
chung, có cả quyền lợi và nghĩa vụ của các bên thì vụ việc sẽ được giải quyết một cách
nhanh chóng nhưng lại đảm bảo tính thương tôn pháp luật, hướng đến việc giảm tải thời
gian giải quyết vụ án, đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhưng vẫn
tôn trọng quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự theo quy định của BLTTDS
năm 2015. Từ khi quy định về hòa giải ghi nhận lần đầu tiên tại Bộ Luật Dân sự năm
1999, đã coi việc hoà giải để giải quyết các tranh chấp dân sự là một trong những nguyên
tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam: “Trong quan hệ dân sự, việc hoà giải giữa các
bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích. Không ai được dùng vũ lực
hoặc đe doạ dùng vũ lực trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự.”, đến khi BLTTDS
ra đời việc quy định về thủ tục hòa giải ngày càng cụ thể và rõ ràng hơn, trở thành một
trong những thủ tục tố tụng quan trọng bắt buộc phải diễn ra trước khi Tòa án mở phiên
tòa xét xử giải quyết tranh chấp.
Tòa án chịu trách nhiệm trong việc tiến hành hòa giải cho các trên trong thời hạn
chuẩn bị xét xử theo quy định của BLTTDS năm 2015, đối với các tranh chấp liên quan
đến kinh doanh thương mại với tối đa là 03 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án22. Trong thời

hạn này, Tòa án phải tổ chức phiên họp hòa giải với sự tham gia của Thẩm phán, thư ký
Tòa án, các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự, đại diện tổ chức
đại diện tập thể lao động đối với vụ án lao động, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, người phiên dịch, theo quy định tại Điều 209 BLTTDS năm 2015 về thành
phần của phiên hop hòa giải. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề giải
quyết vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành và ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự sau 07 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành, sau đó

Điều 203 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án thuộc
lĩnh vực kinh doanh thương mại là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý. Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc
do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể gia hạn thêm không qua 01
tháng. Như vậy, BLTTDS năm 2015 đã quy định rõ ràng về thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án kinh
doanh thương mại với tối đa là 03 tháng, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án kinh doanh thương
mại, trong thời hạn chuẩn bị xét xử phải đưa ra một trong các quyết định sau: Công nhận sự thỏa thuận
các các đương sự, tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đưa vụ án ra xét
xử.
22

18


×