Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

văn hóa phật giáo và vấn đề bảo tồn văn hóa phật giáo việt nam từ sau đổi mới đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.56 KB, 39 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tiểu luận này em đã nhận được sự giúp đỡ của quý thầy cô
trong khoa Lịch Sử, đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS. TS Lê Cung
- người đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành bài tiểu luận. Nhờ sự quan tâm, chỉ dẫn
tận tình và những lời động viên của Thầy đã giúp em biết được những hạn chế của
mình, vượt qua nhiều khó khăn trong quá trình nghiên cứu đề tài. Vì vốn kiến thức
của em còn hạn hẹp nên bài tiểu luận của em còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận
được ý kiến, đóng góp của thầy và các thầy cô trong khoa để bài tiểu luận này hoàn
chỉnh hơn.
Qua đây em cũng gửi lời cảm ơn tới các cán bộ Thư viện trường Đại học Sư phạm
Huế đã giúp em trong quá trình thu thập tư liệu để làm bài tiểu luận.
Đồng thời, em cũng gửi lời cảm ơn chân thành đến những người thân trong gia
đình và bạn bè đã luôn bên cạnh, động viên, giúp đỡ em có thể hoàn thành tốt nhiệm
vụ học tập trong thời gian qua.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Ánh Ngọc

1


2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trải qua hơn 2.000 năm du nhập và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo đã chứng
tỏ được vị thế của mình, gắn bó cùng dân tộc, hòa quyện với văn hóa dân tộc,
những thành tố văn hóa dân tộc Việt Nam như: ngôn ngữ, niềm tin, tập quán, văn


học, nghệ thuật,…không đâu là không có dấu ấn của văn hóa Phật giáo. Được biết
đến là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới (1), ra đời ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ
thứ VI trước Tây lịch. Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm (đầu Tây lịch), Phật giáo
đã nhanh chóng hòa mình cùng dòng chảy của văn hóa dân tộc Việt Nam, gần gũi
và thấm sâu trong tâm thức của người dân Việt, dung hợp với tín ngưỡng bản địa,
tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, thổi vào văn hóa Việt Nam
một làn gió văn hóa mới, đó chính là văn hóa Phật giáo. Giáo lý, đạo đức Phật
giáo với sự đề cao tính nhân ái, vị tha, khuyên răn con người tránh điều ác, làm
điều thiện, tất cả đều gần gũi với tư duy, lối sống và văn hóa của con người Việt
Nam. Phật giáo đã đóng góp những giá trị văn hóa của mình để làm giàu và phong
phú hơn cho kho tàng văn hóa Việt Nam. Chính bởi vậy, văn hóa Phật giáo được
xem như một thành tố không thể thiếu của nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
Phật giáo với tư cách là một tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, vì vậy
trong giai đoạn hiện nay khi vấn đề toàn cầu hóa đang ngày càng mở rộng, đặt ra
những thách thức đối với sự đổi mới và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
thì văn hóa Phật giáo với những giá trị của mình sẽ ảnh hưởng trực tiếp và đóng
vai trò là một chủ thể quan trọng để trở thành cầu nối cho văn hóa Việt Nam sánh
bước phát triển cùng với nhiều nền văn hóa khác trên thế giới. Hơn nữa, trong bối
cảnh hiện nay, khi hiện tượng xâm lăng văn hóa, những làn sóng văn hóa ngoại lai
đang trở thành rào cản, làm mất đi những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của
dân tộc ta thì việc nghiên cứu về văn hóa Phật giáo và bảo tồn văn hóa Phật giáo
Việt Nam với mục đích gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc lại càng trở
nên ý nghĩa và thiết thực.
Xuất phát từ những lí do nêu trên tôi chọn đề tài nghiên cứu “Văn hóa Phật
giáo và vấn đề bảo tồn văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện nay” làm bài tiểu luận
của mình. Với đề tài này, tôi mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu
văn hóa Phật giáo, đồng thời nhận định rõ hơn vị thế của văn hóa Phật giáo trong
xã hội Việt Nam hiện nay và đưa ra một số giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy
những tinh hoa của văn hóa Phật giáo trong nền văn hóa Việt Nam.


(1)

Hai tôn giáo kia là: Kitô giáo và Hồi giáo.
3


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Văn hóa Phật giáo với tư cách là một nhân tố cấu thành trong văn hóa Việt Nam
nên không thể thiếu vào việc tham gia và đóng góp trong tiến trình xây dựng nền
văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, nghiên cứu về văn hóa Phật giáo và bảo tồn văn hóa
Phật giáo Việt Nam vẫn chưa có nhiều công trình khai thác chuyên sâu. Trong
phạm vi liên quan đến đề tài này, tôi tạm chia ra các mảng như sau:
Các công trình sách nghiên cứu về Phật giáo và văn hóa Phật giáo gồm có:
- Về Phật giáo: Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, 1999; Việt
Nam Phật giáo sử luận I - II - III của Nguyễn Lang, 2000; Tinh thần nhập thế của
Phật giáo Việt Nam(1945-1975) của Lê Cung,2019; Lịch sử Phật giáo Việt Nam
của Lê Mạnh Thát (gồm tập I, II, III xuất bản năm 1999, 2001 và 2002); Khái
lược Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Cao Thanh, 2008; Mấy vấn đề về Phật giáo
trong lịch sử Việt Nam của Nguyễn Đức Sự và Lê Tâm Đắc, 2010;… Đây là một
số công trình nghiên cứu khái quát về quá trình du nhập và phát triển của Phật
giáo vào Việt Nam, qua đó giúp người đọc hiểu rõ hơn về tiến trình hình thành và
phát triển của Phật giáo Việt Nam qua hơn 2.000 năm lịch sử, Phật giáo đã gắn bó
và bám rễ, thấm sâu trong đời sống tinh thần, sinh hoạt văn hóa, tập quán, tín
ngưỡng của người Việt Nam.
- Về văn hóa Phật giáo có những công trình kể đến như: Văn hóa Phật giáo và lối
sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ của Nguyễn Thị Bảy, 1997;
Phật giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy, 1999; Truyền thống văn
hóa và Phật giáo Việt Nam của Minh Chi, 2003;… Nhìn chung, các công trình
nghiên cứu đều chỉ ra vai trò cũng như những đóng góp của Phật giáo và văn hóa
Phật giáo đối với nền văn hóa Việt Nam, qua đó khẳng định Phật giáo và văn hóa

Phật giáo có ảnh hưởng nhất định trong đời sống xã hội, đặc biệt là đời sống văn
hóa tinh thần.
Ngoài ra, cũng có một số học giả đã lấy đề tài văn hóa Phật giáo để nghiên cứu
chuyên sâu trong các luận văn Thạc sĩ và luận án Tiến sĩ của họ. Có thể kể đến
như: Phan Nhật Huân (2008) với đề tài “Ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo đối
với văn hóa Việt Nam (thời Lý - Trần)”, luận văn Thạc sĩ Triết học, Đại học sư
phạm Hà Nội. Trong luận văn của mình, tác giả đã làm sáng tỏ ảnh hưởng của văn
hóa Phật giáo đối với văn hóa Việt Nam thời kỳ Lý - Trần (từ thế kỷ XI đến thế kỷ
XIV) trên một số lĩnh vực cụ thể của văn hóa như văn học, kiến trúc… Qua đó đề
ra một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa Phật giáo Việt
Nam thời Lý - Trần trong bối cảnh hiện nay. Tiếp đến, Phan Thị Lan (2010) “Đạo
đức Phật giáo trong đời sống đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay”, luận văn Thạc
sĩ Triết học, Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội. Với đề tài này, tác giả
đã đưa ra quan niệm, phạm trù đạo đức Phật giáo, phân tích ảnh hưởng của đạo
đức Phật giáo đến nhân cách của người Việt Nam. Đồng thời, kiến nghị một số
giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của
đạo đức Phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
4


Trên các báo, tạp chí chuyên ngành cũng có nhiều bài viết tập trung nghiên cứu
vấn đề bảo tồn văn hóa Phật giáo như:
- Nguyễn Quế Hương và Nguyễn Ngọc Quỳnh (2005) “Về công tác bảo tồn và
phát huy giá trị di tích Phật giáo trong những năm gần đây”, tạp chí Khoa học xã
hội Việt Nam, số 1, tr 69 - 78.
- Đặng Văn Bài (2008) “Nhận diện để phát huy giá trị di sản văn hóa Phật giáo
Việt Nam”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 5, tr 16 - 22.
- Nguyễn Hữu Oanh (2009) “Bảo vệ, phát huy văn hóa Phật giáo một nhiệm vụ
quan trọng & cấp thiết”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 1, tr 13 - 16.
Các bài viết trên đều thống nhất về quan điểm bảo tồn văn hóa Phật giáo một cách

trực tiếp hoặc gián tiếp, ở các mức độ và khía cạnh khác nhau, từng bước nhận
diện và đánh giá sự cấp thiết trong việc gìn giữ, phát huy những giá trị của văn
hóa Phật giáo. Ngoài ra, trên các tạp chí nghiên cứu khác như: tạp chí nghiên cứu
Phật học, tạp chí Văn hóa Nghệ thuật,… cũng có nhiều bài viết liên quan đến vấn
đề bảo tồn văn hóa Phật giáo.
Nhìn chung, các công trình trên ở mức độ khác nhau, trong đó ít nhiều đề cập
đến văn hóa Phật giáo và bảo tồn văn hóa Phật giáo Việt Nam. Theo hướng
nghiên cứu, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước, trên cơ sở đó
thực hiện đề tài của mình. Trong bài tiểu luận nghiên cứu về đề tài này, tôi tiếp tục
làm rõ vị trí và vai trò của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam. Đồng thời,
đối với vấn đề bảo tồn văn hóa Phật giáo, tôi sẽ đưa ra một số quan điểm, chính
sách của Đảng, Nhà nước, Giáo hội Phật giáo Việt Nam để thấy được những vấn
đề đặt ra đối với các cấp quản lý trong hoạt động bảo tồn và phát huy những giá
trị của văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu là văn hóa Phật giáo và vấn đề bảo tồn văn hóa

Phật giáo.
Về phạm vi nghiên cứu:
Không gian, nghiên cứu văn hóa Phật giáo Việt Nam và vấn đề bảo tồn văn
hóa Phật giáo Việt Nam hiện nay.
Thời gian, từ sau đổi mới (1986) đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Về mục đích, bài tiểu luận trên cơ sở khái quát về văn hóa Phật giáo và vị trí
của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam, tập trung phân tích, làm sáng tỏ
vấn đề bảo tồn văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện nay. Qua đó đưa ra một số giải
pháp để bảo tồn văn hóa Phật giáo nhằm góp phần xây dựng và phát triển văn hóa
Việt Nam.
Về nhiệm vụ, để thực hiện tiểu luận thứ nhất tôi tiến hành phân tích khái niệm
và biểu hiện của văn hóa Phật giáo; làm rõ vị trí của văn hóa Phật giáo trong văn

hóa Việt Nam. Thứ hai, trình bày một số tư tưởng của Hồ Chí Minh; quan điểm,
chính sách của Đảng, Nhà nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam đối với vấn đề
5


bảo tồn văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện nay. Thứ ba, đưa ra một số giải pháp đối
với vấn đề bảo tồn văn hóa Phật giáo Việt Nam.
5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu
Về cơ sở lý luận:
Dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của
Đảng và chính sách của Nhà nước về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.
Về phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp nghiên cứu tôn giáo học, đồng thời kết hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phân tích và tổng hợp; sự thống nhất giữa
lôgíc và lịch sử; các phương pháp khái quát hóa, trừu tượng hóa; xử lý tư liệu…
6. Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở phân tích khái quát về văn hóa Phật giáo và những biểu hiện của
văn hóa Phật giáo; bài tiểu luận làm rõ vai trò và vị trí của văn hóa Phật giáo
trong văn hóa Việt Nam. Từ đó, bài tiểu luận đưa ra những quan điểm để bảo tồn
văn hóa Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, trình bày một số
giải pháp đối với bảo tồn văn hóa Phật giáo Việt Nam nhằm gìn giữ và phát huy
những giá trị văn hóa Phật giáo trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa văn hóa.
7. Bố cục
Ngoài phần mở đầu (4 trang), kết luận (1 trang), danh mục tài liệu tham khảo
(1 trang), bài tiểu luận kết cấu làm 2 chương:
Chương 1: Văn hóa Phật giáo và vị trí của văn hóa Phật giáo trong văn hóa
Việt Nam (trang)
Chương 2: Vấn đề bảo tồn văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện nay (trang)


CHƯƠNG 1
VĂN HÓA PHẬT GIÁO VÀ VỊ TRÍ CỦA VĂN HÓA PHẬT GIÁO
TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM
1.1. Văn hóa Phật giáo và biểu hiện của Văn hóa Phật giáo
1.1.1. Khái niệm “Văn hóa Phật giáo”
Phật giáo đã trải qua hơn 2.000 năm lịch sử du nhập và phát triển ở Việt Nam. Bằng
con đường hòa bình, những giáo lý của đạo Phật về bình đẳng, bác ái, cứu khổ, cứu
6


nạn,… gần gũi với người dân, gắn kết với truyền thống văn hóa tín ngưỡng bản địa,
đã tạo nên những nét đặc sắc riêng của Phật giáo trong nền văn hóa dân tộc. Từ việc
đóng góp những giá trị của mình trong dòng chảy văn hóa Việt Nam, Phật giáo và
văn hóa Phật giáo thực sự đã trở thành một phần quan trọng của văn hóa Việt Nam.
Vì văn hóa Phật giáo với tư cách là thành tố cơ bản của văn hóa nên cũng mang
những nét đặc trưng của văn hóa. Do vậy, trước khi tìm hiểu khái niệm “Văn hóa
Phật giáo” thì cần phải hiểu về khái niệm “Văn hóa”. Thêm vào đó, việc nghiên cứu
một vài nét khái quát về Phật giáo và văn hóa sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn khái niệm
“Văn hóa Phật giáo”.
* Một số khái niệm về văn hóa
Có thể nói, văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người, do vậy rất
khó để đưa ra một định nghĩa chính xác về văn hóa. Về mặt thuật ngữ khoa học: Văn
hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh "Cultus" với nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng
theo nghĩa Cultus Agri là "gieo trồng ruộng đất" và Cultus Animi là "gieo trồng tinh
thần" tức là "sự giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con người". Theo nhà triết học người
Anh Thomas Hobbes (1588 - 1679): "Lao động dành cho đất gọi là sự gieo trồng và
sự dạy dỗ trẻ em gọi là gieo trồng tinh thần". [20] Tuy khái niệm văn hóa được dùng
theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng thường có thể hiểu theo hai cách: theo nghĩa hẹp
và theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, văn hóa được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo

chiều rộng, theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa
được xem là những giá trị tinh hoa (nếp sống văn hóa, văn hóa nghệ thuật…). Giới
hạn theo chiều rộng, văn hóa được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực (văn
hóa giao tiếp, văn hóa kinh doanh…). Giới hạn theo không gian văn hóa, văn hóa
được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng, miền (văn hóa phương Đông,
văn hóa phương Tây…). Giới hạn theo thời gian, văn hóa được dùng để chỉ những
giá trị trong từng giai đoạn (văn hóa cổ đại, văn hóa hiện đại…). Theo nghĩa rộng,
văn hóa thường được xem là bao gồm tất cả những gì do con người sáng tạo ra.
Chính với cách hiểu rộng này, văn hóa đã trở thành đối tượng của văn hóa học - khoa
học nghiên cứu về văn hóa.
Trong lĩnh vực này, nhà nhân học người Anh, Edward. Burnett. Tylor là người đầu
tiên trình bày định nghĩa về văn hóa như một đối tượng nghiên cứu khoa học trong
công trình “Văn hóa nguyên thủy” (Primitiveculture) xuất bản ở Luân Đôn, năm
1871, trong đó E. B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa
rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh
với tư cách một thành viên của xã hội” [13, tr 13]. Theo định nghĩa như vậy thì văn
hóa và văn minh là một; nó bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống
con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật… Có người ví,
định nghĩa này mang tính “bách khoa toàn thư” vì đã liệt kê hết mọi lĩnh vực sáng
tạo của con người [2, tr 39].
7


Như vậy, mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và môi trường là quan trọng trong việc
hình thành văn hóa của con người. Năm 1952, nhà nhân học người Mỹ A.L. Kroeber
và C. Kluckhohn xuất bản cuốn sách “Culture, a critical review of concept and
definitions” (Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái niệm và định nghĩa),
tác giả đã trích lục khoảng 160 định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở
nhiều nước khác nhau. Trong đó, họ cũng định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa

là những mô hình hành động minh thị và ám thị được truyền đạt dựa trên những biểu
trưng, là những yếu tố đặc trưng của từng nhóm người… Hệ thống văn hóa vừa là
kết quả hành vi vừa trở thành nguyên nhân tạo điều kiện cho hành vi... ” [5, tr 357].
Ở Việt Nam, một trong những khái niệm văn hóa thường được đề cập đến nhiều
nhất là định nghĩa của Chủ Tịch Hồ Chí Minh về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [6, tr 431]. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao
gồm toàn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra.
Có thể thấy rằng, các định nghĩa về văn hóa được đưa ra dưới nhiều cách tiếp cận và
phân loại khác nhau, nhưng tôi đồng ý với quan điểm về văn hóa của UNESCO đưa
ra năm 2002 như sau: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những
đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm
người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống,
phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin” [12].
Như vậy, văn hóa là một mẫu thức tập hợp kiến thức, tín ngưỡng và thái độ ứng xử
của con người. Trong ý nghĩa chung, văn hóa bao gồm ngôn ngữ, tư tưởng, niềm tin,
tập quán, luật lệ, lễ nghi, thể chế, công cụ, kỹ thuật, nghệ thuật và các thành tố liên hệ
khác. Sự phát triển văn hóa tùy thuộc vào khả năng học tập và truyền đạt kiến thức từ
thế hệ trước cho thế hệ sau. Hay tóm lại, văn hóa chính là tổng thể các giá trị đặc
trưng được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lâu dài của đất nước, giá trị
đặc trưng ấy mang tính bền vững, trường tồn. Văn hóa bao gồm giá trị vật chất và
tinh thần do lao động của con người làm ra và phục vụ lại cho chính con người.
Trong dòng chảy của văn hóa, Phật giáo với tư cách là một trong những thành tố của
văn hóa Việt Nam đã trở thành mạch nguồn xuyên suốt và ngày càng khẳng định vị
trí của mình trong trong dòng chảy ấy. Du nhập vào Việt Nam từ đầu Tây lịch theo
hai con đường: đường thủy thông qua buôn bán với thương gia Ấn Độ, đường bộ
thông qua giao lưu văn hóa với Trung Quốc nên Phật giáo ở Việt Nam chính là sản
phẩm của sự giao lưu, tiếp biến và cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ hai nền văn minh kể

trên. Quá trình truyền giáo và phát triển của đạo Phật khi du nhập vào Việt Nam một
mặt chịu sự tác động và chi phối của đặc trưng văn hóa, mặt khác nó tác động vào
chính văn hóa Việt Nam mà kết quả là Phật giáo sẽ thích ứng chọn lọc, hội nhập với
nền văn hóa, được làm phong phú và sâu sắc thêm bởi các giá trị văn hóa bản địa. Nó
không những tạo ra tư tưởng khoan hòa, nhân ái trong chính sách an dân trị quốc của
8


các vương triều Lý - Trần thời văn hóa Đại Việt, mà còn góp phần rất quan trọng
trong việc định hình lối sống, phong tục, chuẩn mực giá trị văn hóa Việt Nam. Phật
giáo không phải chỉ là tôn giáo thuần thúy, mà Phật giáo còn là đạo đức, là trí tuệ.
Phật giáo bổ sung cho văn hóa, thúc đẩy văn hóa phát triển, tạo nên một luồng văn
hóa mới - văn hóa Phật giáo Việt Nam, khác với Phật giáo Trung Quốc hay Ấn Độ cổ
đại. Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo với bản chất hòa bình, bao dung,
bình đẳng nên nhanh chóng được người Việt đón nhận và ghi dấu ấn trong tư tưởng,
văn hóa của người Việt Nam. [20]
Phật giáo từng bước tạo được chỗ đứng trong tâm thức người dân Việt bằng truyền
thuyết Man Nương kỳ bí và huyền ảo. Sự dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng
dân gian bản địa đã giúp cho Phật giáo gắn bó và đồng hành với văn hóa, con người
Việt Nam. Bởi văn hóa dân gian là sản phẩm sáng tạo của nhân dân, kết tinh trí tuệ,
thể hiện khát vọng và tâm tư tình cảm của nhân dân. Với tư cách là một phương diện
văn hóa, Phật giáo khẳng định được vị thế của mình trong nền văn hóa dân tộc. Phật
giáo có khả năng thâm nhập vào nhiều mặt của đời sống xã hội như: chính trị, văn
học, kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội…
Từ khi du nhập, cùng với chiều dài của lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo đã trải
qua một ngàn năm Bắc thuộc cho đến đời Đinh, Lê; bốn trăm năm cực thịnh trong
đời Lý - Trần và phát triển không ngừng suốt sáu trăm năm cho đến ngày nay. Phật
giáo đã cống hiến cho dân tộc Việt Nam những thành quả văn hóa vô cùng quý giá.
Phật giáo và văn hóa Phật giáo luôn giữ một vị thế quan trọng và không thể tách rời
văn hoá dân tộc. Có thể nói rằng, văn hóa Việt Nam một phần lớn là văn hóa Phật

giáo và nếu như không xét văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam thì chúng ta sẽ
không thể có một nền văn hóa đa dạng và phong phú như hiện nay.
Vậy văn hóa Phật giáo là gì?
Theo những quan niệm về văn hóa nêu trên và từ những giá trị Phật giáo mang lại
trong đời sống của con người, tôi cho rằng: Văn hóa Phật giáo là một bộ phận của
văn hóa nhân loại, là sự kết hợp giữa tinh hoa văn hóa vật chất và tinh thần của đạo
Phật chứa đựng trong đời sống của con người, được con người sáng tạo và tích lũy
trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình. Văn hóa Phật giáo chính là tổng thể các
giá trị đặc trưng, là những thành tựu mà Phật giáo có được trong lịch sử tồn tại và
phát triển.
Như vậy, văn hóa Phật giáo Việt Nam là văn hóa được xây dựng trên đất nước Việt
Nam, cho con người Việt Nam, trong xã hội Việt Nam, trong lịch sử Việt Nam... Qua
thời gian văn hóa Phật giáo đã thấm sâu vào phong tục tập quán, lối sống, hình thành
tư tưởng tình cảm... của người Việt Nam. Có thể thấy, khái niệm “Văn hóa Phật
giáo” cũng rất mới mẻ, khi Phật giáo không dừng lại ở một tôn giáo hay triết học, mà
phổ biến như một lối sống. [17]
Tóm lại, văn hóa Phật giáo không đứng ngoài, mà ở bên trong văn hóa nhân loại.
Nó là cái thống nhất trong chỉnh thể của văn hóa nhân loại, nhưng lại có những giá trị
đặc thù và đơn nhất của mình. Hơn nữa, cũng như văn hóa nói chung, văn hóa Phật
9


giáo có chức năng nhất định của mình và thể hiện rõ những chức năng đó qua việc
tác động đến cộng đồng Phật tử cũng như các cộng đồng khác.
1.1.2. Biểu hiện của Văn hóa Phật giáo
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, là một tôn giáo có hệ thống giáo lý
khá đồ sộ, sâu sắc và hoàn chỉnh, khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã đưa lại một
hệ thống các quan niệm về vũ trụ, nhân sinh cho cộng đồng người Việt. Phật giáo với
tư tưởng bao dung và độ lượng, hiếu hòa và đoàn kết, do vậy, giáo lý của đạo Phật
phù hợp với nguyện vọng của đại đa số người dân Việt. Phật giáo nhanh chóng được

nhân dân ta tiếp nhận, hòa quyện với truyền thống văn hóa Việt Nam và được ví như
“nước thấm vào lòng đất”, “sữa hòa với nước”. “Thuyết nhân quả” trong đạo Phật
phù hợp với quan niệm của dân gian “Ông Trời trừng phạt kẻ ác, cứu giúp người
hiền lành”, vì thế phương châm sống “ở hiền” để được “gặp lành”, tu thân, tích đức
được người dân đón nhận và thực hành theo.
Trong suốt chiều dài lịch sử, từ buổi đầu du nhập cho đến nay, Phật giáo đã thực sự
thâm nhập, ăn sâu vào trong tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc Việt Nam và trở
thành một phần bản sắc dân tộc. Văn hóa Phật giáo đã để lại cho dân tộc nhiều di sản
có giá trị đặc sắc. Trong sự hình thành và phát triển của mình, văn hóa Phật giáo biểu
hiện hết sức phong phú với nhiều hình thức, được thể hiện dưới hai dạng cụ thể là:
văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Chúng ta có thể thấy rằng: văn hóa vật thể
trong văn hóa Phật giáo là những sản phẩm được tồn tại dưới dạng vật chất, khắc họa
tiêu biểu thông qua hệ thống kiến trúc: Chùa, Tháp như chùa Một Cột, chùa Thầy,
chùa Dạm, chùa Phật Tích (Bắc Ninh), tháp Bình Sơn (Phú Thọ),... hay các tác phẩm
điêu khắc về tượng thờ, đồ thờ cúng và những tác phẩm hội họa về Phật giáo,... Văn
hóa phi vật thể trong văn hóa Phật giáo chính là hệ thống tư tưởng, các chuẩn mực,
giáo lý của đạo Phật; các nghi lễ; phong tục, tập quán; nghệ thuật của Phật giáo. [17]
Trước hết, trên phương diện văn hóa vật thể, có thể thấy văn hóa Phật giáo đã mang
lại những giá trị văn hóa đặc sắc, đóng góp vào kho tàng văn hóa dân tộc thể hiện khá
rõ trong các công trình kiến trúc, điêu khắc và hội họa.
- Về kiến trúc: Phật giáo truyền vào Việt Nam đã đem theo các kiểu kiến trúc chùa
tháp, lầu chuông, gác trống theo mô hình kiến trúc của Ấn Độ, Miến Điện và Trung
Hoa. Tuy nhiên cùng thời gian, tinh thần khai phóng của Phật giáo phối hợp với lối tư
duy tổng hợp của dân tộc Việt đã tạo ra một mô hình kiến trúc rất riêng cho Phật giáo
ở Việt Nam. Kiến trúc chùa Việt Nam nói chung và đồng bằng Bắc Bộ nói riêng
không cao lớn, đồ sộ, không lộng lẫy như một số nước ở các vùng lân cận (Lào, Thái
Lan, Campuchia…). Điều này cũng dễ hiểu, bởi trước hết một phần là do điều kiện tự
nhiên, phần khác là do tư duy người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ vốn hài hòa, nên ngôi
chùa Việt cũng mang phong cách hài hòa. Chùa, Tháp ở Việt nam thường được xây
dựng với lối kiến trúc đặc biệt, mái chùa ẩn dấu sau lũy tre làng, dưới gốc cây đa hay

ở một nơi có cảnh trí thiên nhiên đẹp hoặc thanh vắng. Ngôi chùa cũng chính là nơi
hội tụ các sinh hoạt cộng đồng, đời sống tâm linh của dân làng.

10


Hệ thống Chùa, Tháp phong phú, được hình thành và phát triển qua các giai đoạn,
đáng chú ý là kiến trúc Chùa, Tháp thời Lý - Trần. Khâm phục những thành tựu của
văn hóa Phật giáo Việt Nam thời Lý - Trần, sách vở Trung Hoa đời Minh truyền tụng
nhiều về bốn công trình nghệ thuật lớn mà họ gọi là An Nam tứ đại khí là tháp Báo
Thiên (1057), chuông Quy Điền (1080), vạc Phổ Minh (1262) và tượng Phật Di Lặc
chùa Quỳnh Lâm. Mặc dù, “Tứ Đại Khí” này đều bị quân Minh xâm lược tàn phá ở
thế kỷ XV nhưng những công trình nổi tiếng này vẫn được ghi chép và lưu truyền
qua sử sách.
Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm: Chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều (Quảng Ninh) được
xây dựng vào khoảng thế kỷ XI, có pho tượng Di - Lặc bằng đồng. Theo văn bia nay
vẫn còn giữ được trong chùa thì tượng cao 6 trượng (xấp xỉ 24m), đặt trong một tòa
Phật điện cao 7 trượng. Đứng từ bến đò Đông Triều, cách xa 10 dặm vẫn còn trông
thấy nóc điện.
Tháp Báo Thiên: Gồm 12 tầng, cao 20 trượng, do vua Lý Thánh Tông cho xây
dựng vào năm 1057 trên khuôn viên chùa Sùng Khánh ở phía tây hồ Lục Thủy (tức
hồ Gươm, Hà Nội) bằng đá và gạch, riêng tầng thứ 12 đúc bằng đồng. Tháp là đệ
nhất danh thắng đế đô một thời. Đến năm 1414, tháp bị quân Vương Thông tàn phá,
nền tháp còn lại to như một quả đồi, có thời dùng làm nơi họp chợ. Thời Pháp, những
gì còn sót lại đã bị phá hủy hoàn toàn để xây nhà thờ lớn trên đất ấy.
Chuông Quy Điền: Năm 1101, vua Lý Nhân Tông cho xuất kho hàng vạn cân đồng
để đúc quả chuông này và dự định treo tại chùa Diên Hựu (tiền thân chùa Một Cột
sau này), trong một tòa tháp bằng đá xanh cao 8 trượng. Nhưng chuông đúc xong to
quá (tương truyền có đường kính 1,5 trượng (gần 6m), cao 3 trượng (gần 12m), nặng
tới vài vạn cân), không treo lên nổi đành để ở ngoài ruộng. Mùa nước ngập, rùa bò ra

bò vào nên dân gian gọi là chuông Quy Điền (tức ruộng rùa).
Vạc Phổ Minh: Đúc bằng đồng vào thời Trần Nhân Tông, đặt tại sân chùa Phổ
Minh (tức Mạc, ngoại thành Nam Định). Vạc sâu 4 thước (gần 1,6m), rộng 10 thước
(gần 4m), nặng trên 7 tấn. Vạc to tới mức có thể nấu được cả một con bò mộng; trẻ
con có thể chạy nô đùa trên thành miệng vạc. Đến nay vẫn còn 3 trụ đá kê chân vạc
trước sân chùa. [10, tr 483 – 484]
Phật giáo cũng để lại nhiều quần thể kiến trúc độc đáo và danh lam thắng cảnh cho
nước Việt, nhiều ngôi chùa nổi tiếng ở miền Bắc với kiến trúc đặc trưng, tạo nên dấu
ấn của văn hóa Phật giáo như: chùa Một Cột, chùa Thầy, chùa Dạm…Trong đó nổi
tiếng nhất là ngôi Chùa Một Cột với tên gọi khác là chùa Diên Hựu (tức kéo dài tuổi
thọ), một tên gọi hết sức ý nghĩa ở vào thời điểm chúng ta mới thoát khỏi ách đô hộ
của phong kiến phương Bắc và bắt đầu bắt tay vào xây dựng, củng cố một quốc gia
độc lập thật sự. Theo các tài liệu, chùa Diên Hựu được dựng trên hồ Linh Chiểu, ở
vườn Tây Cấm trong kinh thành Thăng Long, với thiết kế đuôi mái cong lưỡng long
triều nguyệt, vững chãi trên một trụ đá như hoa sen thanh khiết vươn lên khỏi mặt hồ,
biểu hiện một sự thanh cao, trong sạch, thấm đượm tinh thần của Phật giáo và cũng

11


biểu trưng cho cốt cách tinh thần của người Việt. Hình ảnh của ngôi chùa với kiến
trúc độc đáo đã trở thành biểu tượng của văn hóa Việt Nam.
Không chỉ dừng ở đó, kiến trúc của Phật giáo còn thể hiện khát vọng, ước muốn của
người dân Việt, mỗi ngôi chùa lại được xây dựng theo lối kiến trúc riêng để truyền tải
những mong muốn ấy. Chẳng hạn như kiến trúc của chùa Dạm (Bắc Ninh) lý giải cho
những khát khao về cuộc sống no đủ, sinh sôi, ăn sâu vào tâm thức của con người qua
việc chọn cột đá khổng lồ nguyên khối để làm biểu tượng Linga (sinh thực khí), thể
hiện ước vọng mưa thuận gió hòa, vạn vật phồn vinh, sinh sôi nảy nở theo tư duy của
cư dân Việt chuyên canh lúa nước. Chùa Dạm hội tụ đủ huyết mạch linh thông theo
thuyết phong thủy, chùa đặt ở sườn núi phía Nam của dãy Lãm Sơn, chính giữa ngọn

cao nhất. Núi Rùa làm tiền án, ngòi Con Tên làm Minh Đường bên tả có Thanh Long,
bên hữu có Bạch Hổ chầu về. Chùa dựa hẳn vào sườn núi và bốn lớp nền đá trườn
theo sườn núi vừa tôn tầm cao công trình vừa tạo dáng vẻ uy nghiêm, hài hòa với
cảnh quan thiên nhiên xung quanh [10, tr 486].
Như vậy, kiến trúc chùa Phật giáo đã phần nào thể hiện được nét đẹp văn hóa và
chứa đựng những giá trị của văn hóa Phật giáo. Hơn nữa, kiến trúc chùa với mục đích
phục vụ nhu cầu tâm linh của người dân Việt nên lại càng làm cho nét đẹp văn hóa
đậm đà, phong phú.
- Về điêu khắc: Văn hóa Phật giáo không chỉ chuyển tải qua các công trình kiến trúc
mà còn được biểu hiện qua các sản phẩm điêu khắc. Những tác phẩm điêu khắc như
tượng nghìn tay, nghìn mắt (Bút Tháp), các pho tượng La Hán - Bồ Tát (Tây
phương), tượng Phật A Di Đà,… là những công trình nghệ thuật tiêu biểu, mang đến
những giá trị thẩm mỹ độc đáo cho kho tàng văn hóa Việt Nam.
Ngày nay có dịp tham quan viện bảo tàng lớn ở Việt Nam, chúng ta sẽ thấy nhiều
cốt tượng, phù điêu của Phật giáo được trưng bày, đó không những là một niềm tự
hào của nền văn hóa dân tộc Việt mà còn là dấu vết chứng minh sự ảnh hưởng của
Phật giáo có mặt trong lĩnh vực này. Tiêu biểu là các tác phẩm như tượng Bồ tát
Quan Âm nghìn mắt nghìn tay được thờ ở Chùa Bút Tháp. Ngoài pho tượng nghìn
mắt nghìn tay kể trên, tại nhiều chùa chiền Việt Nam, còn bảo lưu đến nay được
nhiều pho tượng đủ kiểu, đủ thể tài rất nổi tiếng khác. Chẳng hạn: tượng Quan Âm
Thiên Thủ, Thiên Nhãn ở chùa Kim Liên sau này được đưa về thờ tại chùa Quán Sứ
Hà Nội, tượng 18 vị La Hán; Tôn Giả ở chùa Tây Phương (Hà Nội), tượng Đức Phật
nhập Niết Bàn ở chùa Phổ Minh (Nam Định), tượng Phật A Di Đà ở chùa Phật Tích
(Bắc Ninh),…trong đó nhiều pho được liệt vào hàng tuyệt tác của nền nghệ thuật
điêu khắc Việt Nam. Tất cả đều mang nặng tính triết lý đạo Phật đi đôi với tính cách
con người Việt và được người Việt tôn thờ kính mến như nhà thơ Huy Cận đã mô tả
và ca ngợi trong bài thơ “18 vị La Hán chùa Tây Phương” của ông.
Điêu khắc không chỉ thể hiện qua các bức tượng Phật mà còn qua những chạm khắc
tinh tế trên những đồ thờ tự hay trên những cánh cửa, cảnh quan xung quanh ngôi
chùa. Những đồ thờ tự trong Chùa như chân đèn, lư hương,...đều có chạm khắc hình

học hay những động vật đã được cách điệu khá mỹ thuật, làm gia tăng thêm vẻ đẹp
12


cũng như ý nghĩa của nó. Ở thời Lý - Trần, những loại hình có liên quan đến Phật
Giáo như lá bồ đề, hoa sen, vũ nữ uốn mình theo điệu "Tribanga" của Ấn độ trở nên
rất phổ biến trong nghệ thuật trang trí Chùa, Tháp. Tuy nhiên những nghệ nhân thời
Lý - Trần đã biết cách hóa một số loại trở thành những hình ảnh độc đáo không tìm
thấy ở những nơi khác, chẳng hạn như hình lá bồ đề thì thường có con rồng bé nhỏ
nằm gọn trong chiếc lá, một kiểu hoa văn gần giống như chữ ký đời nhà Lý, hoa sen
được thể hiện trong nhiều hình thái và thường cũng có hình của những con rồng nhỏ
trong những cánh hoa này. Chính những hình rồng đặc biệt đời nhà Lý cũng là sự
phối hợp hình rồng phương Bắc và hình rắn những dân tộc theo nền văn minh Ấn Độ.
Hình những vũ nữ múa biến cách thành những vũ nữ dâng hoa, chẳng hạn như hình
ở những bậc đá trong Tháp đời nhà Lý ở Chương Sơn (Hà Nam) hay những thiếu nữ
sùng bái Phật như hình khắc ở những chân cột của chùa Phật Tích. Chúng ta còn thấy
được những hoa văn hình đám mây đang xoắn chung quanh những nhân vật thần
thoại, chẳng hạn như những bức chạm nổi tại chùa Thái Lạc (Hải Dương) hay trên
những cánh cửa của chùa Phổ Minh (Nam Định), những hoa văn hình sóng nước như
ở nền Tháp Phổ Minh, hoa văn hình hoa cúc theo từng dây dài như mặt đá chạm nổi
tìm thấy ở Tháp Chương Sơn. Đây là những ví dụ điển hình của những công trình
sáng tạo nổi bật trong điêu khắc, trang trí của Phật giáo thời đại Lý - Trần còn tồn tại
đến ngày nay [17].
- Về hội họa: Có thể thấy hội họa Phật giáo được ít người chú ý đến, bởi các tác
phẩm hội họa Phật giáo bị mai một và thất lạc, không lưu giữ được nhiều. Tuy nhiên
không vì thế mà sự phát triển của hội họa Phật giáo bị quên lãng. Dựa vào các bức
tranh chạm khắc trên đá, trên gỗ còn mãi mãi chứng tích về sự có mặt của các bức
tranh từ thời Lý - Trần đến nay. Đó là những tranh chạm trên mặt lan can, hành lang
chạy quanh hồ Linh Chiểu và Bích Trì thuộc chùa Một Cột (Hà Nội), những tượng
đắp và hình vẽ ở chùa Báo Ân (Thanh Hóa), Rồng trong cánh sen bệ tường chùa

Ngọc Khảm,… hay trong các kinh sách không thể thiếu những tranh, hình ảnh minh
họa về đạo Phật giúp cho người đọc dễ hiểu. Tranh tường là một phần không thể
thiếu trong mỹ thuật Phật giáo. Những bức tranh tường chạy dài tiêu biểu như tranh
được vẽ trên tường chùa Quán Sứ (Hà Nội), có những bức tranh vẽ địa ngục và niết
bàn đã giải thích được luật nhân quả vốn trừu tượng, bày ra viễn cảnh giữa con
đường đi tới cõi cực lạc và con đường dẫn xuống địa ngục để Phật tử trông thấy mà
tự suy ngẫm. Những tranh vẽ thường mang tính giáo dục, truyền tải tới người xem
giáo lý, lời răn dạy của đức Phật tới Phật tử nhằm xây dựng con người có lòng vị tha,
từ bi, hỷ xả. Hội họa Phật giáo Việt Nam từ những giai đoạn đầu đã được phát triển
phong phú, muôn hình, muôn vẻ. Các nghệ sĩ Phật tử đưa thiên nhiên vào các tranh
trang trí trên chùa, lựa chọn những nét bình dị, hiền hòa, thơ mộng của thiên nhiên
như hoa cúc, hoa sen, con chim, con cá,… và những em bé xinh xắn, thơ ngây,…Tất
cả đều là những hình ảnh gần gũi và gắn liền với đời sống hàng ngày.
Nhiều tranh lụa, tranh màu nước, sơn dầu, sơn mài đề cập đến Phật giáo đã được
các họa sĩ, nghệ nhân tên tuổi ở Việt Nam thể hiện một cách sống động và tinh tế qua
13


các tác phẩm như “chùa Thầy” của Nguyễn Gia Trí sáng tác năm 1938, “Lễ Chùa”
của Nguyễn Siêu, “Đi Lễ Chùa” của Nguyên Khắc Vịnh. Đặc biệt từ thập niên tám
mươi trở lại đây, có “Thiền Quán”, “Quan Âm Thị Hiện”; “Bích Nhãn”, “Rừng
Thiền” của họa sĩ Phượng Hồng, “Hồi Đầu Thị Ngạn” của Huỳnh Tuần Bá; “Nhất
Hoa Vạn Pháp” của Văn Quan,... Qua đó, hội họa Phật giáo đã thể hiện được những
đặc trưng riêng, đánh dấu sự thành công của nó trong nền mỹ thuật Việt Nam. [10]
Tóm lại, từ việc tìm hiểu văn hóa Phật giáo qua các công trình kiến trúc, điêu khắc
và hội họa,…Chúng ta có thể biết thêm những giá trị vật chất của văn hóa Phật giáo
để có sự nhìn nhận, đánh giá đúng đắn hơn vai trò và những đóng góp của văn hóa
Phật giáo trong tiến trình phát triển văn hóa dân tộc.
Đây là những minh chứng tiêu biểu cho sự phong phú và đa dạng của văn hóa Phật
giáo được biểu hiện qua cấu trúc văn hóa vật thể. Tuy nhiên còn một phần không thể

tách rời và cấu thành nên tổng thể văn hóa Phật giáo chính là văn hóa phi vật thể của
Phật giáo được thể hiện qua hệ thống tư tưởng, các chuẩn mực, giáo lý của đạo Phật;
các nghi lễ; phong tục, tập quán, nghệ thuật… của Phật giáo.
- Về tư tưởng, giáo lý: Trong tư tưởng Phật giáo, “Tứ Diệu Đế” được xem là giáo lý
cơ bản, lấy con người làm trung tâm và vì con người mà thực hiện. Đạo Phật là học
thuyết về khổ và diệt khổ. Bản chất của Phật giáo là từ bi, trí tuệ; bản nguyện Phật
giáo là giác ngộ, giải thoát; bản hạnh Phật giáo là hòa bình, giáo dục và từ thiện.
Trước hết Phật giáo có một hệ thống tư tưởng - đạo đức sâu sắc, coi trọng sự tu
dưỡng nhân cách. Muốn làm tín đồ hay theo Phật giáo phải biết Giới, Định, Tuệ. Giới
là những quy phạm ngăn cấm các tín đồ làm việc, nói và suy nghĩ không theo quy
định (nhằm điều chỉnh hành vi của tín đồ và giữa tín đồ với xã hội). Định là giữ trạng
thái tinh thần không xao động, Tuệ là sự thông suốt mọi sự. [19]
Những quan niệm về thiện - ác, về từ bi cũng thuộc phạm trù đạo đức Phật giáo.
Thế nào là thiện, thế nào là ác, đó là vấn đề vô cùng phức tạp. Nhưng xét về khía cạnh
nào đó, thì ở mỗi thời đại, dân tộc, nền văn hóa đều có quan niệm thiện, ác khác nhau.
Nhà Nho cho rằng: cái gì phù hợp với lương tri con người là thiện, ngược lại là ác.
Còn quan niệm thiện của Phật giáo đại thừa lại có hai ý nghĩa: Một là thuận theo và
phù hợp với tư tưởng “vô thường, vô ngã”; hai là vì lợi ích chung của chúng sinh. Đây
chính là điều làm cho đạo đức Phật giáo có tính thế tục.
Nếu như Giới, Định, Tuệ về cơ bản là tự rèn luyện bản thân thì những quan niệm từ
bi là để giải quyết quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội và
thiên nhiên trên nguyên tắc có lợi cho người khác. Kinh Quán vô lượng thọ chỉ rõ
người có tâm Phật là người đại từ bi. "Từ là làm cho người ta lạc quan và bi là làm
cho người ta thoát khỏi đau khổ". Từ - bi kết hợp với nhau tạo thành nguyên tắc vì lợi
ích chúng sinh mà hành động. Các nhà triết học gọi đó là chủ nghĩa vị tha. Giáo lý từ
bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc
trong tâm hồn của người Việt Nam, được thể hiện và biến thành những câu ca dao, tục
ngữ rất phổ biến như “lá lành đùm lá rách”, hay:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
14



Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Cùng với đạo lý từ bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác của
đạo phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sinh.
Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát triển của tâm lý về
tình cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở mọi người bắt đầu từ thân đến xa, từ tình
thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thương trong các mối quan hệ xã hội với
thầy bạn, đồng bào quê hương đất nước. Đặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta thấy ân cha mẹ
là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý của người Việt [19].
Ngoài ra, học thuyết “nhân quả báo ứng” của Phật giáo cũng tác động vào xã hội
Việt Nam sâu sắc. Nó chỉ rõ xu hướng chuyển động tốt hay xấu của đời người chính là
do nghiệp quyết định. Nghiệp mà con người lựa chọn được phân biệt là thiện và ác.
Thiện nghiệp sẽ đưa đến thiện quả, ác nghiệp nhất định đưa tới ác quả. Nhận thức về
nhân quả báo ứng, nhân dân ta thường nói: gieo gió thì gặt bão, đời cha ăn mặn đời
con khát nước,...Tư tưởng, giáo lý của đạo Phật đưa những giá trị tốt đẹp vào trong
đời sống cộng đồng, giúp cho con người hướng thiện, đưa nếp sống sinh hoạt xã hội
thành những ứng xử văn hóa có tầm, hướng đến một nền giáo dục đề cao các giá trị
Chân - Thiện - Mỹ.
- Về nghi lễ, lễ hội: Thông qua những nghi lễ Phật giáo, văn hóa Phật giáo được thể
hiện một cách cụ thể: lễ cúng rằm, mùng một và lễ chùa đều có hình ảnh mang dấu
ấn của văn hóa Phật giáo. Theo đúng truyền thống tập tục cúng rằm, mùng một là tập
tục cúng “Sóc Vọng”. Sóc: là tên gọi ngày bắt đầu một tháng, là trước, mới, là bắt
đầu, khởi đầu. Vọng: là ngày rằm (tức ngày 15) tháng âm lịch. Vọng có nghĩa là
trông xa, là ngày mặt trăng mặt trời đối xứng nhau ở hai cực. Người xưa cho rằng vì
thế mặt trời, mặt trăng nhìn rõ nhau, thấu suốt ánh sáng cho nhau, soi chiếu vào mọi
tâm hồn làm cho con người trở nên sáng suốt, trong sạch, đẩy lùi được mọi đen tối,
vẩn đục trong tâm hồn. Người ta cho rằng, nhờ sự thông suốt của mặt trời, mặt trăng
mà thần thánh, ông bà, tổ tiên có thể liên lạc, thông thương với con người, sự cầu
nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng với các cõi giới khác và sự cảm thông sẽ được thiết lập

là ngày trong sạch để các vị tăng kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bố tát và
ngày sám hối, người tín đồ về chùa để tham dự lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành
và sửa đổi thân tâm. Quan niệm ngày Sóc Vọng là những ngày trưởng tịnh, sám hối,
ăn chay xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa. Ngoài việc đi chùa sám hối,
ở nhà vào ngày rằm và mùng một, họ sắm đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng Tam
Bảo và tổ tiên ông bà, thể hiện lòng tôn kính, thương nhớ những người quá cố và cụ
thể hóa hành vi tu tâm dưỡng tính của họ. [13]
Bên cạnh việc đi chùa sám hối vào ngày rằm, mùng một, người Việt Nam còn có
tập tục khác là đi viếng chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn như ngày rằm tháng
giêng, rằm tháng tư (Phật Đản) và rằm tháng bảy (lễ Vu Lan). Đây là một tập tục, một
nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống người Việt. Chính điều đó đã góp phần
tạo nên bản sắc và nét đẹp văn hóa của dân tộc.
15


Lễ hội Phật giáo là một phần không thể thiếu tạo nên những điểm riêng biệt của
văn hóa Phật giáo. Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng đặc biệt, bản thân
nó là một kho lịch sử khổng lồ, tích tụ vô số những lớp phù sa văn hóa, là bảo tàng
sống về sinh hoạt văn hóa, chứa đựng các giá trị tinh thần sâu sắc. Các lễ hội Phật
giáo của Việt Nam thực sự đã làm phong phú cho đời sống văn hóa trong suốt quá
trình hình thành và phát triển của văn hóa nước nhà. Những lễ hội Phật giáo cũng
được tổ chức khá thường xuyên, như lễ tắm Phật được thực hiện hàng năm, Nhân
vương hội (hội tụng kinh Phật thuyết Nhân vương Bát Nhã Ba La Mật kinh) được tổ
chức nhiều lần trong Cung, rồi việc rước các vị Phật Tứ pháp về kinh để cầu đảo
cũng nhiều lần được sử sách ghi lại…đã tạo ra một diện mạo phong phú trong đời
sống tinh thần của người dân thời Lý.
Ngoài những ngày Sóc, Vọng thì còn có những ngày lễ lớn như: Đại lễ Phật Đản,
Lễ Vu Lan, lễ hội Quán Thế Âm,…Trong đó tiêu biểu như lễ Phật Đản: Lễ Phật Đản
là lễ trọng của đạo Phật để kỷ niệm ngày xuất thế và tưởng nhớ Đức Thế Tôn - người
khai sáng đạo Phật. Trước đây, các nước Đông Á thường tổ chức lễ Phật Đản vào

ngày 8 tháng 4 (âm lịch), đến Đại hội Phật giáo thế giới lần đầu tiên tại Colombo, Sri
– Lanka (ngày 25 tháng 5 đến ngày 8 tháng 6 năm 1950), 26 nước thành viên đã
thống nhất lấy ngày Rằm tháng 4 (âm lịch) hàng năm làm ngày Phật giáo giáo quốc
tế. Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng theo lệ chung của nhiều nước lấy ngày này làm
ngày lễ Phật Đản. Ở Việt Nam, lễ Phật Đản từ lâu đã trở thành lễ hội lớn của dân tộc,
được Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức một cách trang trọng. Nhiều người hay gọi
ngày Phật Đản là “Mùa Phật Đản” để hòa chung niềm vui cùng mọi người trên khắp
thế giới mừng ngày Đức Phật ra đời. Đây cũng là dịp để khích lệ truyền thống văn
hóa Phật giáo đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam, đồng thời thể
hiện rõ chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta nên được tổ chức long trọng,
thu hút rất nhiều người tham gia, kể cả những người không có tín ngưỡng Phật giáo.
[13]
Nghi lễ, lễ hội văn hóa Phật giáo được coi là một thành tố văn hóa mang giá trị văn
hóa phi vật thể tiêu biểu và còn là nơi tích hợp các mặt giá trị văn hóa phi vật thể
phong phú, đa dạng, bởi trong lễ hội Phật giáo, ngoài phần nghi lễ, ta còn thấy nhiều
hình thức văn hóa nghệ thuật độc đáo khác như: trình diễn các nghệ thuật sân khấu,
nghệ thuật chèo gắn với các Phật thoại, các vị tổ của Phật giáo Việt Nam, múa Phật
giáo (Lục cúng hoa đăng), âm nhạc Phật giáo, các phẩm phục,… Nghi lễ, lễ hội Phật
giáo cũng đóng vai trò là nơi giao lưu, cộng cảm và liên kết tình thân trong các cộng
đồng Phật tử ở từng đạo tràng nói riêng, cộng đồng cư dân làng xã, vùng miền nói
chung.
- Về phong tục, tập quán: Văn hóa Phật giáo để lại dấu ấn qua các tập tục như: ăn
chay, thờ phật, phóng sinh và bố thí. Hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh
hưởng nếp sống văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của
Phật giáo. Vì khi đã trở về với phật pháp, mỗi người Phật tử phải thọ giới và trì giới,
trong đó giới căn bản là không sát sinh hại vật, mà trái lại phải thương yêu mọi loài.
16


Ăn chay và thờ Phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Người Phật tử,

người mộ đạo thờ Phật là một chuyện, nhiều người không phải là Phật tử cũng dùng
tượng Phật hay tranh ảnh có yếu tố Phật giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh
nhà thêm đẹp và trang nghiêm. Theo quan niệm của họ, Phật giáo là một thành tựu về
tư tưởng văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lệ bố thí và phóng sinh đã thấm
sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng. Đến ngày rằm và mùng một, người Việt
thường hay mua chim, cá, rùa,… để đem về chùa chú nguyện rồi đi phóng sinh, giúp
chúng thoát khỏi kiếp giam cầm. Tiêu biểu nhất của tục phóng sinh - một phong tục
đẹp và vẫn giữ nguyên giá trị văn hóa truyền thống là cứ vào dịp 23 tháng chạp gọi là
ngày tết ông Công, ông Táo, nhân gian tiễn Táo Quân về chầu trời. Lễ cúng thường
có đồ ăn, hoa quả, tùy theo gia chủ, nhưng phải có cá chép hoặc chim nhỏ. Sau khi
cúng lễ xong, người ta mang cá chép ra thả ở ao hồ hoặc sông suối. Còn một số vùng
quê, nhất là ở miền Nam người ta thường thả chim về với tự nhiên. Điều đó thể hiện
nét đẹp trong đạo lý Phật giáo với tư tưởng nhân văn cao cả, giáo dục nhận thức cho
con người trong việc đối xử với thiên nhiên, cái nôi đã sinh ra nhân loại.
Người Việt cũng thích làm phước và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó, hoạn nạn, vào
các ngày lễ hội lớn họ tập trung về chùa. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại những biểu
hiện mang tính chất hình thức trên này càng bị thu hẹp. Thay vào đó mọi người tham
gia vào những đợt cứu trợ, tương tế cho các đồng bào gặp thiên tai, hoàn cảnh sống
gặp khó khăn đúng với truyền thống đạo lý của dân tộc là “lá lành đùm lá rách”.
Ngoài ra, những phong tục của người Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo và cũng
tương đối phổ biến có thể kể đến như: Tập tục đốt vàng mã, tập tục coi ngày giờ hay
một số tập tục khác như cúng sao hạn; xin xăm, bói quẻ, ma chay, cưới hỏi… Nhìn
chung, những phong tục này gắn liền và dung hợp với tập quán của người Việt, chịu
ảnh hưởng rõ rệt từ những nghi thức của Phật giáo.
- Về nghệ thuật: Nói đến nghệ thuật trong văn hóa Phật giáo thì không thể không
nói đến những áng thơ ca, văn học, những điệu hát, múa,… bởi đây cũng chính là sự
độc đáo của văn hóa Phật giáo.
Vào thời Lý - Trần, khi Phật giáo được coi là Quốc giáo thì ngoài kinh sách Phật
giáo còn có nhiều tác phẩm thuộc thể loại văn học Phật giáo đặc trưng, đó là thể Lục,

gồm Tạp lục, Ngữ lục, Thiền lục...Điều này cho thấy, kinh sách nhà chùa và văn học
Phật giáo đã đạt thế thượng phong, áp đảo hoàn toàn văn học nghệ thuật. Trong kho
tàng ca dao dân ca, chúng ta bắt gặp những hình ảnh gần gũi với người dân Việt Nam
qua ngôi chùa làng “Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”, hình ảnh ông Bụt (theo
cách gọi dân dã của người Việt thay cho Phật) còn hiện lên trong các câu truyện cổ
tích như “Tấm Cám”; “Cây tre trăm đốt”,… khi gặp khó khăn người dân luôn trông
đợi vào sự giúp đỡ của Bụt, qua đó cho thấy một nếp nghĩ rất bình dị, phù hợp với lối
sống của con người Việt Nam. Người dân Việt Nam còn mượn ca dao để nhắc nhở,
răn dạy con cháu phải hiếu kính với cha mẹ, phải lấy hiếu hạnh làm đầu: “Tu đâu
không bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu”; “Đêm đêm khấn nguyện Phật
17


trời, cầu cho cha mẹ sống đời với con”,… Hình ảnh của ngôi chùa, tiếng chuông, ông
Bụt hay những quan niệm hiếu hạnh, quan niệm nhân quả mang nhiều âm hưởng
Phật giáo và thường trực xuất hiện trong kho tàng văn hóa của dân tộc, qua đó ta thấy
sự ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo trong đời sống của người Việt Nam.
Bên cạnh ca dao bình dân, trong các tác phẩm văn học của các nhà thơ, nhà văn
chúng ta cũng thấy có nhiều bài thơ, tác phẩm chịu ảnh hưởng ít, nhiều của Phật giáo
ở đây chỉ nói đến các thơ văn Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo, rõ
nhất là trong thơ văn chữ Nôm, chữ Việt bắt đầu từ thế kỷ thứ XVIII trở về sau. Phật
giáo đề ra cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh, như tác phẩm chữ Nôm nổi tiếng trong
thế kỷ XVIII là Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều (1741 - 1798) với thể
song thất lục bát, dài 356 câu, là khúc ngâm của người cung nữ bị vua ruồng bỏ, oán
than về thân phận mình. Nội dung tác phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của Phật giáo, nhất
là triết lý ba pháp ấn Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Cung Oán Ngâm Khúc là tác phẩm
đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc Việt đã sử dụng lối biểu diễn bằng cảm giác mà
trong đó tư tưởng triết lý đạo Phật đóng vai trò chủ đạo.
Qua thế kỷ XIX, với thi hào Nguyễn Du (1765 - 1820) lại là một áng văn bất hủ
với Truyện Kiều, một truyện thơ nôm viết bằng thể lục bát dựa theo tác phẩm Kim

Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc), gồm 3254 câu thơ. Đây là
một truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng của Phật giáo, trong đó ta thấy nổi bật nhất là
thuyết về Khổ Đế, một phần quan trọng của giáo lý Tứ Diệu Đế, kế đó là tinh thần về
hiếu đạo, thuyết nhân quả và nghiệp báo.
Điểm qua một số thơ văn Việt nam có những ảnh hưởng của Phật giáo như trên, có
thể thấy tư tưởng, văn hóa Phật giáo đã để lại dấu ấn của mình sâu đậm trên diễn đàn
tư tưởng của Việt Nam bởi những triết lý sâu xa của nhà Phật. Với tư tưởng khoan
dung, hòa bình, Phật giáo góp phần thức tỉnh lương tri con người, làm cho con người
được sống trong hòa bình, nhân ái. Văn hóa đạo đức Phật giáo có khả năng điều
chỉnh hành vi đạo đức con người, định hình lối sống, phong tục, chuẩn mực giá trị
văn hóa Việt Nam, nhờ đó góp phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng để phục
vụ cho sự phát triển đất nước.
Ngoài ra, văn hóa Phật giáo còn gắn liền với các loại hình nghệ thuật sân khấu (Hát
bội, hát chèo, kịch nói…) đặc biệt là nghệ thuật Chèo gắn với các tích Phật, tích
truyện giàu tính nhân văn, múa Phật giáo (Lục cúng hoa đăng)… Tính triết lý “nhân
quả báo ứng” của Phật giáo đóng vai trò quan trọng trong các bài ca chèo, vở diễn
phù hợp với đạo lý phương Đông và nếp sống truyền thống của dân tộc. Đáng kể nhất
là vở chèo “Quan Âm Thị Kính”, mượn ngôn ngữ sân khấu chèo nhằm diễn lại sự tích
Đức Phật Quan Âm Thị Kính để công chúng thấm thía chữ Nhẫn, chữ Tâm và lòng từ
bi, hỷ xả, sẵn sàng chịu nỗi oan nghịch cứu nhân độ thế để được thành Phật. Hay vở
chèo “Mục Liên Thanh Đề” cũng là một sự thành công trong mối quan hệ giữa nghệ
thuật chèo và Phật giáo.
Nhìn lại, văn hóa Phật giáo Việt Nam với những giá trị văn hóa vật thể và văn hóa
phi vật thể đã góp phần không nhỏ tạo nên bản sắc riêng cho nền văn hóa dân tộc.
18


Văn hóa Phật giáo Việt Nam mang đậm nét văn hóa Việt với những đặc trưng giản dị,
hài hòa, cân đối, phù hợp và gần gũi với con người Việt Nam.
1.2. Vị trí của Văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam

1.2.1. Văn hóa Phật giáo với văn hóa truyền thống Việt Nam
Khái niệm văn hóa truyền thống hay giá trị văn hóa truyền thống có thể hiểu là
“văn hóa và giá trị gắn với xã hội tiền công nghiệp, phân biệt với văn hóa, giá trị
văn hóa thời đại công nghiệp hóa. Tất nhiên, khái niệm truyền thống để chỉ những
cái gì đã hình thành từ lâu đời, mang tính bền vững và được trao truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, thì không chỉ xã hội tiền công nghiệp mới có mà với cả xã hội
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì truyền thống vẫn hình thành và định hình. Hơn thế
nữa, còn có sự kết nối giữa truyền thống tiền công nghiệp với truyền thống công
nghiệp hoá thể hiện trong từng hiện tượng hay giá trị văn hoá” [11, tr 21].
Như vậy, văn hóa truyền thống Việt Nam theo quan điểm ở đây chính là những giá
trị văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể được hình thành trong lịch sử văn hóa Việt
Nam. Do đó, khi xem xét mối tương quan giữa văn hóa Phật giáo với văn hóa truyền
thống Việt Nam, tôi mong muốn làm rõ những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể
của Phật giáo đối với văn hóa truyền thống.
Trước hết, sự tương tác giữa văn hóa Phật giáo với văn hóa truyền thống thể hiện
qua giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của Phật giáo được kết tinh trong không gian
văn hóa truyền thống của ngôi chùa Phật - một thiết kế văn hóa đặc thù. Nếu như
thiếu đi hình ảnh những ngôi chùa Phật giáo thì có lẽ cũng sẽ thiếu đi những nét kiến
trúc, điêu khắc độc đáo của Phật giáo một nhân tố làm đẹp và phong phú cho kho
tàng văn hóa Việt Nam. Chùa là nơi con người được san sẻ cả về tinh thần lẫn vật
chất nên nó mang một ý nghĩa từ ngữ cao đẹp, nhân văn “mái chùa che chở hồn dân
tộc”. Không gian của những ngôi chùa cổ xưa rõ ràng là nhỏ bé, chật hẹp hơn nhiều
những ngôi chùa mới xây dựng đồ sộ, khang trang như hiện nay, nhưng không gian
văn hoá, lễ hội, ứng xử thì bao trùm hết không gian làng xã, cộng đồng, đi vào trong
đời sống ứng xử để trở thành văn chương, nghệ thuật, thẩm mỹ, đạo lý,… Trong
nhiều ngôi chùa đã hình thành nên những không gian văn hóa truyền thống điển hình,
nơi diễn ra những sinh hoạt văn hóa Phật giáo, các nghi thức tôn giáo như: lễ Phật
đản, lễ Vu Lan, lễ hội Quán Thế Âm,...
Thêm vào đó, Việt Nam lại là một nước có truyền thống văn hóa nông nghiệp trồng
lúa nước, nên xét dưới góc độ triết lý âm dương thì đây là nền văn hóa trọng âm với

những đặc trưng như con người sống nặng về tình cảm, sống hài hòa với thiên nhiên,
môi trường xã hội bao dung. Vì thế nên trong kiến trúc truyền thống Việt Nam cũng
mang những đặc trưng của nền văn hóa gốc nông nghiệp. Nếu nhìn sang kiến trúc
của đạo Phật cũng có thể thấy những điểm tương đồng khi ảnh hưởng nhiều từ kiến
trúc truyền thống của người Việt, đặc điểm là phải hòa vào thiên nhiên, hòa vào trời
đất. Theo kiến trúc truyền thống, một ngôi chùa hay đền, đình phải đạt chuẩn thông
tam giới, theo quan điểm "nhất thể vũ trụ", "âm dương quân bình" và "thiên nhiên
hợp nhất": Với mái tượng trưng cho tầng trời, với đất - thân là nơi thần và người tiếp
19


cận, cần được thông nhau. Vì thế nền đất để mộc, hoặc có lát phải để những mạch
rộng hoặc dùng gạch bát thấm nước để thông âm dương; những nơi đặt ban thờ thì
gầm ban thờ lộ đất… để âm dương không bị cách trở.
Trong các công trình kiến trúc đều khai thác tự nhiên như cây xanh, mặt nước, đá
núi… mang đến cho con người cảm giác hòa mình với thiên nhiên, thoải mái khi có
sự kết hợp giữa thiên nhiên và kiến trúc. Triết lý âm dương chi phối rất lớn đến kiến
trúc truyền thống Việt Nam và nhất là trong kiến trúc Chùa, Tháp ở vị trí, hướng xây
dựng, cách liên kết theo lối ghép âm - dương các bộ phận trong kiến trúc, vật liệu xây
dựng với ngói âm dương; các biểu tượng âm dương có truyền thống lâu đời như biểu
tượng vuông - tròn nói đến sự hoàn thiện, chẳng hạn như chùa Một Cột đặt trên cột
tròn và cột tròn lại đặt trên cái hồ vuông.
Ngôi chùa và những di vật trong chùa thực sự là những công trình nghệ thuật có giá
trị thẩm mỹ cao và có nội dung phong phú - không những giới thiệu giáo lý nhà Phật
mà còn phản ánh quan niệm sống của con người, hướng vào phục vụ đời sống con
người qua nhiều thế hệ. Không gian văn hóa truyền thống trong ngôi chùa hòa quyện
và kết hợp với văn hóa truyền thống của dân tộc đã góp phần tạo nên sự phong phú,
đa sắc hơn cho văn hóa dân tộc.
Không chỉ vậy, văn hóa Phật giáo còn thể hiện sự hòa quyện với văn hóa truyền
thống khi ngay từ buổi đầu du nhập, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc trong

công cuộc dựng nước, giữ nước. Cùng với Nho giáo, Phật giáo đã có nhiều đóng góp
để xây dựng đất nước, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng và chính trị. Lịch sử Việt Nam
nói chung và lịch sử Phật giáo Việt Nam nói riêng đã chứng minh những đóng góp
quan trọng vào công cuộc dựng nước, giữ nước và bảo vệ Tổ quốc của Phật giáo. Từ
trước thế kỷ X, trong cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, Phật giáo đã đứng về phía
những người yêu nước. Nhiều Tăng sĩ trong hoạt động tôn giáo của mình đã nhen
nhóm một tinh thần tự chủ, và có những tín đồ Phật giáo đã trực tiếp cầm đầu nhân
dân đứng lên làm cuộc đấu tranh giải phóng. Cuộc khởi nghĩa của Lý Phật tử cuối thế
kỷ VI, đầu thế kỷ VII là ví dụ. Qua nhiều triều đại phong kiến ở nước ta, nhiều vị vua
quan là Phật tử với sự hiểu biết Phật pháp nên đã vận dụng những tinh hoa trong tư
tưởng, triết lý của đạo Phật phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước ngày càng
cường thịnh. Điểm lại lịch sử cho thấy, các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đã thể hiện
tinh thần tự chủ, độc lập, anh dũng của dân tộc; đồng thời khẳng định tinh thần gắn
liền đạo pháp với dân tộc của Phật giáo Việt Nam. Như vậy là Phật giáo Việt Nam,
trong những bước phát triển đầu tiên, đã hòa nhập vào dân tộc nên khi giành lại được
nền độc lập, các Tăng sĩ vẫn mang một ý thức quốc gia mạnh mẽ. Không ít các vị
danh tăng Việt Nam đã được các triều đình phong kiến trọng dụng, thực sự tham gia
hoạt động chính trị, trở thành trụ cột cho nhà vua trong quá trình trị nước như: Đại sư
Khuông Việt, Tuệ Tĩnh, Quốc sư Vạn Hạnh, Thiền sư Pháp Thuận,... hết lòng phò
vua giúp nước, xây dựng xã tắc vững bền vì bách tính. Phật Hoàng Trần Nhân Tông
còn hai lần khoác áo chiến bào cùng toàn dân kháng chiến chống quân xâm lược
Nguyên Mông,... Phật giáo thời kỳ này mang một màu sắc nhập thế rõ ràng, hay nói
20


cách khác, Phật giáo có chiều hướng phục vụ quốc gia dân tộc. Đồng hành với lịch sử
dân tộc, Phật giáo chung vai gánh vác sứ mệnh giải phóng dân tộc, đấu tranh cho hòa
bình và hạnh phúc của muôn dân.
Không chỉ trong văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần mà ở các giai đoạn lịch sử khác,
Phật giáo cũng khẳng định vị trí của mình bằng những đóng góp đáng ghi nhận.

Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, Phật giáo đã có
những đóng góp xứng đáng vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc, nhiều chùa chiền Phật
giáo Việt Nam là cơ sở bao che nuôi dưỡng cán bộ, chiến sĩ cách mạng, những Tăng,
Ni, Phật tử nằm trong các đoàn thể cứu quốc, đoàn thể Phật giáo yêu nước, hòa mình
vào các sinh hoạt cách mạng, tham gia chiến đấu chống ngoại xâm góp phần giành
độc lập, tự do cho dân tộc. Đó chính là những việc làm thể hiện tinh thần cao cả đối
với non sông đất nước của những người con Phật. Đồng hành cùng dân tộc Việt, Phật
giáo có cơ hội phát huy tư tưởng đoàn kết của mình. Tư tưởng thương yêu, vị tha, bác
ái của đạo Phật đã trở thành sức mạnh và động lực liên kết các dân tộc, công dân Việt
Nam trong quá trình đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước. Khi đất nước hùng
cường thì Phật giáo hưng thịnh; khi Tổ quốc lâm nguy, Phật giáo sẵn sàng đứng lên
tham gia chống giặc ngoại xâm, góp phần giành lại độc lập cho dân tộc. Khi đất nước
hòa bình, Phật giáo lại cùng toàn dân tích cực tham gia xây dựng cuộc sống thông
qua hoạt động thường xuyên răn dạy tín đồ, Phật tử phát huy truyền thống yêu nước
thương nòi, trau dồi đạo đức, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và làm tất cả vì cuộc
sống an lành, ấm no và hạnh phúc của mọi người. Tinh thần nhập thế của Phật giáo
gắn bó sâu sắc với khát vọng độc lập dân tộc, với tinh thần yêu nước của nhân dân,
tạo nên xung lực cho sự phát triển của văn hóa dân tộc và sức mạnh đoàn kết toàn
dân.
Khi đất nước thống nhất trọn vẹn, hàng triệu Tăng Ni, Phật tử trong các tổ chức, hệ
phái đã đồng lòng xây dựng một ngôi nhà chung của Phật giáo. Dân tộc và Phật giáo
trong văn hóa Việt Nam đã gắn kết thành một thể thống nhất, dưới sự lãnh đạo của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Tăng Ni các tỉnh, thành trong cả nước không ngừng cố
gắng phấn đấu theo tôn chỉ mới mà Giáo hội đề ra cho phù hợp với sự phát triển của
đất nước: “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, cùng hướng tới một mục tiêu
giành độc lập, tự do thống nhất chủ quyền, xây dựng một xã hội dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.
Hơn nữa, văn hóa Phật giáo với hệ thống giáo lý gần gũi và thân thiện với người
dân Việt Nam, trong đó đạo đức Phật giáo đã ảnh hưởng không nhỏ tới giáo dục đạo
đức truyền thống, hình thành nhân cách con người Việt Nam nhằm xây dựng lối sống

lành mạnh và phát triển. Trên tinh thần đoàn kết, đạo Phật xây dựng cho dân tộc Việt
Nam một truyền thống cao đẹp đó là tinh thần chan hòa yêu thương, mở rộng cõi
lòng, được thể hiện rõ nhất qua những việc làm nhân nghĩa, giúp đỡ lẫn nhau trong
lúc khó khăn hoạn nạn. Nêu cao tinh thần tương thân tương ái với phương châm
“nhường cơm sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”,… Phật giáo chủ trương khuyến thiện,
tránh ác, giữ tâm trong sạch, cổ xúy hành vi công ích, cứu tế, giúp người neo đơn, cơ
21


nhỡ, trẻ mồ côi... với phương châm “dù xây chín bậc Phù đồ, không bằng làm phúc
cứu cho một người”. Như vậy, đối tượng giáo dục mà Phật giáo hướng tới trong lĩnh
vực đạo đức xã hội chính là con người với tư cách chủ thể chịu trách nhiệm đối với tự
thân, gia đình và xã hội.
Có thể khẳng định, với tư tưởng đạo đức từ bi, hỷ xả, bình đẳng, vô ngã, vị tha,
Phật giáo vào Việt Nam trên tinh thần hòa đồng các tôn giáo, tín ngưỡng đã dần thấm
sâu vào tâm trí mỗi người dân Việt, hình thành lối sống văn hóa, trở thành một trong
những bộ phận của văn hoá dân tộc. Giáo lý và đạo đức Phật giáo có nhiều điều phù
hợp đạo đức truyền thống của dân tộc. Phật giáo đã thực sự đi vào đời sống đạo đức
của người Việ t thông qua chức năng giáo dục, hướng con người đến Chân - Thiện Mỹ.
Tóm lại, sự tương quan giữa văn hóa Phật giáo với những nét văn hóa truyền thống
Việt Nam như: truyền thống yêu nước, dựng nước, giữ nước, truyền thống đoàn kết,
tương thân tương ái và truyền thống đạo đức đã khẳng định văn hóa Phật giáo có một
vị trí nhất định, ảnh hưởng sâu sắc và góp phần làm tăng thêm những giá trị tốt đẹp
của văn hóa truyền thống trong suốt quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo.
Bên cạnh những giá trị mà văn hóa Phật giáo đã hình thành trong quá trình đồng hành
cùng văn hóa dân tộc thì văn hóa Phật giáo có một vị trí và ảnh hưởng không nhỏ đến
văn hóa tín ngưỡng Việt Nam. Điều đó thể hiện sự đan xen, dung hợp, hài hòa của
văn hóa Phật giáo khi du nhập và phát triển trong dòng chảy văn hóa Việt Nam.
1.2.2. Văn hóa Phật giáo với văn hóa tín ngưỡng Việt Nam
Văn hóa Phật giáo kết hợp với văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, tạo nên sự độc đáo và

đa dạng trong văn hóa Việt Nam. Khi được truyền vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp
xúc ngay với các tín ngưỡng bản địa, do vậy đã kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng
này. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam chủ yếu dựa trên sự tôn sùng các lực lượng siêu
nhiên, lòng biết ơn và ngưỡng mộ với anh hùng dân tộc, người có công với nước...Có
một số loại hình tín ngưỡng dân gian như sau: tín ngưỡng thờ vật tổ, tín ngưỡng phổn
thực, tín ngưỡng thờ thần, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên...Tuy
nhiên, về mối tương quan giữa văn hóa Phật giáo với văn hóa tín ngưỡng Việt Nam
thì điều đó được thể hiện rõ nhất thông qua tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên.
* Với tín ngưỡng thờ Mẫu
Tín ngưỡng Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian được tích hợp bởi các lớp tín
ngưỡng thờ Nữ Thần, thờ Mẫu thần và thờ Tam phủ - Tứ phủ với niềm tin thiêng
liêng vào quyền năng của Mẫu - đấng sáng tạo, bảo trợ cho sự tồn tại, sinh thành của
tự nhiên, xã hội và con người.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một sắc thái đặc biệt của dân tộc Việt Nam được bắt nguồn
từ chế độ mẫu hệ. Ở Việt Nam, chế độ mẫu hệ có sức mạnh ưu việt và tồn tại lâu dài,
đặc biệt trong các dân tộc thiểu số miền núi, kể cả ở dân tộc Chăm. Vai trò của người
phụ nữ Việt Nam chiếm vị trí rất quan trọng, người phụ nữ Việt Nam từ lâu đã đảm
đang mọi công việc trong đời sống xã hội, từ bếp núc, nuôi con đến kinh tế chính trị,
22


quân sự, ngoại giao và cả tín ngưỡng, tôn giáo. Với thực tế ấy, nên trong ngôn ngữ
Việt Nam, từ “Cái” khá phổ biến, thâm nhập vào nhiều lĩnh vực của cuộc sống, từ
sinh hoạt thường nhật cho đến lĩnh vực tri thức và văn hóa. Không những vậy, nó còn
làm biến dạng không ít danh từ giống đực như “Bố Cái Đại Vương” hay được chuyển
nghĩa để thành lớn như “sông cái”, “ ngón tay cái”,...Hơn nữa, vai trò của người phụ
nữ truyền thống còn xác định được cả quyền uy và giá trị của mình, chẳng hạn
“ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng”, “lệnh ông không bằng công bà”...
Điều dễ nhận biết nhất là ở hầu hết các ngôi chùa hiện nay đều có điện thờ Mẫu.

Trong đó phổ biến nhất là dạng “tiền Phật hậu Thánh”. Ngoài ra, với hệ thống tín
ngưỡng Tứ Pháp Việt Nam, chúng ta có thể thấy sự dung hòa giữa Phật giáo và tín
ngưỡng thờ Mẫu và thờ thần tự nhiên. Trong mối quan hệ với tín ngưỡng thờ Mẫu,
Phật giáo và đạo Mẫu dân gian luôn luôn gắn bó và có mối quan hệ tương giao với
nhau, cùng nương tựa, dung hoà, bổ sung cho nhau. Phật giáo đã nhanh chóng thu
nạp các yếu tố có lợi cho mình trong hệ thống tín ngưỡng dân gian bản địa; đặc biệt
là trong các tín ngưỡng nông nghiệp như tục thờ Mẹ hay tục thờ Nữ thần và tục thờ
Tứ Pháp để cho ra một hình thức Phật mới là Phật Mẫu và Phật Tứ Pháp. Đó là các vị
Nữ thần hoá thân thành Phật Bà Quan Âm hay Phật Bà Tứ Pháp. Theo quan niệm dân
gian thì hình tượng Phật Mẫu Man Nương và Tứ Pháp là 4 người con gái của Bà:
Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện ứng với hiện tượng: Mây - Mưa - Sấm Chớp trong tín ngưỡng nông nghiệp cổ, được thờ ở chùa Dâu, nằm gần trung tâm
Phật giáo cổ nhất và lớn nhất nước ta - đó là Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh). Như
vậy hiện tượng tôn thờ Tứ Pháp trong Phật điện là kết quả của mối “kết duyên” giữa
Phật giáo với tín ngưỡng nông nghiệp bản địa. Trước khi có sự du nhập của Phật giáo
vào nước ta thì các vị Nữ thần này được thờ ở các đền miếu dân gian, và được tôn
vinh là các vị thần nông nghiệp trông coi về Nước – là yếu tố quan trọng bậc nhất
trong sản xuất nông nghiệp lúa nước.
Sự ảnh hưởng của Phật giáo với tín ngưỡng thờ Nữ thần còn được biểu hiện ở
không gian ngôi chùa Tứ Pháp. Khi Phật giáo vào đã nhanh chóng dân gian hoá, thu
nhận tín ngưỡng thờ Tứ Pháp của người Việt cổ, dẫn đến các ngôi đền (miếu) này
chuyển hoá thành chùa chiền. Hiện nay, tại một số chùa Tứ Pháp vẫn còn các thành
bậc cửa bằng đá chạm rồng và sấm mang đậm phong cách kiến trúc thời Trần. Một số
bộ chạm khắc gỗ với các đề tài rồng, nhạc công, vũ nữ, hoa lá, mây, sóng,…phong
cách thời Trần hiện còn tại chùa Dâu và chùa Thái Lạc. Nhìn chung, kiến trúc các
chùa Tứ Pháp thường là chùa lớn kiểu chùa Trăm Gian, nội công ngoại quốc như
chùa Dâu (Bắc Ninh), chùa Nành (Hà Nội), chùa Đậu (Hà Tây),…
Nếu như với các công trình kiến trúc Phật giáo thờ các nhân thần như Không Lộ
thiền sư (Nguyễn Minh Không) thời Lý, Nguyễn Bình An thời Trần thì thường tồn tại
kiểu thờ “Tiền Phật hậu Thánh”, Thánh được thờ sau điện thờ Phật,… Thì ngược lại,
trong các ngôi chùa thờ Tứ Pháp (những vị Thánh có nguồn gốc tự nhiên) thì hệ

thống tượng thờ kiểu “Tiền Thánh hậu Phật”, đẩy hệ thống tượng Tứ Pháp lên trên hệ
thống tượng Phật. Tuy nhiên, hiện nay, các công trình được trùng tu lại đều được bố
23


trí theo kiểu “Tiền Phật hậu Thánh”. Vì vậy, ta gặp hầu hết các tòa cung cấm là nơi
thờ Thánh, căn trước thượng điện mới là nơi thờ Phật. [15]
Ngoài ra, sự tương đồng của Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu còn được thấy qua
các tác phẩm điêu khắc khi các pho tượng của bốn vị thần đã được "Phật hóa" này
trên thực tế là các tượng hoàn toàn được điêu khắc theo tiêu chuẩn của một pho
tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80 vẻ đẹp, mà một trong những nét
tiêu biểu chính là tướng nhục kế, những khế ấn, và khuôn mặt đầy lòng từ mẫn.
Sự thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa đạo Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu theo
khuynh hướng dân gian hóa là điều dễ hiểu bởi lẽ nó hoàn toàn phù hợp với tâm lý
của người dân Việt Nam, mong muốn hướng về cái từ bi, bác ái, tinh thần cộng đồng,
khuyến thiện trừ ác vốn là nền tảng trong nguyên tắc ứng xử của xã hội cổ truyền.
* Với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên:
Ngay từ buổi đầu du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã nhanh chóng kết hợp với các
tín ngưỡng bản địa. Không chỉ với tín ngưỡng thờ Mẫu, Phật giáo còn dung hợp với
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên trong Phật giáo cũng được hiểu chính là
thờ Phật (người sáng lập ra Phật giáo); các vị Bồ Tát, La Hán,… những người hộ trì
Pháp và các vị Tổ sư là những người sáng lập ra các tông phái, các thiền tự. Chính vì
vậy, giữa đạo Phật và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có những điểm tương đồng trong ý
nghĩa văn hóa, giáo dục. Đây là cơ sở cho sự sát nhập giữa đạo Phật với tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên.
Có thể thấy sự dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ tổ tiên trong kiến trúc và
cách bài trí thờ tự. Khi nhìn sự kết hợp giữa kiến trúc bài trí của chùa với kiến trúc
bài trí của hệ thống thờ tự: từ đường, bàn thờ gia tiên và đình, đền Hùng trong tín
ngưỡng thờ cũng tổ tiên của người Việt Nam có sự dung hợp, tương hỗ với nhau về
nhiều mặt, từ phong thủy, cách lựa chọn vị trí xây dựng đến lối kiến trúc đậm chất

dân gian làng xã, hợp với văn hóa lúa nước, chuộng kiểu xây dựng các gian thờ bè
chiều ngang, theo số lẻ,…Qua đó cũng thể hiện sự hài hòa, đăng đối âm dương, hòa
quyện giữa con người với trời đất, con người với tổ tiên, thần thánh. Ngoài những
đặc trưng riêng của chùa còn toát lên sự dung hợp với văn hóa tín ngưỡng thờ cũng tổ
tiên thể hiện qua việc bài trí tượng thờ trong Phật điện. Cách bài trí, thờ tự ở trong
chùa được sắp xếp theo một trật tự từ trên cao xuống. Chùa có nhiều tượng Phật, Bồ
Tát cùng với tượng các thiên thần Phật giáo khác rất đa dạng và phong phú. Cách bài
trí thường tuân thủ như sau: ở tầng cao nhất của ban thờ giữa, ở chính điện, sát vách
tường, thường có ba pho tượng gọi là “Tam thế” tức các vị Phật ở ba thời gian là quá
khứ - hiện tại - tương lai. Dưới ba pho Tam thế là ba pho “Di Đà tam tôn” gồm tượng
Phật A Di Đà ở giữa, tượng Bồ Tát Quan Thế Âm ở bên trái và tượng Bồ Tát Đại Thế
Chí ở bên phải. Dưới ba pho tượng này lại là tượng Phật Thích Ca Mầu Ni ở giữa,
tượng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi ở bên trái và tượng Bồ Tát Phổ Hiền ở bên phải. Trên
bàn thờ chính của Thượng điện, ngoài tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, ở một số
chùa còn có tượng Phật Di Lặc. Ngoài tiền đường thường có hai tượng Hộ Pháp,
những thiên thần bảo vệ Phật Pháp, mặc giáp trụ, cầm vũ khí trông rất oai phong lẫm
24


liệt. Hoặc ở một số chùa, ở nhà tiền đường còn bầy tượng Bát bộ kim cương, tức tám
vị thần bảo vệ của Phật. Còn ở hai bên dãy hành lang, thường bày tượng mười tám vị
La Hán, mỗi bên chín tượng. Cách bài trí ở một số chùa thể hiện sự ảnh hưởng của
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên do có cách thức bài trí là thờ “hậu” có nghĩa là thờ cúng
sau khi chết, thay cho những người hậu tự, tức là con cháu nối dõi. Qua cách thức bài
trí này đã nói lên ảnh hưởng của tín ngưỡng tâm linh của người Việt, họ luôn nghĩ về
sự thờ cúng sau cái chết. [11]
Mặt khác, với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, do ảnh hưởng của Phật giáo nên cách
bài trí bàn thờ tổ tiên trong mỗi gia đình người Việt cũng được sắp xếp một cách bài
bản và rất hệ thống theo một tôn ti trật tự chặt chẽ, tuy có đơn giản hơn vì không gian
thờ cúng ở phạm vi gia đình, dòng họ. Trong mỗi gia đình, bàn thờ tổ tiên được đặt

giữa nhà, là vị trí trang trọng nhất để trong những ngày tuần, ngày giỗ, ngày tết hay
khi có hiếu hỷ… con cháu làm lễ, bày tỏ lòng hiếu kính với ông bà, tổ tiên, mong gia
tiên phù hộ. Khi Phật giáo kết hợp với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thì ngày giỗ Tổ
Hùng Vương, thờ anh hùng dân tộc, người có công với đất nước, làng xã cũng chính
là ngày lễ của Phật giáo. Trong những ngày lễ này, nhà chùa tổ chức các khóa lễ cầu
an, cầu siêu tưởng nhớ đến công ơn của vị Vua Hùng, ông tổ của dân tộc và những
anh hùng dân tộc, những người có công lao trong việc dựng nước và giữ nước. Ở đây,
một số yếu tố của văn hóa Phật giáo được xuất hiện như treo cờ Phật, tụng kinh niệm
Phật…để cầu mong quốc thái dân an. Hơn nữa, có thể nhận thấy nếu như trong lễ
Phật, người ta chỉ dâng cúng với nghi thức lục cúng: hương, hoa, đăng (đèn, nến), trà,
quả thực (xôi, oản), tức là các đồ chay; thì trong nghi lễ thờ cúng tổ tiên, ngoại trừ
những ngày chay tịnh theo Phật giáo, thì ngày giỗ kỵ tổ tiên, người ta làm cả cỗ chay
lẫn mặn để cúng. Đây cũng chính là sự ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người Việt với Phật giáo. Qua đó, có thể khẳng định giữa Phật giáo với tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Hội nhập với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, văn hóa Phật giáo phát huy được giá trị
trong việc gìn giữ cội nguồn và lưu giữ những nét đẹp trong phong tục, tập quán của
người dân Việt Nam. Văn hoá Phật giáo dung hòa với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt, dựa trên nền tảng của hiếu đạo Phật giáo, cũng như một đời sống nhân
quả thuần thiện. Có thể lấy minh chứng cho điều này qua lĩnh vực thực hành tín
ngưỡng chính là việc bày tỏ lòng tôn kính, thể hiện đạo hiếu, trong những ngày giỗ,
kỵ tổ tiên, ông bà, cha mẹ nhiều gia đình mời cả các vị sư về làm lễ tại nhà; hay có
nhiều gia đình đưa vong cha mẹ, ông bà, tổ tiên lên nhờ nhà chùa thờ tự và cúng
vong, cầu cho người đã khuất được siêu thoát.
Như vậy, sự hòa quyện giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên đã tạo nên sự đa dạng, phong phú cho văn hóa Việt Nam, khẳng định sự
hội nhập, gắn bó giữa Phật giáo với văn hóa dân tộc Việt. Những giá trị văn hóa vật
thể và phi vật thể của Phật giáo thâm nhập, tác động qua lại với văn hóa tín ngưỡng
đã ghi sâu dấu ấn và trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa tín ngưỡng
của dân tộc Việt Nam.

25


×