Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Vị trí vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.29 KB, 15 trang )

Vị trí vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư
pháp
Tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp. Trên thế
giới, mỗi quốc gia có cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực riêng cho nhà nước
của mình. Đối với hầu hết các nhà nước tư sản đều tổ chức và thực hiện quyền lực
nhà nước theo học thuyết tam quyền phân lập. Theo đó, quyền lực nhà nước được
phân chia thành ba nhánh độc lập, giao cho ba hệ thống cơ quan khác nhau thực
hiện, trong khi thực hiện quyền lực có sự đối trọng và chế ước lẫn nhau. Ở những
nước này không có cơ quan Viện kiểm sát nhân dân, mà chỉ có cơ quan Viện công
tố và cơ quan này cũng không phải là một hệ thống độc lập mà nó có thể nằm trong
Tòa án hoặc chịu sự quản lý của Bộ Tư pháp hay của Chính phủ. Chức năng cơ
bản của Viện công tố của các nước này là đưa kẻ phạm tội ra trước Tòa án và thực
hiện sự buộc tội đối với hành vi phạm tội của người đó.
Đối với các nước tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước theo học thuyết
tập quyền (Việt Nam là một trong những quốc gia thuộc nhóm này) thì tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua
cơ quan đại diện của mình là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Trong bộ
máy nhà nước của các quốc gia này tồn tại một hệ thống cơ quan Viện kiểm sát
nhân dân có vị trí độc lập, trực thuộc Quốc hội. Viện kiểm sát nhân dân được giao
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Xem xét vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trên phương diện trong mối quan
hệ với các cơ quan nhà nước khác trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam theo qui định của pháp luật hiện hành có thể thấy vị trí của Viện
kiểm sát nhân dân với các cơ quan nhà nước khác như sau:
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Quốc hội: Quốc hội là cơ
quan quyền lực cao nhất. Quốc hội thành lập ra Viện kiểm sát nhân dân và giao
cho Viện kiểm sát nhân dân chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các


hoạt động tư pháp. Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao. Quốc hội thực hiện việc giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt


động của Viện kiểm sát nhân dân. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu
trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp
thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và
Chủ tịch nước, trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Quốc hội.
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Chính phủ: Chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội, là cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, Chính phủ và Viện kiểm sát nhân dân đều là
những cơ quan do Quốc hội thành lập, nhưng đây là hai hệ thống cơ quan độc lập
về tổ chức bộ máy, biên chế và chức năng, nhiệm vụ. Tuy nhiên, để thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình, Chính phủ và Viện kiểm sát nhân dân phải có cơ
chế phối hợp tốt để thực hiện các mục tiêu chung của đất nước.
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Tòa án nhân dân: Viện kiểm
sát nhân dân và Tòa án nhân dân là các cơ quan tư pháp do Quốc hội thành lập và
được Quốc hội giao cho các chức năng khác nhau. Viện kiểm sát nhân dân độc lập
với Tòa án nhân dân về tổ chức bộ máy và biên chế. Viện kiểm sát nhân dân kiểm
sát việc tuân theo pháp luật quá trình xét xử, thi hành án hình sự của Tòa án; kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn
nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, các vụ án hành chính và các việc
khác theo qui định của pháp luật.
Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân địa phương với các cơ quan
chính quyền địa phương và Hội đồng nhân dân cùng cấp: Viện kiểm sát nhân dân
là hệ thống cơ quan do Quốc hội thành lập, thừa hành quyền lực từ Quốc hội,
không thừa hành quyền lực từ chính quyền địa phương. Viện kiểm sát nhân dân địa
phương độc lập với cơ quan chính quyền địa phương về tổ chức bộ máy, biên chế,
tài chính và độc lập về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Viện trưởng Viện kiểm


sát nhân dân địa phương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức. Viện kiểm sát nhân dân địa phương thực hiện chức năng,
nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch công tác của Viện kiểm sát cấp trên. Viện

trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân
dân cùng cấp, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng
cấp, trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp
về các công việc có liên quan.
Là một cơ quan trong hệ thống các cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, Viện
kiểm sát nhân dân cũng phải tuân theo những nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó, xuất phát từ tính chất và nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan bảo vệ pháp chế, Viện kiểm sát nhân dân còn
được tổ chức và hoạt động theo một nguyên tắc đặc thù, đó là nguyên tắc lãnh đạo
tập trung thống nhất trong ngành. Nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống nhất đã chi
phối nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, Viện
kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Do đó, hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân
được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất.
Nguyên tắc tập trung thống nhất đảm bảo cho các Viện kiểm sát nhân dân
địa phương được tổ chức và hoạt động một cách tập trung, thống nhất và độc lập
theo ngành dọc, không lệ thuộc hay chịu sự can thiệp nào từ phía các cơ quan Nhà
nước ở địa phương. Đây là một nguyên tắc hết sức quan trọng, xuất phát từ tính
chất và nhiệm vụ của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khi xác định vị trí của Viện kiểm sát nhân dân
trong bộ máy nhà nước cần có nhận thức đúng về những vấn đề sau:


Tuy Viện kiểm sát nhân dân địa phương không chịu sự chỉ đạo của chính
quyền sở tại, nhưng các Viện kiểm sát nhân dân địa phương không phải là một bộ
phận tách rời mọi hoạt động của địa phương. Viện kiểm sát nhân dân địa phương
còn phải chịu sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng địa phương và sự giám sát của nhân
dân địa phương. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cũng phải phục vụ nhiệm

vụ chính trị địa phương. Do đó, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
địa phương phải kết hợp chặt chẽ và đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo và
nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống nhất trong ngành.
Đồng thời, cần làm rõ và thống nhất về nhận thức đối với vị trí, vai trò của
mỗi cấp kiểm sát trong mối quan hệ thống nhất trong cùng một hệ thống cơ quan
Viện kiểm sát nhân dân để đảm bảo phát huy hiệu quả công tác. Đối với Viện kiểm
sát nhân dân tối cao với vai trò là trung tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn ngành, ngoài
việc thực hiện các hoạt động kiểm sát cùng cấp và giải quyết các vụ việc cụ thể
thuộc thẩm quyền của mình, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải tập trung vào các
công việc lớn, quan trọng như xác định phương hướng hoạt động, mục tiêu công
tác trong từng giai đoạn và chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các kế
hoạch, chỉ thị công tác trong toàn ngành; sơ kết, tổng kết, hướng dẫn, xây dựng lý
luận nghiệp vụ, xây dựng các quy chế, chế độ công tác; đề xuất và tham gia xây
dựng pháp luật; giải quyết những vấn đề lớn trong quan hệ phối hợp với các ngành
hữu quan.
Đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là cấp vừa trực tiếp thực hiện công
tác kiểm sát theo thẩm quyền cấp mình, mặt khác vừa có nhiệm vụ chỉ đạo trực
tiếp đối với Viện kiểm sát cấp huyện nên tổ chức bộ máy cần phải có cơ cấu phù
hợp để thực hiện cả hai hoạt động đó. Đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện là
cấp cơ sở, cấp trực tiếp thực hiện phần lớn các nội dung của công tác kiểm sát theo
thẩm quyền. Viện kiểm sát cấp huyện cần tập trung thực hiện tốt các mục tiêu công
tác cụ thể mà Viện kiểm sát cấp trên đề ra. Do đó, cấp huyện cần được tăng cường
và tạo điều kiện về mọi mặt để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.


Để đảm bảo Viện kiểm sát các cấp hoàn thành chức năng, nhiệm vụ trong
tiến trình cải cách tư pháp thì hệ thống cơ quan Viện kiểm sát cần phải được tổ
chức theo nguyên tắc lãnh đạo tập trung thống nhất, không phụ thuộc và chịu sự
can thiệp nào của chính quyền địa phương. Nguyên tắc tập trung thống nhất đòi hỏi
phải xác định đúng đắn vai trò và trách nhiệm của từng cấp kiểm sát. Các Viện

kiểm sát cấp trên cần tăng cường sự lãnh đạo, công tác kiểm tra đối với cấp dưới.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần thực hiện tốt vai trò là trung tâm chỉ đạo mọi
hoạt động của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân.
Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng về cải cách bộ máy nhà nước,
Hiến pháp năm 1992 xác định rõ nguyên tắc tổ chức hoạt động của bộ máy nhà
nước, của từng hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước. Đối với các cơ quan tư
pháp nói chung, Viện kiểm sát nhân dân nói riêng, vấn đề chức năng, nhiệm vụ
của các cơ quan này không chỉ bảo đảm lĩnh vực hoạt động riêng mà bảo đảm sự
thống nhất, đồng bộ trong hoạt động thực hiện chức năng chung của nhà nước.
Trên cơ sở, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, Hiến pháp
năm 1992 khẳng định nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, là tổ
chức để nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình. Đó là bản chất, là
nguồn gốc sức mạnh và hiệu lực quản lý của nhà nước kiểu mới. Vì vậy, việc
phát huy và bảo đảm quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính quy
luật, ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và phát triển của nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân
trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước thực chất là bảo đảm quyền lực của
nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Các nguyên tắc cơ bản khác
như nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc thống nhất quyền lực, nhưng có sự
phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp đã định hướng trực tiếp đến tổ chức, hoạt động đối với hoạt
động của cơ quan tư pháp nói chung, Viện kiểm sát nhân dân nói riêng. Mục tiêu


chung của cải cách bộ máy nhà nước chỉ thực sự đạt được trên cơ sở hoàn thiện tổ
chức hoạt động của từng cơ quan, bộ phận trong bộ máy nhà nước cùng với hoàn
thiện cơ chế phối hợp của tổ chức cơ quan thực hiện chức năng chung c ủa nhà
nước.
Trong hệ thống cơ quan nhà nước, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ

của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản,
tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Thực hiện nhiệm vụ này, Viện kiểm
sát nhân dân là một trong những cơ quan thể hiện trực tiếp bản chất của nhà nước
ta, là bộ phận không thể thiếu trong bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Các cơ quan Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân được phân công trực tiếp thực hiện quyền tư pháp.
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan bảo vệ pháp luật. Do đó, có
thể xem Tòa án và Viện kiểm sát như là những bộ phận truyền tải quyền lực nhà
nước chứa đựng trong pháp luật vào đời sống xã hội thông qua hoạt động thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của những cơ quan này. Điều này cũng có nghĩa hiệu lực,
hiệu quả của bộ máy nhà nước một phần chi phối bởi hoạt động của hệ thống cơ
quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân.
Thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong những năm đầu của
thời kỳ đổi mới cho thấy cần tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát
nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực,
đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Hiến pháp năm 1992 khẳng định đường lối của Đảng
và Nhà nước là xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển. Cùng với sự hình thành cơ
chế kinh tế mới đòi hỏi sự thay đổi, ra đời của hàng loạt chế định pháp luật phù


hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Nhà nước thừa nhận quyền tự chủ sản xuất,
kinh doanh, sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đổi mới nền kinh tế đã bắt
đầu bằng sự phát triển của hàng loạt các doanh nghiệp với mọi hình thức tổ chức,
hoạt động. Mặt khác, yêu cầu cải cách hành chính và cải cách tư pháp cần phân
định rõ phạm vi, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tổ chức trong bộ máy nhà nước,
của cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát nhân dân.
Những ý kiến, quan điểm về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm

sát nhân dân được đề cập khi tiến hành cải cách tư pháp trong thời kỳ đổi mới đất
nước, đặc biệt là khi tiến hành đổi mới trên lĩnh vực kinh tế. Những bước đi ban
đầu của nền kinh tế chuyển đổi với không ít những lựa chọn, những thay đổi, từ cơ
chế chính sách đến vấn đề pháp lý để có thể định hình từng bước phát triển của nền
kinh tế thị trường. Đó là quá trình trăn trở, tháo gỡ dần những vướng mắc trên mọi
phương diện để có thể xây dựng được một thể chế hoàn chỉnh của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những vấn đề đó đã ảnh hưởng không nhỏ
khi xác định vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước
nói chung và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng.
Trong giai đoạn trước đây, vai trò giám sát bảo đảm sự tuân thủ pháp luật,
tuân thủ cơ chế, chính sách, loại trừ yếu tố tự phát, sai lệch, vi phạm trong quá
trình phát triển là vô cùng quan trọng và được đặt lên hàng đầu. Với chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội (chức
năng kiểm sát chung), Viện kiểm sát nhân dân các cấp có vai trò, trách nhiệm trong
hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong suốt thời kỳ
đổi mới cho đến khi ban hành Hiến pháp 1992 (sửa đổi). Thực tiễn đã chứng minh
hiệu quả đóng góp to lớn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm pháp chế
thống nhất và sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động của tổ chức kinh tế thuộc mọi
thành phần kinh tế. Công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong suốt thời kỳ
này đã tuân thủ định hướng được chỉ đạo thống nhất toàn ngành trong nhiệm vụ


công tác năm tập trung hoạt động vào một lĩnh vực cụ thể có ảnh hưởng tới nền
kinh tế. Mục đích của các cuộc kiểm sát không chỉ xác định vi phạm, thu hồi tài
sản bị chiếm đoạt, khắc phục hậu quả về kinh tế - xã hội, mà vấn đề mang ý nghĩa
lớn đó là phát hiện ra những yếu kém trong quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội
của các bộ, ngành, địa phương. Từ đó đưa ra những kiến nghị với Chính phủ nhằm
nâng cao hiệu quả về hoạt động quản lý nhà nước và đưa ra những giải pháp nhằm
khắc phục những tồn tại, bất cập về cơ chế, chính sách, pháp luật. Có thể đánh giá
một cách công bằng trong thời kỳ này thành tựu của ngành kiểm sát trong việc

thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật có ý nghĩa trong việc bảo
đảm sự tuân thủ pháp luật đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội. Điều này được minh chứng bởi hàng loạt các chương trình
công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã
hội trong suốt giai đoạn này như chương trình kiểm sát trong lĩnh vực bưu chính
viễn thông, chương trình mía đường, chương trình kiểm sát công tác quản lý nhà
nước về đất đai, chương trình dự án giao thông đường bộ, chương trình giáo dục,
chương trình xuất khẩu lương thực…
Năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được tiến hành
trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước. Những thành tựu
quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội đã khẳng định đường lối đúng đắn của
Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ IX khẳng định tiếp tục thực hiện công cuộc cải cách hành chính,
cải cách tư pháp một cách triệt để, toàn diện hơn để đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi) đã thể chế hoá nghĩamục tiêu Nghị quyết của Đảng về
xây dựng nhà nước pháp quyền, xác định đúng đắn vị trí, vai trò, hệ thống các cơ
quan tư pháp trong bộ máy nhà nước, định hướng xây dựng một nền tư pháp dân
chủ, vững mạnh. Một trong những nội dung về cải cách tư pháp được thể chế trong


Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) là sự điều chỉnh một bước về chức năng, nhiệm vụ
của Viện kiểm sát nhân dân. Việc điều chỉnh chức năng của Viện kiểm sát trong
Hiến pháp không phải là vấn đề mới nảy sinh trong quá trình xây dựng, soạn thảo
Hiến pháp sửa đổi, mà ngay sau Đại hội Đảng lần thứ VII, những ý kiến liên quan
đến chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đã được đề cập,
thảo luận trên nhiều diễn đàn về lý luận cũng như thực tiễn. Không chỉ đề cập đến
sự chồng chéo chức năng thanh tra của cơ quan Thanh tra với chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát mà vấn đề có tính trực diện hơn đối với
sự tồn tại của chức năng này trong điều kiện đổi mới. Trong mối tương quan chung

giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước với những chức năng mà Viện kiểm sát
đang thực hiện dường như Viện kiểm sát đang nắm giữ quá nhiều quyền lực chi
phối trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội từ tư pháp đến thể chế quản lý kinh
tế, quản lý hành chính nhà nước. Hệ quả của sự đánh giá này đã dẫn tới việc có
người đặt ra câu hỏi phải chăng Viện kiểm sát nhân dân là một cơ quan siêu
quyền lực và như thế là trái với tổ chức và hoạt động của một nhà nước được xây
dựng trên nguyên tắc dân chủ.
Quá trình sửa đổi Hiến pháp, vấn đề chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
được xem xét trên nhiều phương diện, không chỉ ở giác độ quyền lực rộng lớn của
Viện kiểm sát trong đời sống xã hội hay sự chồng chéo chức năng với cơ quan
Thanh tra mà cả những ảnh hưởng từ hoạt động của Viện kiểm sát tới nền kinh tế
thị trường. Ở vào thời điểm nền kinh tế đã trải qua 15 năm đổi mới với những
thành tựu và sự ổn định bước đầu về cơ cấu kinh tế, phương thức tổ chức hoạt
động, một thể chế kinh tế được xác lập bởi hàng loạt văn bản pháp luật về kinh tế
đã đưa nền kinh tế bước sang giai đoạn phát triển có định hướng trên cơ sở khuôn
khổ của pháp luật. Trong quá trình đó, sự hình thành hệ thống pháp luật kinh tế là
quá trình không ngừng sửa đổi, bổ sung để phù hợp với sự phát triển của nền kinh
tế. Trong điều kiện vận hành nền kinh tế thị trường vẫn đang tiếp tục có sự tìm tòi,


thử nghiệm và không ngừng đổi mới để có sự phát triển phù hợp, vững chắc; bên
cạnh những ưu điểm của việc bảo đảm sự tuân thủ pháp luật qua hoạt động kiểm
sát chung của Viện kiểm sát nhân dân thì mặt khác dường như đã tạo ra lực cản vô
hình đối với sự phát triển của nền kinh tế. Sự phản ứng ở những mức độ khác nhau
của các nhà quản lý, các nhà kinh doanh đối với hoạt động thực hiện chức năng
kiểm sát chung của Viện kiểm sát đã đặt vấn đề về thực tiễn của việc có cần thiết
tồn tại chức năng này của Viện kiểm sát hay không. Xét một cách biện chứng, khi
pháp luật phù hợp với kinh tế sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế và ngược lại sẽ kìm
hãm sự phát triển. Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm bảo đảm
pháp luật được tuân thủ, nhưng trong điều kiện hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện

thì chính nó trở thành nguyên nhân làm hạn chế tác dụng, ý nghĩa của việc thực
hiện chức năng này. Sự cần thiết duy trì hay xóa bỏ chức năng kiểm sát chung của
Viện kiểm sát cần được xem xét từ nhiều phương diện khác nhau cả về lý luận và
thực tiễn.
Nhìn vấn đề ở phương diện hẹp hơn để đánh giá thực trạng của ngành kiểm
sát về lực lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát (về năng lực, trình độ, về số lượng…),
quy mô tổ chức bộ máy ngành kiểm sát, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật còn
nhiều hạn chế, bất cập. Trong khi, Viện kiểm sát đang phải thực hiện nhiều trọng
trách trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội thì với điều kiện hiện có, việc thực
hiện tốt tất cả những chức năng, nhiệm vụ được giao thực sự là khó khăn đối với
Viện kiểm sát.
Mặt khác, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển nhanh
chóng, sôi động của kinh tế mang lại sự thay đổi, nâng cao điều kiện sống cho
nhân dân, nhưng cũng đặt ra những vấn đề xã hội cần giải quyết. Đó là sự phân hóa
giàu nghèo diễn ra ngày càng sâu sắc, đó là sự gia tăng tệ nạn xã hội và tình hình
tội phạm ngày càng phức tạp, nghiêm trọng, đặc biệt các tội phạm về kinh tế, tham
nhũng, ma túy, mại dâm… Tình hình tội phạm trong những năm qua cho thấy số


lượng, tính chất, mức độ, hậu quả của tội phạm không chỉ phản ánh sự xuống cấp,
băng hoại đạo đức xã hội mà điều quan tâm là sự gia tăng tình hình tội phạm đã trở
thành nỗi quan ngại, thách thức các cơ quan tư pháp. Tính chất nguy hiểm của tội
phạm không chỉ gây ra tổn thất to lớn về kinh tế cho xã hội mà còn là nguy cơ hủy
hoại đạo đức xã hội, hủy hoại nguồn lực thiết yếu của xã hội (thế hệ thanh niên)
nếu không kịp thời có quyết sách, tổ chức, lực lượng cần thiết, mạnh mẽ để đấu
tranh có hiệu quả với các loại tội phạm. Do đó, nhiệm vụ đấu tranh phòng chống
tội phạm là trọng trách đối với toàn bộ hệ thống cơ quan tư pháp. Với vị trí, vai trò
của Viện kiểm sát trong công cuộc đấu tranh chống tội phạm thì vấn đề tăng cường
thực hiện tốt chức năng công tố, nâng cao vai trò trách nhiệm của Viện kiểm sát
trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm hình sự là điều cần thiết. Để

Viện kiểm sát có thể tập trung làm tốt chức năng công tố, thì việc điều chuyển một
phần chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát sang cơ quan, tổ chức khác
trong bộ máy nhà nước được xem là giải pháp tối ưu. Thực chất của việc điều
chuyển là sự tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước khác như tăng
cường thẩm quyền của cơ quan Thanh tra trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, của Bộ
Tư pháp trong hoạt động thẩm định các văn bản pháp luật của chính quyền cơ sở
trong việc xây dựng, ban hành văn bản pháp quy, của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp trong lĩnh vực giám sát.
Trên thế giới, các quốc gia có thể khác biệt nhau về chế độ chính trị nhưng
hệ thống cơ quan Công tố trong bộ máy nhà nước cơ bản tập trung thực hiện chức
năng công tố trong lĩnh vực hình sự. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, việc tiếp
thu những thành tựu, giá trị tiến bộ trên mọi lĩnh vực đang là xu thế tất yếu, mang
tính phổ biến của các quốc gia. Quá trình cải cách ở nước ta việc lựa chọn để có
được một mô hình tổ chức khoa học, tiên tiến, phù hợp cho từng hệ thống cơ quan
trong bộ máy nhà nước là một quá trình trải nghiệm không chỉ nhận thức đầy đủ
nguyên tắc mang tính lý luận mà cả diễn biến thực tiễn cần được đánh giá tổng kết.


Xuất phát từ những lý do nêu trên, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đã có sự
điều chỉnh quan trọng về chức năng ngành kiểm sát, đó là sự xóa bỏ chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội, nhấn
mạnh việc tăng cường chức năng thực hành quyền công tố và ghi nhận chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã
thể chế hóa quy định của Hiến pháp, ghi nhận cụ thể, rõ ràng về vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt
động tư pháp, đồng thời phân định rõ phạm vi hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Sự phân định này không chỉ tác động tích cực
trong thực tiễn công tác của Viện kiểm sát nhân dân mà còn là cơ sở lý giải vướng
mắc trong nhận thức các khiếu nại liên quan đến quyền công tố, đến kiểm sát các
hoạt động tư pháp.

Bên cạnh việc ghi nhận và đề cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong
việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, sự tăng cường vai trò của Viện
kiểm sát trong việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp xuất phát từ
việc đánh giá thực trạng trên các phương diện kinh tế xã hội, hoạt động tư pháp
trong những năm qua, có thể thấy đây là các điều kiện chi phối trực tiếp đến hoạt
động tư pháp và yêu cầu, đòi hỏi Viện kiểm sát nhân dân phải tiến hành công tác
kiểm sát hoạt động tư pháp trên các phương diện khác nhau. Cụ thể là:
- Trình độ hiểu biết, ý thức pháp luật của bộ phận lớn nhân dân còn hạn
chế.
- Hệ thống thiết chế bổ trợ tư pháp như luật sư, hỗ trợ pháp lý, công chứng,
giám định… còn thiếu, chưa hoàn thiện, đồng bộ.
- Vấn đề quản lý hành chính nhà nước còn nhiều tồn tại, thiếu sót, tổ chức
hoạt động của hệ thống đăng ký tài sản chưa đồng bộ, chưa đầy đủ, thủ tục rườm
rà, bất cập. Các cơ quan quản lý nhà nước chưa xác định được trách nhiệm trước
những vấn đề có liên quan đến hoạt động tố tụng tư pháp.


- Hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực dân sự, hành chính, kinh tế, lao
động, thi hành án chưa hoàn thiện.
- Đội ngũ cán bộ tư pháp còn hạn chế về trình độ kiến thức pháp lý, về
chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là sự hạn chế về kỹ năng nhận thức áp dụng pháp
luật.
Với các đặc điểm nêu trên, có thể thấy rằng, sự tăng cường vai trò của Viện
kiểm sát trong kiểm sát các hoạt động tư pháp xuất phát từ yếu tố truyền thống
pháp luật, từ nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, trước yêu cầu bảo
đảm quyền dân chủ của công dân, điều kiện thực trạng kinh tế, xã hội ở nước ta.
Tuy nhiên, đồng thời với quan điểm tăng cường chức năng kiểm sát các hoạt động
tư pháp của Viện kiểm sát trong các hoạt động thi hành án, giam giữ, cải tạo, trong
hoạt động xét xử các vụ án hình sự, vụ án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động
cũng tồn tại quan điểm cho rằng Viện kiểm sát nhân dân chỉ nên tập trung làm tốt

chức năng công tố, còn đối với chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp mà phần
quan trọng là kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, hành chính, lao
động, thì Viện kiểm sát chỉ nên tham gia ở phạm vi hạn chế.
Trên cơ sở nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, quan niệm về
vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước, từ thời kỳ đầu
thành lập ngành Kiểm sát nhân dân chi phối ảnh hưởng lâu dài đến sự nhận thức về
vai trò, vị trí của Viện kiểm sát trong hoạt động tư pháp, trong lĩnh vực tố tụng dân
sự. Về thực tiễn, trong một thời gian dài, sự thiếu hoàn chỉnh hệ thống pháp luật,
hệ thống bổ trợ tư pháp, sự hạn chế về năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ tư
pháp cũng như trình độ nhận thức pháp luật của người dân… là nguyên nhân có
ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức cho rằng không thể thiếu được vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong hoạt động tư pháp nói chung, trong hoạt động tố tụng, giải
quyết các vụ án dân sự nói riêng, đó là sự bảo đảm cho việc tuân thủ pháp luật
trong hoạt động xét xử của Tòa án. Ở một chừng mực nào đó, sự nhận thức này có


phần thiên kiến, chủ quan khi cho rằng sự tuyệt đối hóa vai trò, vị trí của Viện
kiểm sát nhân dân trong hoạt động tư pháp, đặc biệt trong hoạt động xét xử các vụ
án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động là sự áp đặt công quyền, chi phối mọi hoạt
động tố tụng và điều này là không phù hợp với nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân
sự, xem nhẹ vai trò của đương sự với quyền tự định đoạt và trách nhiệm tự chứng
minh của họ. Thực tiễn cho thấy sự cần thiết của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự, phạm vi tham gia nhiều hay ít ở mức độ nào đó đều mang tính lịch sử
cụ thể. Vì vậy, đến thời điểm ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005, đã hội đủ
điều kiện để có được hệ thống pháp luật tố tụng dân sự hoàn chỉnh với nguyên tắc
nền tảng của nó và vai trò, vị trí của các chủ thể trong tố tụng dân sự (bao gồm cả
Viện kiểm sát nhân dân) cần được xác định phù hợp với nguyên tắc cơ bản của luật
tố tụng dân sự. Những lập luận này là cơ sở cho sự thay đổi quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Đây
là một bước chuẩn bị cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục điều chỉnh chức

năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng tập trung vào việc thực
hiện chức năng công tố.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng một xã hội dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công
cuộc đổi mới, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà
nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện
đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân. Tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng cơ chế
vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của


các qui định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám
sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan
công quyền. Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ,
bảo vệ công lý, quyền con người. Về đường lối đối ngoại, thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối
ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực
khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham
gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Trong tiến trình chung đó,
Viện kiểm sát nhân dân với chức năng, nhiệm vụ của mình có vị trí quan trọng và
vai trò to lớn trong việc bảo đảm thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo trên phương diện pháp lý cho xu thế
hội nhập, giao lưu quốc tế của nước ta. Và ngược lại, đó cũng là cơ sở lý luận vững
chắc cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ở
nước ta hiện nay.




×