Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Cháo thanh nhiệt mùa hè

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.32 KB, 7 trang )

Cháo thanh nhiệt mùa hè
Cháo là món ăn khá hợp lý trong mùa hè, bởi lẽ: quá trình ninh nấu đã giúp cho thức ăn trở nên
dễ tiêu và dễ hấp thụ; hơn nữa cháo là nguồn cung cấp nước và điện giải rất tốt cho cơ thể
trong điều kiện thời tiết nóng bức dễ gây hao tổn phần dịch thể thiết yếu.
Tuy nhiên, theo quan điểm của y học cổ truyền, không phải loại cháo nào cũng thích hợp cho
mùa hè. Bởi lẽ, ngoài gạo ra, các thực phẩm phối hợp phải có tính thanh nhiệt và thanh đạm
nhằm giúp cơ thể chống đỡ được với điều kiện thời tiết hết sức nóng bức, Đông y gọi là “thời
khí có tính viêm nhiệt”. Xin giới thiệu một số loại cháo thanh nhiệt giúp bạn đọc hiểu thêm về
vấn đề này.
Bài 1: Đậu xanh 30g, lá sen tươi 1/4 lá, gạo tẻ 100g. Đậu xanh loại bỏ tạp chất, rửa sạch, cho
vào nồi nấu trước. Khi chín, tiếp tục cho gạo tẻ đã vo sạch và lá sen tươi vào nấu nhừ thành
cháo loãng, ăn mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 1 bát. Công dụng: thanh nhiệt giải độc, tiêu thử và bồi
bổ sức khỏe; với những người thừa cân và béo phì, loại cháo này còn có tác dụng điều hòa rối
loạn lipid máu, làm giảm cân nhẹ người. Chú ý: đậu xanh phải để nguyên cả vỏ.
Bài 2: Dưa hấu 1.000g, cát cánh 25g, đường phèn 100g, gạo tẻ 100g. Dưa hấu bỏ hạt, thái
vụn; cát cánh thái miếng nhỏ như hạt gạo; gạo tẻ vo sạch ngâm nước cho trương lên. Tất cả
cho vào nồi, đổ nước vừa đủ rồi ninh nhừ thành cháo. Mỗi ngày ăn một vài bát. Công dụng:
thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu và làm hết khát. Trong dược học cổ truyền, dưa hấu được mệnh
danh là “thiên nhiên bạch hổ thang”, ý muốn nói: loại dưa này có tác dụng thanh nhiệt mạnh
như bạch hổ thang, một bài thuốc điển hình thuộc nhóm thanh nhiệt tả hỏa.
Bài 3: Bí xanh tươi cả vỏ 100g, gạo tẻ 50g. Bí xanh rửa sạch thái miếng nhỏ, gạo tẻ vo sạch,
hai thứ đem ninh nhừ thành cháo, mỗi ngày ăn vài lần, mỗi lần 1 bát nhỏ. Công dụng: thanh
nhiệt giải độc, lợi thủy tiêu thũng và làm hết khát; rất thích hợp với những người thừa cân béo
phì, người bị phù nề, tiểu đường, cảm nắng, cảm nóng, viêm đường tiết niệu, trẻ em bị bệnh
ngoài da trong mùa hè.
Bài 4: Mía tươi 250g (có thể thay bằng nước mía ép 100 - 150ml), gạo tẻ 50g. Mía rửa sạch,
róc vỏ, cắt đoạn chẻ nhỏ rồi đem ninh với gạo tẻ thành cháo. Mỗi ngày ăn 2 lần, mỗi lần 1 bát.
Công dụng: thanh nhiệt, sinh tân dịch, nhuận phế hòa vị, trừ phiền làm hết khát, bồi bổ sức
khỏe và phòng chống táo bón; rất thích hợp cho trẻ biếng ăn, nóng sốt, bị bệnh ngoài da trong
mùa hè và những người bị bệnh đường hô hấp, táo bón.
Bài 5: Bột sắn dây 50g (có thể dùng củ sắn dây 100g thay thế), đậu xanh để cả vỏ 50g, gạo tẻ


50g. Gạo tẻ vo sạch ninh với đậu xanh thành cháo. Khi chín, đổ bột sắn dây đã hòa nước vào,
quấy đều, đun thêm một lát là được (nếu dùng củ sắn dây thì cho vào ninh ngay từ đầu). Công
dụng: thanh nhiệt giải độc, tiêu thử lợi thủy, giải khát; rất thích hợp với người bị tăng huyết áp,
rối loạn lipid máu, thiểu năng tuần hoàn não trong mùa hè.
Bài 6: Bạch linh tán bột 20g, đậu đỏ 50g, ý dĩ 20g. Đậu đỏ rửa sạch, ngâm nước nửa ngày rồi
đem ninh với ý dĩ cho nhừ, tiếp đó cho bột bạch linh vào đun thêm một lúc là được. Khi ăn thêm
một chút đường trắng, mỗi ngày ăn vài lần, mỗi lần 1 bát. Công dụng: kiện tỳ trừ thấp, thanh
nhiệt giải độc; rất thích hợp cho những người bị bệnh gan mật, rối loạn tiêu hóa, viêm đại tràng
mạn tính, biếng ăn trong mùa hè.
Bài 7: Đậu ván trắng tươi (bạch biển đậu) 120g (nếu dùng khô thì 60g). Gạo tẻ 100g, đường đỏ
vừa đủ. Đậu ván rửa sạch đem ninh với gạo thành cháo (nếu là đậu ván khô thì phải ngâm
nước qua đêm), chế thêm đường, chia ăn vài lần, mỗi lần 1 bát nhỏ. Công dụng: thanh thử hóa
thấp, kiện tỳ chỉ tả (cầm đi lỏng); rất thích hợp cho những người tỳ vị hư nhược, đi lỏng mạn
tính, phụ nữ bị khí hư, trẻ em hay nôn và biếng ăn về mùa hè.
Trong y học cổ truyền, các loại cháo nêu trên được gọi là cháo thuốc (chúc dược). Đặc trưng
chung của chúng là cách nấu rất đơn giản, dễ làm, rẻ tiền và dễ sử dụng. Thường xuyên ăn
cháo thanh nhiệt trong mùa hè sẽ giúp cho cơ thể phòng chống được nhiều bệnh tật và góp
phần bồi dưỡng sức khỏe.
ThS. Hoàng Khánh Toàn
(Ngày 20/7/2006 - Báo SK&ĐS)
Đông y trị chứng bệnh nhiệt miệng
Loét miệng còn được gọi là “nhiệt” miệng, rất hay gặp. Bệnh không nguy hiểm nhưng rất khó chịu, khiến bạn xót
miệng, đau rát, ăn mất ngon, thậm chí có thể gây mất ngủ, rối loạn tiêu hóa. Trẻ em bị nhiệt miệng thường quấy
khóc, dễ suy dinh dưỡng.
Theo y học cổ truyền, loét miệng thuộc phạm vi chứng “khẩu cam” do nhiệt độc, hỏa độc, thấp nhiệt và âm hư gây
nên.
Loét miệng thuộc chứng thực hỏa: Vết loét đỏ, sưng, đau khu trú thành nốt ở niêm mạc miệng hoặc lưỡi hoặc có
khi thành đám, nặng thì có mủ. Có cảm giác đau, nóng rát, nhất là khi ăn thức ăn mặn, chua, cay. Miệng hôi, khô;
người cảm giác nóng hay sốt nhẹ, đầu lưỡi đỏ, nước tiểu vàng, đại tiện táo.
Làm giảm đau ở miệng: Tế tân 4 g, đinh hương 10-15 cái, cam thảo xé tơi 6 g. Tất cả hãm với 50 ml nước sôi (bịt

kín để không bay mất tinh dầu) khoảng 15-20 phút, để nguội, ngậm dần từng ngụm 2-4 phút sẽ giúp làm dịu đau.
Thuốc uống:
Sinh địa, chút chít, lá tre mỗi thứ 16 g, ngọc trúc, huyền sâm, mộc thông mỗi thứ 12 g, thạch cao 20 g, cam thảo 6 g,
sa nhân 4 g. Sắc uống ngày một thang. Uống 3-5 thang, nghỉ vài hôm uống thêm một đợt nữa.
Hoặc: Sinh địa, lô căn mỗi thứ 20 g, mộc thông 6 g, trúc diệp, ngọc trúc, huyền sâm, tri mẫu mỗi thứ 12 g, thạch cao
40 g, thăng ma 8 g. Sắc uống ngày một thang. Bài này thích hợp cho người nhiệt miệng kèm theo lưỡi đỏ, ngủ kém,
táo bón, tiểu tiện nóng, đỏ.
Dùng thuốc đến khi hết táo bón thì bệnh đỡ. Nên dùng củng cố một vài đợt sau khi đã có kết quả.
Nhiệt miệng thuộc chứng hư nhiệt: Thường gặp ở người thể trạng gầy gò, miệng lưỡi khô ráo, các vết loét không
sưng hoặc ít sưng, đỏ, đau nhẹ, lưỡi đỏ, nước tiểu ít, màu vàng, đại tiện táo... Bệnh hay tái phát nhiều lần, có khi
tưởng như khỏi lại đột nhiên xuất hiện. Tùy điều kiện và từng trường hợp, có thể dùng một trong hai bài thuốc sau:
Sa sâm, mạch môn, ngọc trúc, huyền sâm, hoàng bá mỗi thứ 12 g, sinh địa, cỏ nhọ nồi mỗi thứ 16 g, đan bì, tri mẫu
mỗi thứ 8 g, cam thảo 4 g. Sắc uống ngày một thang, uống dần làm nhiều đợt, mỗi đợt 5-10 thang.
Sinh địa 16 g, hoài sơn, hoàng bá mỗi thứ 12 g, sơn thù, phục linh, trạch tả, đan bì, huyền sâm, tri mẫu mỗi thứ 8 g.
Nếu mất ngủ thêm táo nhân sao đen 12 g; táo bón nhiều thêm vừng đen (giã dập) 12 g.
Nếu bị viêm loét miệng mạn tính thành từng đợt hoặc gần như liên tục, kéo dài, bệnh nhân cần được thăm
khám toàn diện và đôi khi cần được chẩn đoán xác định nguyên nhân bằng cách nuôi cấy vi khuẩn, nấm, xét
nghiệm tế bào học...
Trẻ em đang bú mẹ, người suy giảm miễn dịch hoặc có thói quen uống sữa có thể bị loét lưỡi, miệng mà dân gian
hay gọi là “tưa lưỡi”, thường do nấm candida abical. Nếu không được chữa trị kịp thời, bệnh phát triển làm trẻ bú
khó khăn, thậm chí nấm lan xuống đường tiêu hóa gây đại tiện lỏng, sống phân... Việc chữa trị không mấy khó khăn,
chủ yếu làm thay đổi môi trường, kiềm hóa tại chỗ. Có thể dùng các cách sau đây:
Dùng gạc sạch thấm mật ong xoa miệng, lưỡi cho trẻ, ngày vài ba lần. Đây là phương pháp kinh điển, đồng thời là
kinh nghiệm dân gian. Nhiều nghiên cứu cho thấy dung dịch 30% mật ong có thể ức chế hoặc tiêu diệt hầu hết các
loại nấm và vi khuẩn, lại có vị ngọt dễ chịu.
Lá rau ngót rửa sạch, thêm vài hạt muối, giã lấy nước, thấm vào gạc sạch xoa miệng, lưỡi như trên.
TS Lê Lương Đống - Sức Khỏe & Đời Sống
Dưa hấu: vị thuốc thanh nhiệt tiêu khát
Dưa hấu là loại quả rất phổ biến và được dùng quanh năm ở nước ta, đặc biệt trong mỗi dịp xuân về Tết đến.
Dưa hấu có trong các lễ hội, đình đám, giỗ chạp... được mọi người ưa chuộng.

Thế nhưng, chắc ít người trong số chúng ta biết rằng, ngoài vị ngon ngọt, hầu như mọi bộ phận của quả dưa hấu
còn là những vị thuốc chữa được nhiều chứng bệnh.
Dưa hấu có tên khoa học là Citrullus vulgaris schrad, thuộc họ bầu bí (Cucurbitaceae), các sách thuốc cổ phương
Ðông gọi là "Tây qua", rất có giá trị về dinh dưỡng và trị liệu. Không ai biết chắc chắn dưa hấu có mặt ở nước ta từ
bao giờ. Song với truyền thuyết vợ chồng Mai An Tiêm bị vua Hùng thứ 17 đày ra đảo hoang đã may mắn phát hiện
và gieo trồng được dưa hấu, cho thấy dưa hấu đã có từ thời kỳ đầu dân tộc ta dựng nước. Cuốn sử ca thể song thất
lục bát rất cổ ở nước ta "Thiên Nam minh giám" (Gương sáng trời Nam) có một đoạn nói về dưa hấu:
"Mai cậy duyên có lòng kiêu xỉ
Cửu trùng hờn đầy nghỉ cõi xa
Bỗng đâu chim cắn hạt sa
Lại trồng nên giống tây qua lạ dường".
Về thành phần các chất dinh dưỡng, trong dưa hấu có protein 1,2g% (1,2g/100g dưa), chất đường 2,5g%, chất xơ
0,5g%, nước 95,5g% cùng nhiều vitamin, chất khoáng rất cần cho cơ thể như calci, phospho, sắt, caroten, các
vitamin B1, B2, PP và C... Ðặc biệt có một số chất đạm ở dạng acid amin như Citrulin và các chất đường đơn
Fructose, Glucose dễ được cơ thể hấp thu trực tiếp.
Tuy dưa hấu không phải là loại thực phẩm chính cung cấp nhiều năng lượng, song là loại quả giải khát rất tốt, có vị
ngọt, mát, thơm dịu. So với họ dưa (quả), dưa hấu thơm ngon và chứa nhiều protein nhất: gấp 4 lần dưa hồng, xấp
xỉ 2,5 lần dưa bở, hơn 1,5 lần dưa gang, dưa chuột. Tuy nhiên giá trị chính của dưa hấu là ở tính trị liệu. Cụ Hải
Thượng Lãn Ông - danh y nước ta thế kỷ XVIII đã viết về dưa hấu trong cuốn "Lĩnh Nam bản thảo":
"Tây qua tục gọi là dưa hấu
Ngọt nhạt, lạnh mát ăn rất ngon
Giải khát, tiêu phiền, trừ trúng nóng
Hồng lỵ, lâm tê bệnh chẳng còn".
Dưa hấu có tác dụng lợi tiểu, giải độc cho người viêm thận, phù thũng, chữa huyết áp cao, say rượu và hoàng đản.
Trong Trung dược, dưa hấu mang nhiều tên khác nhau như: Tây qua, Hạ qua, Thanh đăng qua, Thủy qua... với
dược tính vị ngọt nhạt, khí hàn, không độc, vào các kinh tâm và vị, có tác dụng thanh giải nóng nực, lợi tiểu.
Trong trường hợp sốt cao ra mồ hôi do cảm nắng, trúng nóng, dùng nước ép thịt quả dưa hấu làm thuốc uống sẽ
mau khỏi.
Những người say rượu cho uống nước ép thịt quả dưa hấu, hoặc ăn mấy miếng dưa là giã rượu ngay. Những
người khát nhiều, mệt mỏi, tiểu rắt, nước tiểu đỏ, cho uống nhiều lần nước ép thịt quả dưa hấu sẽ hết khát và mau

khỏi bệnh.
Lớp vỏ xanh, trắng của quả dưa hấu (khi ta ăn dưa thường bỏ đi) cũng la một vị thuốc với tên gọi "Tây qua bì". Y
học phương Ðông cho rằng Tây qua bì tính hàn, vị ngọt, là vị thuốc chữa các chứng cảm nắng, cảm nóng, phát sốt,
lợi tiểu... Dùng cùi trắng vỏ dưa hấu (cùi gọt sạch lớp vỏ xanh phía ngoài) ngâm nước vôi trong 5-6 giờ, vớt ra rửa
kỹ bằng nước sạch, tráng lại bằng nước đun sôi để âm ấm (50-600C), rồi đem thái chỉ hoặc nạo nhỏ, thắng nước
đường, đổ cùi dưa vào, múc ra bát để nguội là món ăn có tác dụng giải khát, giải nhiệt rất tốt. Hoặc dùng toàn bộ cùi
dưa hấu (không gọt bỏ vỏ xanh) đem phơi khô, những khi cần thì sắc uống làm thuốc giải nhiệt. Kinh nghiệm dân
gian một số địa phương còn dùng vỏ quả (nhất là vỏ quả dưa hấu xanh vàng) làm thuốc chữa tiêu chảy. Cũng có thể
dùng vỏ dưa hấu phối hợp với bạch biển đậu (đậu ván trắng), liên diệp, trúc diệp tâm, 4 thứ bằng nhau đem sắc
uống trị nóng nực ra nhiều mồ hôi, đầu váng mắt hoa, đau nhức.
Ngoài những tác dụng nói trên, trong dân gian còn dùng vỏ quả dưa hấu chữa một số bệnh khác như:
- Chữa nứt nẻ khóe môi: Vỏ dưa hấu rửa sạch, thái sợi, sao vàng, tán thành bột mịn trộn với mật ong, chấm vào chỗ
nứt nẻ ngày 1-2 lần.
- Chữa viêm họng: Vỏ dưa hấu rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước, cho vào thêm ít muối, dùng để ngậm và súc miệng
rồi nhổ đi, nếu thực hiện đều đặn sẽ mau khỏi.
- Chữa các vết lở ngoài da: Vỏ dưa hấu muối thành dưa, lấy nước đắp vào vết lở.
- Chữa ho ra máu: Sắc đặc vỏ dưa hấu lấy nước uống có thể thanh nhiệt giải độc, dùng trong các trường hợp ho ra
máu.
- Chữa đau lưng và khi thở đau hai bên sườn: Vỏ quả dưa hấu (dùng loại vỏ xanh biếc) sấy khô, tán nhỏ mịn.
Khi dùng lấy 15g cho thêm vào chút muối và rượu, hòa trộn đều mà uống.
- Chữa đau răng: Vỏ dưa hấu đã phơi khô, đem sao cháy, dùng nhét vào chỗ răng đau sẽ hết đau.
- Làm đẹp da mặt: Thái dưa hấu thành từng miếng mỏng đắp kín da mặt, nằm yên 30-45 phút. Hoặc đơn giản lấy
phần trắng vỏ dưa hấu tươi (có lẫn phần đỏ của thịt quả càng tốt) xoa sát vào khắp mặt, để 3-4 giờ rồi rửa mặt bằng
nước sạch. Nếu thực hiện đều đặn sẽ làm da mặt trắng đẹp mịn màng.
Ở Malaysia, người dân còn dùng nước ép rễ cây dưa hấu làm thuốc cầm máu sau khi sẩy thai.
BS Vũ Nguyên Khiết
Cách chữa loét miệng bằng đông y
“Loét miệng” là trong khoang miệng xuất hiện một hay nhiều vết loét. Dân gian hay gọi
nôm na là “nhiệt miệng”, vì bệnh luôn kèm theo nóng rát và đau. Hiện nay, y văn thế giới
thường phân biệt 2 loại loét miệng: “Loét mụn rộp” (cold sores) và “loét ap-tơ”

(aphthous ulcer). Loét mụn rộp (bào chẩn, herpes) phát sinh do nhiễm phải loại virus có
tên herpes simplex, tổn thương luôn bắt đầu xuất hiện ở môi, có thể kéo dài trên 2 tuần
cho đến vài tháng và thường để lại sẹo sau khi lành. Ở đây chỉ nói về loét miệng aptơ,
loại bệnh hay gặp nhất ở niêm mạc miệng.
Nguyên nhân gây loét miệng
Loét miệng ap - tơ khởi phát với cảm giác ngứa và bỏng rát ở niêm mạc trong má, hay ở bờ
hoặc mặt dưới lưỡi, lợi, môi, sàn miệng, vòm khẩu cái... Sau đó hình thành một hay vài vết loét,
nông hoặc sâu, ranh giới rõ rệt, niêm mạc chung quanh vết loét sưng tấy đỏ. Đau là triệu chứng
điển hình và luôn có, nên thường gây khó chịu trong khi nói và nhai thức ăn, nhất là khi ăn
những thức ăn cay, mặn. Bệnh thường kéo dài trong vòng từ 7-10 ngày rồi tự khỏi, khi khỏi
thường không để lại sẹo, nhưng rất hay tái phát, ảnh hưởng không nhỏ tới sinh hoạt, cũng như
công việc.
Y học hiện tại vẫn chưa xác định được rõ, các nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh loét miệng.
Tuy nhiên, có một số nhân tố được coi là nguyên nhân gây bệnh, như tình trạng thiếu dinh
dưỡng hoặc dinh dưỡng không đúng cách, dẫn đến tình trạng thiếu vitamin C, PP, B6, B12,
kẽm và acid folic. Do rối loạn nội tiết ở phụ nữ, khi hành kinh, mang thai, ở độ tuổi mãn kinh;
Nhiễm khuẩn hay virus khi niêm mạc miệng bị tổn thương do xương đâm, răng cắn vào; Do các
bệnh tiêu hóa, do di truyền, thần kinh căng thẳng, một số loại thuốc... Phương pháp chữa trị
chủ yếu là giảm đau, vì là triệu chứng khó chịu nhất. Ngoài ra, còn sử dụng một số loại nước
súc miệng, thuốc mỡ bôi tại chỗ và một số thuốc tác dụng toàn thân.
Bệnh loét miệng, trong Đông y gọi là “Khẩu sang”. Bệnh danh “Khẩu sang” xuất hiện đầu tiên
trong Nội kinh, bộ sách lý luận kinh điển cổ nhất của Đông y học cách nay hơn 2.000 năm.
Loét miệng ap - tơ (aphthous ulcer).
Trong các y thư cổ đời sau, bệnh còn được đề cập với những tên khác, như “Khẩu dương”,
“Khẩu phá”, “Khẩu cam”, “Khẩu vẫn sang”, “Nha sang”...
Theo quan niệm của Đông y học, “Khẩu sang” tuy là dạng bệnh biến cục bộ (chỉ phát sinh trong
khoang miệng), nhưng có liên quan tới hoạt động của các tạng, phủ trong cơ thể, nhất là 2 tạng
tâm và tỳ. “Tâm tỳ tích nhiệt” (nhiệt tích đọng tâm và tỳ) thường gây ra loét miệng, vì tâm thông
với lưỡi (khai khiếu) và tỳ thông với miệng. Ngoài ra, tình trạng bệnh lý mà Đông y gọi là “Âm
hư hỏa vượng” (âm dịch hư tổn, không đủ sức cân bằng, kiềm chế dương khí), khiến “hư hỏa”

bốc lên trên, cũng thường hay gây ra loét miệng.
Biến chứng luận trị
Tâm tỳ tích nhiệt
Biểu hiện (chứng trạng): trên niêm mạc miệng xuất hiện tương đối nhiều vết loét, kích thước
khác nhau. Trên mặt vết loét có chất dịch phân tiết màu vàng nhạt, niêm mạc quanh vết loét
sung huyết đỏ tươi, kèm theo nóng rát, đau nhức. Thường kèm theo cảm giác bồn chồn, mất
ngủ, miệng hôi, khát nước, đại tiện táo bón, tiểu tiện vàng sẻn. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng.
Mạch sác (nhanh - trên 90 lần/phút).
Phép chữa: thanh nhiệt giải độc.
Bài thuốc thường dùng:
Mao lô huyền sâm ẩm: bạch mao căn (rễ cỏ tranh) 30g, lô căn (rễ lau) 30g, huyền sâm 10g.
Thêm 1 lít nước, sắc lấy 450ml, chia ra nhiều lần, uống thay trà trong ngày. Liên tục 3 - 4 ngày.
Thích ứng với những trường hợp bệnh phát tương đối nhẹ.
Cầm liên đạo xích thang: hoàng liên 6g, chi tử (dành dành) 10g, hoàng cầm 10g, sinh địa
hoàng 15g, mạch môn đông 10g, liên tử tâm (tâm sen) 5g, mộc thông 6g, trúc diệp 5g, sinh
cam thảo 6g. Thêm 1 lít nước, sắc lấy 450ml, chia ra 3 lần uống sáng, trưa, chiều, lúc đói bụng.
Mỗi ngày 1 thang. Liên tục 4-5 ngày. Dùng trong trường hợp bệnh phát tương đối nặng.
Món ăn - thuốc: củ cải tươi 1.000g, ngó sen tươi 500g. 2 thứ rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước
cốt, ngậm và uống dần trong ngày.
Âm hư hỏa vượng
Biểu hiện: miệng đau rát, số vết loét tương đối ít, thường chỉ có 1-2 vết, nhưng dễ tái phát,
hoặc vết này khỏi lại sinh vết khác, triền miên không dứt. Vết loét trắng nhợt, niêm mạc chung
quanh vết loét chỉ hơi sưng, đỏ nhạt hoặc không đỏ. Chất lưỡi đỏ, khô; rêu lưỡi ít; Mạch tế sác
(nhỏ, nhanh).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×