Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.96 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NÔNG VĂN NGOAN

HIÖN T¦îNG SONG NG÷
TRONG V¡N HäC TRUNG §¹I VIÖT NAM
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9220121

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2019


Công trình đƣợc hoàn thành tại: Trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. GS.TS LÃ NHÂM THÌN
2. TS. NGUYỄN MINH HOẠT

Phản biện 1: PGS.TS NGUYỄN PHẠM HÙNG
Phản biện 2: PGS.TS NGUYỄN THỊ CHIẾN
Phản biện 3: PGS.TS DƢƠNG TUẤN ANH

Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp Trƣờng
họp tại Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội
Vào hồi …..giờ … ngày … tháng… năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thƣ viện Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội


- Thƣ viện Quốc Gia Việt Nam


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về khoa học
Hiện tượng song ngữ là hiện tượng khá phổ biến trong văn học trung
đại của nhiều nước, phương Đông cũng như phương Tây. Ở phương Đông,
các nước như Triều Tiên/ Hàn Quốc, Nhật Bản cùng với việc sử dụng
ngôn ngữ bản địa là việc sử dụng tiếng Hán trong sáng tác văn chương. Ở
các nước phương Tây như Anh, Pháp, Ý, Đức trong văn học trung đại có
hiện tượng sử dụng tiếng Latinh song hành với ngôn ngữ bản địa. Hiện
tượng song ngữ cũng đã làm nên đặc điểm riêng của văn học trung đại
Việt Nam - thành phần văn học viết gồm hai thành phần văn học chữ Hán
và văn học chữ Nôm.
Nghiên cứu hiện tượng song ngữ là nghiên cứu một trong những đặc
điểm lớn của văn học trung đại Việt Nam. Từ hiện tượng song ngữ có thể
hiểu sâu hơn bản chất, quy luật phát triển của văn học Việt Nam thời trung
đại từ quan điểm văn học, quan điểm thẩm mĩ đến ngôn ngữ nghệ thuật, bút
pháp nghệ thuật…
Nhiều tác giả văn học trung đại Việt Nam, trong đó có nhiều tên tuổi
lớn sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm như: Trần Nhân Tông, Nguyễn
Trãi, , Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến…
Qua hiện tượng song ngữ có thể hiểu sâu sắc hơn về các tác giả, tác phẩm
cùng vị trí và đóng góp của họ đối với nền văn học nước nhà.
Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam vừa là một
hiện tượng mang tính đặc thù của văn học dân tộc thời trung đại, vừa mang
tính phổ quát, tính quốc tế. Trong bối cảnh văn học các nước khu vực như

Triều Tiên/ Hàn Quốc và Nhật Bản – là các nước chịu ảnh hưởng của văn
hóa chữ Hán trong thời trung đại hay trong lịch sử văn học các nước
phương Tây từ sau đế quốc Tây La Mã sụp đổ đến trước thời kỳ Phục
hưng cũng tồn tại hiện tượng song ngữ trong văn học. Vì vậy, đề tài luận
án góp thêm một cách nhìn về văn học trung đại Việt Nam trong cộng
đồng văn học khu vực và quốc tế.


2

1.2. Về thực tiễn
Đề tài có ý nghĩa thiết thực đối với việc nghiên cứu và giảng dạy văn
học trung đại Việt Nam nói chung như đặc điểm, đặc trưng của văn học, các
vấn đề về thể loại, ngôn ngữ của văn học trung đại Việt Nam cũng như về các
tác gia lớn sáng tác bằng song ngữ ở trường phổ thông, cao đẳng và đại học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án “Hiện tƣợng song ngữ trong văn học trung đại Việt
Nam” đi theo một trong những hướng nghiên cứu phổ biến hiện nay,
hướng nghiên ciện tượng song ngữ ở các thể loại văn học nội sinh như: truyện
thơ, ngâm khúc, hát nói.
4.2. HIỆN TƢỢNG SONG NGỮ VỚI NGÔN NGỮ TRONG VĂN
HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
4.2.1. Quá trình phát triển của hiện tƣợng song ngữ trong văn
học trung đại Việt Nam từ phƣơng diện ngôn ngữ


20

Ở mục này, chúng tôi khái quát quá trình phát triển của hiện tượng

song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam từ phương diện ngôn ngữ
thành hai quy luật: Thứ nhất, hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại
Việt Nam ở phương diện ngôn ngữ đi từ sáng tác chữ Hán là chủ yếu, tiếp
đến là sử dụng chữ Nôm trong sáng tác cuối cùng là việc sáng chữ Nôm
giữ vai trò ưu thế; Thứ hai, hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại
Việt Nam ở phương diện ngôn ngữ đi từ yếu tố Hán với ngôn ngữ sách vở,
bác học, đậm tính chất tao nhã, uyên bác đến yếu tố Nôm với ngôn ngữ
càng gần đời sống, tự nhiên bình dị.
4.2.2. Vấn đề xử lí các yếu tố ngoại nhập và nội sinh trên phƣơng
diện ngôn ngữ ở hiện tƣợng song ngữ
Ở phần này, người viết phân tích ngôn ngữ Hán trong văn học trung
đại Việt Nam với việc sử dụng chữ Hán, điển cố và thi liệu Hán học trong
tác phẩm văn chương của một số tác giả song ngữ tiêu biểu;
Đồng thời phân tích ngôn ngữ dân tộc trong văn học trung đại Việt
Nam của một số tác giả song ngữ tiêu biểu với việc sử dụng lớp từ Việt và
ngôn ngữ văn học dân gian như thành ngữ, tục ngữ, ca dao, sử dụng khẩu
ngữ, thường được xem là thành phần ngôn ngữ bình dân; Cũng như phân
tích mối quan hệ qua lại giữa ngôn ngữ Hán và ngôn ngữ dân tộc xét theo
cả hai chiều ảnh hưởng từ Hán sang Việt và từ Việt sang Hán.
TIỂU KẾT
Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam thể hiện sâu
sắc trên phương diện thể loại và phương diện ngôn ngữ. Sự phát triển thể
loại nhìn từ hiện tượng song ngữ có diễn tiến: từ các thể loại tiếp thu với
ngôn ngữ Hán, qua thể loại dân tộc hóa với việc sử dụng tiếng Việt – chữ
Nôm, đến thể loại văn học nội sinh với vị trí ưu thắng của tiếng Việt –
chữ Nôm. Hiện tượng song ngữ ở các thể loại viết bằng văn biền ngẫu
gồm hịch và văn tế trong khi các thể loại văn biền ngẫu khác như biểu,
chiếu, cáo được viết hoàn toàn bằng chữ Hán. Ở thể loại văn xuôi, hiện
tượng song ngữ xảy ra ở thể loại truyện truyền kỳ còn các thể loại văn
xuối khác được viết bằng chữ Hán. Hiện tượng song ngữ phát triển mạnh

mẽ nhất ở thể loại văn vần như thơ, phú, truyện thơ và ngâm khúc. Trong


21

đó, thơ là thể loại biểu hiện rõ nhất và mạnh nhất của hiện tượng sáng tác
bằng song ngữ Hán Nôm với sự hình thành và phát triển của thơ Nôm
Đường luật - thể loại dân tộc hóa thành công nhất trong lịch sử văn học
trung đại Việt Nam. Quá trình vận động và phát triển của hiện tượng song
ngữ trong văn học trung đại Việt Nam trong ở giai đoạn cuối đánh dấu sự
phát triển của các thể loại văn học nội sinh như truyện thơ, ngâm khúc và
hát nói. Ở các thể loại này, chữ Nôm đã hoàn toàn chiếm ưu thế, các tác
phẩm viết bằng chữ Hán rất ít, nhất là ở thể loại tự sự bằng văn vần như
thể loại truyện thơ. Đồng thời ở các tác phẩm sáng tác bằng chữ Nôm thì
những từ Hán Việt cũng xuất hiện với một tần số không nhiều.
Trên phương diện ngôn ngữ, hiện tượng song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam có sự tồn tại song song giữa ngôn ngữ Hán và ngôn
ngữ dân tộc (chữ Nôm). Các yếu tố ngôn ngữ Hán bao gồm từ ngữ Hán,
điển cố và thi liệu Hán học. Trong khi đó, ngôn ngữ dân tộc với khẩu
ngữ, tục ngữ, thành ngữ và ca dao. Các yếu tố Hán và Nôm về ngôn ngữ
không chỉ tồn tại độc lập nhau mà còn có sự tác động ảnh hưởng lẫn
nhau. Tất nhiên ảnh hưởng theo chiều từ Hán sang Nôm vẫn mạnh mẽ
hơn so với chiều ngược lại từ Nôm sang Hán.
KẾT LUẬN
1. Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là một
hiện tượng vừa có tính đặc thù vừa có tính phổ quát. Hiện tượng song ngữ
là một trong những đặc trưng tiêu biểu của văn học Việt Nam từ thế kỷ X
đến hết thế kỷ XIX, hiện tượng này cũng mang tính phổ quát, vì ở văn học
các nước trong khu vực chịu ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán như Triều
Tiên/ Hàn Quốcvà Nhật Bản cũng có hiện tượng vừa sáng tác bằng ngôn

ngữ vay mượn (chữ Hán) vừa sáng tác bằng ngôn ngữ bản địa (chữ Ydu,
Hangul ở Hàn Quốc/Triều Tiên, chữ Kana trong văn học Nhật Bản). Cần
lưu ý rằng, ngôn ngữ vay mượn (chữ Hán) là tử ngữ tức là chữ Hán văn
ngôn chứ không phải là một sinh ngữ (chữ Hán bạch thoại). Tương tự như
thế, ở một số nước phương Tây như Anh, Pháp, Ý, Đức,… cũng có hiện
tượng vay mượn tiếng Latinh (cũng là một tử ngữ) để sáng tác văn học bên


22

cạnh ngôn ngữ bản địa. Nghiên cứu về hiện tượng song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam chưa thật nhiều và cũng chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách đầy đủ, hệ thống và toàn diện hiện tượng song ngữ.
2. Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam được hình
thành trên những cơ sở lịch sử, xã hội nhất định, đó là lịch sử hình thành
văn học viết bằng chữ Hán khi nước nhà bước vào thời kỳ độc lập tự chủ
lâu dài. Niềm tự hào và ý thức dân tộc của con dân một nước có truyền
thống văn hóa và truyền thống lịch sử đã thôi thúc các thế hệ cha ông sử
dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học từ thế kỷ XIII. Đây cũng là dấu mốc
thời gian của sự xuất hiện hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại
Việt Nam. Hiện tượng này dựa trên những tiền đề về tư tưởng, văn hóa và
thẩm mĩ mang ảnh hưởng của Nho giáo, của xã hội phong kiến, của ý thức
dân tộc. Những chính sách về ngôn ngữ của các triều đại phong kiến trong
việc duy trì địa vị độc tôn và chính thống của chữ Hán cũng như chính
sách khuyến khích sử dụng chữ Nôm và coi trọng chữ Nôm của một số
triều đại trong lịch sử cũng là một yếu tố góp phần cho sự tồn tại song
song của cả hai bộ phận văn học viết bằng chữ Hán và văn học viết bằng
chữ Nôm. Cùng với đó, bản thân chữ Nôm, trong quá trình vận động và
phát triển cũng cho thấy những ưu điểm và hạn chế trong quá trình sáng
tác. Do đó, mặc dù với tư cách là ngôn ngữ của dân tộc nhưng chữ Nôm

cũng không thể đủ sức đánh bật chữ Hán để thay vào vị trí độc tôn và
chính thống đó. Tuy nhiên chữ Nôm cũng chiếm được những ưu thế nhất
định trong giai đoạn cuối với sự xuất hiện của những thể loại văn học nội
sinh. Bất kỳ một hiện tượng nào cũng có quá trình hình thành, vận động,
biến đổi và phát triển với những quy luật riêng của nó. Hiện tượng song
ngữ trong văn học trung đại Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam là song ngữ
bất bình đẳng. Khi viết về những vấn đề lớn lao, về quốc gia, về dân tộc,
“chở đạo”, “nói chí”, những đề tài cao cả, tao nhã người ta thường sử dụng
chữ Hán. Trong khi đó, người ta thường lựa chọn chữ Nôm để viết về
những vấn đề giản dị, thông tục, đời thường. Văn học sáng tác bằng chữ
Hán được coi trọng và mang tính chính thống. Ngược lại, văn học chữ


23

Nôm có khi bị coi nhẹ, thậm chí có khi không được coi là những sáng tác
văn chương đích thực mà sáng tác chỉ để giải trí, mua vui. Tuy nhiên, với
những tác gia lớn trong văn học trung đại Việt Nam như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến,… văn học sáng tác
bằng chữ Nôm vẫn được coi là những sáng tác văn chương đích thực.
Những tác giả này luôn có một sự tìm tòi sáng tạo, cách tân và dụng tâm
sâu sắc ở những tác phẩm viết bằng ngôn ngữ dân tộc. Nhiều tác phẩm của
họ được liệt vào hàng kiệt tác.
Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam có thể chia làm
ba giai. Giai đoạn mở đầu, từ thế kỷ X – XIV với các sáng tác bằng chữ Hán
văn ngôn là chủ yếu. Đến cuối thế kỉ XIII, lịch sử văn học đã ghi nhận việc
sử dụng chữ Nôm vào sáng tác văn chương. Kể từ đây, văn học Việt Nam
trung đại Việt Nam tồn tại song song hai bộ phận văn học: một bộ phận viết
bằng ngôn ngữ vay mượn là chữ Hán và một bộ phận viết bằng ngôn ngữ

dân tộc là chữ Nôm. Giai đoạn hai, từ thế kỷ XV – XVII, đây là giai đoạn
phát triển nở rộ của hiện tượng song ngữ với việc Việt hóa thành công thể
thơ Đường luật. Giai đoạn này cũng xuất hiện của nhiều thi tập lớn viết bằng
chữ Nôm như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi; Hồng Đức quốc âm thi tập
của Lê Thánh Tông và các văn nhân thời Hồng Đức; Bạch Vân quốc ngữ thi
tập của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Giai đoạn cuối, từ thế kỷ XVIII –
hết thế kỷ XIX, đây là giai đoạn phát triển đỉnh cao của hiện tượng song ngữ
với sự ưu thắng của tiếng Việt, chữ Nôm.
3. Trong các mối quan hệ ảnh hưởng qua lại, hiện tượng song ngữ thể
hiện rõ nhất ở loại hình tác giả. Trong văn học trung đại Việt Nam có một
loại hình tác giả vừa sáng tác bằng chữ Hán vừa sáng tác bằng tiếng Việt –
chữ Nôm. Tiêu biểu trong số này phải kể đến những tên tuổi như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến. Tác giả song
ngữ có những đặc điểm như: Loại hình tác giả song ngữ với xuất thân nho
học và khoa bảng; Loại hình tác giả song ngữ gắn với bối cảnh lịch sử, xã hội
buổi giao thời; Loại hình tác giả song ngữ gắn với kiểu nhà nho hành đạo và
nhà nho ẩn dật; Loại hình tác giả song ngữ với tư tưởng, quan điểm nghệ
thuật của nho gia. Nghiên cứu về loại hình tác giả song ngữ còn cho thấy sự


24

đa dạng và thống nhất trong nhận thức về tình trạng song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam. Sự đa dạng đem đến nhiều kiểu tác giả trong loại hình
tác giả song ngữ như: Nguyễn Trãi với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - chính
trị; Nguyễn Bỉnh Khiêm với kiểu tác giả song ngữ trữ tình - triết lí; Nguyễn
Du với kiểu tác giả song ngữ trữ tình – tự sự và Nguyễn Khuyến với kiểu tác
giả song ngữ trữ tình – trào phúng, liên văn bản. Trong khi đó sự thống nhất
trong nhận thức về tình trạng song ngữ cho thấy các tác giả coi sáng tác chữ
Hán và chữ Nôm đều là sáng tác nghệ thuật đích thực.

4. Hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt Nam còn biểu
hiện trên phương diện thể loại và ngôn ngữ. Trên phương diện thể loại,
hiện tượng song ngữ xuất hiện ở cả văn học chức năng và văn học nghệ
thuật với mức độ và quy mô không giống nhau. Ở văn học chức năng, có
hiện tượng song ngữ chủ yếu ở thể loại hịch, văn tế và kệ. Trong khi đó,
các thể loại văn học chức năng khác như cáo, chiếu, biểu, văn sách, điều
trần, tấu, sớ,… hầu hết được sáng tác bằng chữ Hán. Ở các thể văn xuôi
tự sự chỉ duy nhất Tân biên truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Thế Nghi là
được ông dịch ra chữ Nôm từ tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ còn lại đều được sáng tác bằng chữ Hán. Ở các thể loại trữ tình nghệ
thuật, thơ Nôm Đường luật nổi lên như một hiện tượng mạnh mẽ nhất với
những thành tựu rực rỡ cả về nội dung và nghệ thuật. Bên cạnh đó, hiện
tượng song ngữ xuất hiện ở thể loại phú, một thể loại cũng được Việt hóa
khá thành công. Các thể loại văn học nội sinh như diễn ca lịch sử, truyện
thơ, ngâm khúc, hát nói đều có biểu hiện của hiện tượng song ngữ. Ở
phương diện ngôn ngữ, hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại Việt
Nam vừa có sự tồn tại độc lập của ngôn ngữ Hán và ngôn ngữ dân tộc
nhưng đồng thời hai ngôn ngữ này cũng có mối quan hệ qua lại với nhau.
5. Từ những nghiên cứu về hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại
Việt Nam có thể mở ra những hướng nghiên cứu mới, đề tài mới. Ví dụ như các
vấn đề riêng về hiện tượng song ngữ của một tác giả cụ thể, một thể loại cụ thể
hoặc một nhóm tác giả, nhóm thể loại hay một giai đoạn văn học. Cũng có thể
hướng đến nghiên cứu so sánh giữa hiện tượng song ngữ trong văn học trung đại
Việt Nam với các nước trong khu vực hoặc thậm chí khái quát lên thành một
hiện tượng mang tầm thế giới cũng không phải không có cơ sở.


25

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.

Nông Văn Ngoan (2016), “Đặc trưng thi pháp thể loại phú trong văn học
Việt Nam thời trung đại”, Tạp chí khoa học, Trường Đại học Tây Nguyên
(16), tr. 73 -76.

2.

Nông Văn Ngoan (2017), “Hiện tượng sáng tác bằng song ngữ của
một số tác gia tiêu biểu trong văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí
khoa học, Trường Đại học Tây Nguyên (23), tr. 117-119.

3.

Nông Văn Ngoan (2017), “Thể loại văn học trung đại Việt Nam nhìn
từ hiện tượng song ngữ”, Kỉ yếu hội thảo Nghiên cứu sinh, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, tr. 108 -112.

4.

Nông Văn Ngoan (2018), “Hiện tượng song ngữ trong văn học Nhật
Bản thời trung đại Việt Nam”, Tạp chí khoa học, Trường Đại học Tây
Nguyên (28), tr. 115-118.

5.

Nông Văn Ngoan (2018), “Loại hình tác giả song ngữ trong văn học
trung đại Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật (405), tr. 83-86.


6.

Nông Văn Ngoan (2018), “Hiện tượng song ngữ trong văn học trung
đại các nước Việt Nam, Triều Tiên/ Hàn Quốc và Nhật Bản dưới góc
nhìn so sánh”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (3), tr.98-108.

7.

Nông Văn Ngoan (2018), “Chính sách ngôn ngữ của nhà nước phong
kiến Việt Nam nhìn từ hiện tượng song ngữ”, Tạp chí khoa học,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1), tr.74-80.



×