Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Xuất khẩu hàng dệt may tổng CT việt thắng sang nhật bản trong CPTPP v4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.73 KB, 45 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) với
tiền thân là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được ký kết ở
Chile vào ngày 8/3/2018. Hiệp định có sự tham gia của 11 nền kinh tế, gồm:
Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealad, Peru,
Singapore và Việt Nam sẽ tạo ra một khu vực thương mại tự do thuộc hàng lớn nhất
thế giới với quy mô thị trường chiếm khoảng 13,5% GDP toàn cầu và gần 500 triệu
dân. Hiệp định CPTPP với mức độ và phạm vi cam kết sâu rộng sẽ tác động mạnh
mẽ đến môi trường và điều kiện kinh doanh toàn cầu nói chung và các quốc gia
trong khối nói riêng. Ngày 12/11/2018, tại kỳ họp thứ 6 khoá XIV, Quốc hội đã
thông qua Nghị quyết 72/2018/QH14 về phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và
Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP và Việt Nam trở thành nước thứ 7 thông
qua Hiệp định. Trước đó New Zealand, Canada, Australia, Nhật Bản, Mexico và
Singapore đã thông qua hiệp định CPTPP. Hiệp định CPTPP gồm 30 chương trong
đó Hiệp định dành riêng chương 4 là nội dung về Dệt may, ta thấy dệt may là nội
dung quan trọng và có mức độ khác biệt và sâu sắc trong Hiệp định.
Hiện nay ở nước ta ngành công nghiệp dệt may ngày càng có vai trò quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân toàn cầu. Nó không chỉ phục vụ cho nhu cầu ngày
càng cao, phong phú và đa dạng của con người mà còn là ngành giúp nước ta giải
quyết được nhiều công ăn việc làm cho xã hội và đóng góp ngày càng nhiều cho
ngân sách quốc gia, tạo điều kiện để phát triển nền kinh tế lên tầm cao mới. Trong
những năm gần đây ngành công nghịêp dệt may đã có những bước tiến nổi trội và
vượt bậc. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành khoảng 30%/năm, trong lĩnh vực
xuất khẩu tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8%/năm và chiếm 20% tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước. Tính đến nay cả nước có khoảng 822 doanh nghiệp dệt may,
trong đó doanh nghiệp quốc doanh là 231 doanh nghiệp, doanh nghiệp ngoài quốc
doanh là 370 doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 221 doanh
nghiệp. Với kim ngạch xuất khẩu năm 2017 của Ngành lên tới 31 tỷ Đô la tăng




2
khoảng 10% so với con số 28,3 tỷ USD của năm 2016. Bên cạnh đó, với 2,7 triệu
công nhân dệt may trên toàn quốc, chiếm khoảng 1/10 lao động công nghiệp quốc
gia, Ngành đang đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội và công tác an
sinh xã hội. Vai trò của Ngành dệt may càng trở nên đặc biệt quan trọng khi Hiệp
định CPTPP có hiệu lực từ đầu năm 2019 sẽ giúp Ngành dệt may Việt Nam mở
rộng thị trường xuất khẩu, khi CPTPP đang chiếm 12,9% GDP toàn cầu và 14,9%
khối lượng giao dịch thương mại toàn thế giới, chưa kể hàng hoá giao dịch trong
nhóm CPTPP sẽ được cắt giảm thuế quan đến 95%. Việt Nam dự kiến tăng gấp đôi
thị phần tại các thị trường CPTPP, trong vòng 7 năm kể từ ngày ký kết, có đến
99,2% dòng thuế được EU cam kết cắt giảm đối với hàng hoá nhập khẩu từ Việt
Nam. Cùng với đó, nhờ hưởng lợi thuế quan từ CPTPP và EVFTA, hàng dệt may
Việt Nam có thể trở nên cạnh tranh hơn so với hàng Trung Quốc. Tổng công ty Việt
Thắng là đơn vị thành viên của Tập đoàn dệt may Việt Nam được xây dựng năm
1960 và đưa vào hoạt động từ năm 1962. Với quá trình hình thành và phát triển từ
khi thành lập đến nay, Tổng công ty Việt Thắng đã và đang khảng định vị trí của
mình là một trong những công ty dệt may có quy mô và uy tín nhất trong ngành Dệt
May Việt Nam. Chất lượng sản phẩm của công ty đã được khảng định tại thị trường
các nước. Đối với thị trường xuất khẩu Tổng công ty Việt Thắng luôn là một trong
những doanh nghiệp xuất khẩu mạnh và có uy tín nhất trong ngành Dệt May Việt
Nam, được nhiều khách hàng nước ngoài biết đến.
Chính vì vậy, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Xuất khẩu hàng dệt may của
Tổng công ty Việt Thắng sang thị trường Nhật Bản trong bối cảnh thực thi Hiệp
định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương” làm đề tài cho luận văn
Thạc sĩ của mình, nhằm đóng góp ý kiến để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu dệt may
của Tổng công ty Việt Thắng nói riêng và các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói
chung sang thị trường Nhật Bản – thị trường tiềm năng và lớn nhất trong các nước
thành viên CPTPP.

2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới


3
Trên thế giới Hiệp định CPTPP đã được nhiều nhà khoa học, học giả nghiên
cứu ở khía cạnh và góc độ khác nhau, có thể kể đến các tác giả sau:
Pradumna B.Rana & Ji Xianbai với nghiên cứu mang tên: ”TPP’s
Resurrection: Will it Be Finally Ratified”, 2017. Nghiên cứu này được thực hiện vào
năm 2017 tại Singapore với mục tiêu tìm hiểu chi tiết nội dung, đánh giá các ảnh
hưởng của TPP đến các thành viên tham gia và triển vọng của CPTPP trong tương
lai.Trong nghiên cứu của tác giả đã cho thấy được những tác động tích cực của TPP
tới các nước tham gia: TPP sẽ giúp các nước mở rộng thị trường xuất nhập khẩu;
TPP làm phá bỏ rào cản làm tăng chi phí giao dịch, là chất xúc tác cho tái cấu trúc
kinh tế. Hạn chế lớn nhất của nghiên cứu này là ở quy mô của nghiên cứu khi
nghiên cứu này chủ yếu đánh giá tác động của CPTPP tới Singapore là chủ yếu mà
chưa nghiên cứu rộng ra các quốc gia khác như Việt Nam.
Koichi Ishikawa với nghiên cứu mang tên: “CPTPP – great expectation for
enterprises”, 2018. Nghiên cứu này của tác giả thực hiện năm 2018 tại Nhật Bản,
nghiên cứu này đã cho thấy những lợi ích lớn cho các doanh nghiệp khi tham gia
Hiệp định CPTPP. Các doanh nghiệp có thể tăng lợi nhuận của mình lên tới 20%
nếu biết tận dụng các cơ hội mà CPTPP đem lại, bên cạnh đó tác giả cũng đưa ra
các cơ sở khoa học cho rằng CPTPP với 11 thành viên sẽ giúp Tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) của các nước này tăng 1,49%. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của tác giả
còn hạn chế đó là nghiên cứu này chỉ đánh giá cho các doanh nghiệp nói chung mà
không chỉ rõ các doanh nghiệp đó thuộc các lĩnh vực nào đặc biệt là chưa có đánh
giá cho các doanh nghiệp trong ngành dệt may.
Yuriko Koike, có nghiên cứu mang tên “Japan’s TPP Transformation”, 2015.
Trong nghiên cứu của mình tác giả đã đưa ra các cơ sở khoa học và các căn cứ để
cho thấy ý nghĩa của TPP với Nhật Bản nói chung và ngành dệt may của nước này

nói riêng. Nghiên cứu cho rằng TPP là nền tảng quan trọng để tiến tới tự do hóa
kinh tế – mục tiêu thứ ba của chương trình cải tổ “Abenomics”, chương trình chính
phủ nhằm đem lại sức sống mới cho nền kinh tế yếu ớt của nước này. TPP sẽ giúp
ngành Dệt may của Nhật Bản có thể tăng kim ngạch xuất nhập khẩu lên đến 5 tỷ
USD. Tuy nhiên trong nghiên cứu của tác giả Yuriko Koike còn hạn chế là chỉ


4
nghiên cứu ngành Dệt may của Nhật Bản, mà chưa có đánh giá chung cho Dệt may
của các nước tham gia TPP, đặc biệt là chưa có đánh giá cho Dệt may của Việt Nam
đối với thị trường Nhật Bản.
Jeffrey Frankel, có nghiên cứu mang tên “Why Support the TPP?”, 2015.
Nghiên cứu tác giả chỉ ra rằng: Sự tập trung vào các lĩnh vực mới của hội nhập sâu
không nên che khuất những lợi ích thương mại tự do cổ điển vốn là một phần của
TPP: cắt giảm hàng ngàn hàng rào thuế quan và phi thuế quan hiện hành. Tự do hóa
sẽ ảnh hưởng đến các ngành chế tạo như ngành công nghiệp ô tô, cũng như các
ngành dịch vụ, bao gồm cả Internet. Tự do hóa nông nghiệp – từ lâu là vấn đề khó
đạt được thỏa thuận trong các cuộc đàm phán thương mại quốc tế – là đáng chú ý.
Các quốc gia như Nhật Bản đã đồng ý nhập khẩu nhiều hơn 20% các sản phẩm bơ
sữa, đường, thịt bò, và gạo từ các công ty sản xuất hiệu quả hơn ở các nước như
New Zealand và Úc. Không chỉ có vậy TPP còn mở ra cơ hội xuất khẩu mới cho các
nước tham gia, giúp tạo ra mức lương cao hơn và chi phí sinh hoạt thấp hơn. Tuy
nhiên trong nghiên cứu của tác giả vẫn còn có hạn chế đó là chưa đánh giá đề cập
đến những lợi ích cụ thể mà TPP mang lại trong lĩnh vực Dệt may.
Joseph E. Stiglitz & Adam S. Hersh, có nghiên cứu mang tên: “The TPP’s
Impact on Vietnam: A Preliminary Assessment,”, 2015. Trong nghiên cứu này của
tác giả đã đánh giá sơ bộ về tác động kinh tế, chính trị, và chiến lược tiềm năng của
TPP đối với Việt Nam, bài viết này lập luận rằng Việt Nam có thể hưởng lợi đáng kể
về tốc độ tăng trưởng GDP, xuất khẩu, và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Trong dài hạn, nền kinh tế cũng được hưởng lợi nếu những cải cách hơn nữa về

pháp lý, thể chế, và hành chính được thực hiện cùng với những cải tiến trong các
lĩnh vực nhà nước và tư nhân. Trong nghiên cứu của mình tác giả cho rằng đến năm
2025 GDP của Việt Nam có thể sẽ tăng thêm 11%, tương đương 36 tỷ USD nhờ có
TPP. Tuy nhiên trong nghiên cứu của tác giả vẫn còn hạn chế, đó là tác giả chưa chỉ
rõ được tác động của TPP và ngành dệt may của Việt Nam đến năm 2025 là như thế
nào.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước


5
Ở Việt Nam Hiệp định CPTPP đã được nhiều nhà khoa học, học giả nghiên
cứu ở nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau, có thể kể đến các tác giả sau:
Trần Toàn Thắng có bài viết: “Dệt may và da giày hưởng lợi nhiều nhất từ
CPTPP”, Thời báo kinh tế Việt Nam số 62, Hà Nội 2018, tr.10- tr.18. Trong nghiên
cứu của mình tác giả cho rằng dệt may và da giày được hưởng lợi nhiều nhất từ
CPTPP. Dựa và các lập luận và cơ sở lý luận được đưa ra trong nghiên cứu, tác giả
đã đánh giá: tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của ngành dệt may và da giày sau khi
CPTPP có hiệu lực dự báo tăng thêm 8,3 - 10,8%; Hàng dệt may và da giày hiện
được bảo hộ khá cao ở châu Mỹ, nên sau khi cắt giảm thuế quan thông qua CPTPP,
sức cạnh tranh của các sản phẩm này của Việt Nam sẽ nâng lên đáng kể. Tuy nhiên
trong nghiên cứu này của tác giả chỉ đánh giá trên góc độ lý thuyết về sự tăng
trưởng của ngành Dệt may của Việt Nam và nghiên cứu này cũng chưa đưa ra các
giải pháp giúp tăng cường khai thác những lợi thế cho ngành Dệt may khi CPTPP
chính thức có hiệu lực trong năm 2019.
Tác giả Phạm Minh Đức có bài viết: “Đổ vào dệt may, vốn Nhật đón đầu
CPTPP”, Thời báo kinh tế Forbes Việt Nam số 12, Hà Nội 2018, tr.23- tr.26. Trong
nghiên cứu của mình tác giả tác giả đưa ra các lập luận và lý luận khoa học cho rằng
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt là vốn Nhật Bản, đầu tư vào
lĩnh vực dệt may dự báo tăng thêm 20% do tiềm năng xuất khẩu rất lớn từ Hiệp
định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương CPTPP. Trong nghiên cứu

của mình tác giả đưa ra đánh giá về thị trường xuất nhập khẩu dệt may của Việt
Nam và Nhật Bản khi CPTPP chính thức có hiệu lực 2019 sẽ tăng lên trên 40 tỷ
USD. Tuy nhiên trong nghiên cứu này của tác giả chỉ đánh giá cho ngành Dệt may
của Việt Nam nói chung chứ chưa nghiên cứu một doanh nghiệp cụ thể tiêu biểu
nào trong ngành dệt may và nghiên cứu này cũng chưa đưa ra các giải pháp cụ thể
cho một doanh nghiệp Dệt may để tăng cường xuất khẩu hàng hóa của mình sang
thị trường Nhật Bản.
Luận văn Thạc sĩ kinh tế “Hoàn thiện hoạt động xuất khẩu hàng may mặc
Công ty Việt Tiến sang thị trường Nhật Bản” của tác giả Nguyễn Thị Xuân, Đại học
Kinh tế quốc dân, Hà Nội 2015. Từ những lý luận chung về hoạt động xuất khẩu,


6
hoạt động xuất khẩu hàng may mặc cho các doanh nghiệp trong nước ra thị trường
Nhật Bản. tác giả đã phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty Việt Tiến
trong giai đoạn 2012-2015, từ đó tác giả đề ra một số giải pháp nhằm tăng cường
xuất khẩu hàng may mặc cho Công ty. Luận văn đã nghiên cứu tổng quát việc xuất
khẩu hàng may mặc cho doanh nghiệp trong ngành Dệt may Việt Nam nói chung và
công ty Công ty Việt Tiến nói riêng. Tuy nhiên trong luận văn của tác giả chưa đánh
giá được hoạt động xuất khẩu trong bối cảnh Hiệp định CPTPP đến xuất khẩu hàng
dệt may sang thị trường Nhật Bản.
Luận văn Thạc sĩ kinh tế “Hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty May Đức
Giang sang thị trường các nước Châu Á” của tác giả Nguyễn Văn Anh, Đại học
Bách khoa Hà Nội, Hà Nội 2014. Luận văn đã trình bày những lý luận chung về
hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong ngành Dệt may, tác giả cũng
đưa ra một số vấn đề lý luận cụ thể về hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh
nghiệp trong lĩnh vực may mặc quần áo xuất khẩu như: nội dung, cách thức, đặc
điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu. Đồng thời luận văn
cũng đi sâu đánh giá thực trạng, phân tích những nguyên nhân và đề xuất các giải
pháp hoàn thiện hoạt động xuất khẩu của công ty sang thị trường các nước Châu Á

trong 2010-2014. Tuy nhiên trong luận văn của tác giả có hạn chế, đó là chưa đưa ra
các giải pháp cho xuất khẩu hàng dệt may của Công ty trong bối cảnh thực thư hiệp
định CPTPP và luận văn mới chỉ đánh giá cho Công ty May Đức Giang mà chưa
đánh giá cho các doanh nghiệp khác trong ngành Dệt may của Việt Nam.
Luận văn Thạc sĩ kinh tế “Xuất khẩu hàng dệt may của Tổng Công Ty May
Nhà Bè sang thị trường Singapore trong thời kỳ hội nhập kinh tế” của tác giả
Nguyễn Thị Lan Anh, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội 2013. Luận văn đã trình
bày những lý luận chung về hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp trong ngành
Dệt may. Tác giả đã đi sâu đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng dệt may, phân tích
những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của hoạt động xuất khẩu của Công ty trong
thời kỳ hội nhập kinh tế giai đoạn 2010 – 2013. Tác giả đã đề xuất các giải pháp
hoàn thiện hoạt động xuất khẩu của công ty sang thị trường các nước trong khu vực.
Tuy nhiên trong luận văn của tác giả có hạn chế, đó là chưa đưa ra các giải pháp cho


7
xuất khẩu hàng dệt may của Công ty trong bối cảnh thực thư hiệp định CPTPP và
luận văn mới chỉ đưa ra giải pháp xuất khẩu hàng may mặc cho thị trường
Singapore mà chưa có đánh giá cho thị trường Nhật Bản.
Như vậy, hiện giờ đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề xoay quanh hiệp
định CPTPP và hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường
nước ngoài. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu riêng đối với hoạt
động xuất khẩu hàng dệt may trong một doanh nghiệp tiêu biểu của ngành trước bối
cảnh thực thi Hiệp định CPTPP - Hiệp định thay thế cho TPP đã vô hiệu bởi sự rút
lui bất ngờ của Mỹ vào phút chót. Đây là công trình nghiên cứu một cách có hệ
thống và đầy đủ về vấn đề này. Công trình này đảm bảo sự kế thừa nhưng không
trùng lặp với các công trình đã được công bố trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của tổng công ty
Việt Thắng sang thị trường Nhật Bản trong giai đoạn 2013 – 2018 và nhận diện cơ

hội thách thức trong bối cảnh thực thi Hiệp định CPTPP, luận văn đề xuất các giải
pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Tổng công ty Việt Thắng sang thị
trường Nhật Bản trong thời gian tới.
Để đạt được mục đích đó, Luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản trong Hiệp định đối tác toàn diện và tiến
bộ xuyên Thái Bình Dương và hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
- Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Tổng công ty Việt
Thắng sang thị trường Nhật Bản giai đoạn 2013 – 2018. Thu thập số liệu và so sánh
với các doanh nghiệp tương đương trong ngành.
- Nhận diện cơ hội và thách thức của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của
tổng công ty Việt Thắng sang thị trường Nhật Bản trong bối cảnh thực thi Hiệp định
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương.
- Đề xuất các nhóm giải pháp cho việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt
may của Tổng công ty Việt Thắng sang thị trường Nhật bản trong bối cảnh thực thi


8
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động hoạt động xuất khẩu hàng dệt
may của Tổng công ty Việt Thắng sang thị trường Nhật Bản trong bối cảnh thực thi
Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
Phạm vi nghiên cứu gồm:
Về mặt nội dung: luận văn tiến hành phân tích hoạt động xuất khẩu hàng dệt
mặt của của Tổng công ty Việt Thắng sang thị trường Nhật Bản trong giai đoạn
2013 – 2018 ở các nội dung: Kim ngạch xuất khẩu; Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu;
Biến động giá; Phương thức thanh toán. Bên cạnh đó luận văn cũng tiến hành đánh
giá các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Tổng công ty
Việt Thắng sang thị trường Nhật Bản trong bối cảnh thực thi Hiệp định CPTPP.

Về mặt thời gian: phân tích thực trạng tình hình xuất nhập khẩu của Tổng công
ty Việt Thắng 5 năm gần nhất giai đoạn 2013 – 2018, cập nhật quá trình đàm phán
và kế hoạch thực thi Hiệp định CPTPP từ đầu năm 2017 đến nay và đề ra giải pháp
cho hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Tổng công ty Việt Thắng sang thị trường
Nhật Bản đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030.
Về mặt không gian: luận văn nghiên cứu hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
xủa Tổng công ty Việt Thắng tại thị trường Nhật Bản.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu: Sử dụng kỹ thuật phỏng vấn trực tiếp các nhà
quản trị cũng như các cán bộ Phòng xuất nhập khẩu, Phòng kinh doanh, Phòng kế
toán tài chính, nhằm thu thập được các thông tin liên quan như: Tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh, tình hình xuất nhập khẩu, chiến lược phát triển của Công ty
trong thời gian qua và định hướng phát triển xuất khẩu hàng dệt may của Công ty
trong thời gian tới. Thu thập các dữ liệu cần thiết chủ yếu tại Phòng marketing,
Phòng kinh doanh, Phòng kế toán từ các nguồn sẵn có như tài liệu của Phòng


9
marketing, kế toán và Phòng kinh doanh qua các năm 2013 – 2018, báo, tạp chí và
các nguồn tài liệu số trên Internet.
Phương pháp phân tích dữ liệu: Phương pháp thống kê được sử dụng để xác
định tần số xuất hiện, mức độ qui mô, cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu của Tổng
công ty Việt Thắng trong thời gian khảo sát giai đoạn 2013 – 2018. Phương pháp
phân tích, tổng hợp dựa trên việc lập bảng so sánh ngang, so sánh cheo dữ liệu
nhằm phân tích, khảo sát hoạt động xuất khẩu hàng dệt may từ năm 2013 – 2018.
Phương pháp này dựa trên những số liệu đã được tác giả thống kê, lưu giữ trong
thời gian khảo sát để đánh giá phân tích dựa trên phần mềm Excel.
Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn lãnh đạo, trưởng bộ phận, các nhân
viên phụ trách mảng xuất khẩu hàng dệt may của Tổng công ty Việt Thắng và các
chuyên gia trực thuộc các cơ quan ban ngành liên quan để có những ý kiến đánh giá

thực tế về hoạt động xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Danh sách chuyên gia và
lãnh đạo doanh nghiệp xem trong file phụ lục.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của
Tổng công ty Việt Thắng sang Nhật Bản trong bối cảnh thực hiện Hiệp định CPTPP.
Thông qua phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của
Tổng công ty Việt Thắng sang Nhật Bản trong bối cảnh thực hiện Hiệp định CPTPP,
luận văn đã chỉ ra những ưu, nhược điểm và nguyên nhân hạn chế trong hoạt động
xuất khẩu của Tổng công ty Việt Thắng. Từ đó đề xuất giải pháp nhằm tăng cường
xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn cho thấy được thực trạng xuất khẩu hàng
dệt may của Tổng công ty Việt Thắng sang Nhật Bản trong bối cảnh thực hiện Hiệp
định CPTPP trong giai đoạn 2013 – 2018, các giải pháp được đề xuất sẽ góp phần
tăng cường hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Tổng công ty Việt Thắng. Đặc
biệt là Tổng công ty Việt Thắng là doanh nghiệp đi đầu của ngành dệt may cả nước
trong việc xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản và hiệp định CPTPP
mới được đưa vào áp dụng từ đầu năm 2019. Do đó, kết quả nghiên cứu sẽ là tài


10
liệu tham khảo cho các nhà quản trị của Tổng công ty Việt Thắng, các doanh nghiệp
khác trong ngành dệt may và các nghiên cứu có liên quan đến việc xuất khẩu hàng
hóa sang thị trường Nhật Bản bối cảnh thực hiện Hiệp định CPTPP.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu
gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về xuất khẩu hàng dệt may và Hiệp định Đối tác Toàn
diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Tổng Công ty Việt
Thắng sang thị trường Nhật Bản giai đoạn 2013 – 2018.

Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Tổng
Công ty Việt Thắng sang thị trường Nhật Bản trong bối cảnh thực thi Hiệp định Đối
tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương.
Để có thể hoàn thành luận văn này, người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến PGS, TS Nguyễn Tiến Hoàng đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn trong suốt thời
gian qua. Người viết cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn đến quý thầy cô Trường Đại
học Ngoại thương Cơ sở II tại thành phố Hồ Chí Minh đã tận tâm truyền đạt kiến
thức cần thiết trong thời gian học cao học. Sau cùng, xin được dành lời tri ân sâu
sắc cho gia đình và bạn bè. Nhờ sự quan tâm và khích lệ, động viên mà gia đình,
bạn bè dành cho người viết đã giúp người viết vượt qua những giai đoạn khó khăn
để hoàn thành luận văn này.
Do sự hạn chế về thời gian chuẩn bị và tài liệu tham khảo nên luận văn
không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, mong Thầy/Cô, người đọc góp ý
thêm để Luận văn được hoàn chỉnh hơn.


11

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
VÀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN
THÁI BÌNH DƯƠNG
1.1. Khái quát chung về xuất khẩu và xuất khẩu hàng dệt may
1.1.1. Khái quát về xuất khẩu
1.1.1.1. Khái niệm
Co nhiều khái niệm về xuất khẩu:
Theo Đặng Đình Đào(2008), “Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoặc dịch
vụ của một quốc gia này sang một quốc gia khác nhằm phát triển sản xuất, kinh
doanh và đời sống. Song hoạt động này có những nét riêng phức tạp hơn trong
nước như giao dịch với những người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn
khó kiểm soát, mua bán qua trung gian nhiều, đồng tiền thanh toán thường là ngoại

tệ mạnh và hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu các quốc gia khác
nhau nên phải tuân thủ theo các tập quán quốc tế cũng như luật lệ từng địa phương
khác nhau” [4, tr 12].
Theo nghiên cứu của Hoàng Đức Thân (2002), trong Giáo trình kinh tế
thương mại, Nhà xuất bản đại học Kinh tế quốc dân: “Xuất khẩu hàng hoá hiểu theo
phạm trù kinh tế có nghĩa là hoạt động kinh doanh hàng hoá giữa hai bên tham gia
hoạt động kinh doanh có quốc tịch khác nhau, ngôn ngữ cũng khác nhau cũng như
khác nhau về văn hoá, chính trị... hiểu theo phạm vi địa lý, hoạt động xuất khẩu
hàng hoá có nghĩa là quá trình hàng hoá và tiền tệ di chuyển từ quốc gia này sang
quốc gia khác được sự cho phép và đồng ý của chính quyền các nước.”[15, tr 10].
Theo điều 28, Luật Thương mại Việt Nam 2005 xuất khẩu hàng hóa là việc
hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm
trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp
luật [5, tr.9].
Theo nghiên cứu của Nguyễn Duy Bột (2006), trong cuốn sách “Quản trị
kinh doanh TM Quốc tế”, Nhà xuất bản Thống kê. Tác giả cho rằng: “Xuất khẩu là


12
hình thức xâm nhập thị trường nước ngoài ít rủi ro và chi phí thấp nhất. Với các
nước đang phát triển như Việt Nam thì xuất khẩu đóng vai trò rất lớn đối với nền
kinh tế và đối với các doanh nghiệp”. Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là
hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp. Hoạt động này được
tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình.
Có nhiều khái niệm khác nhau về xuất khẩu, nhưng theo tác giả thì xuất khẩu
hàng hóa được hiểu là: Xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá (hàng hoá có thể
là hữu hình hoặc vô hình), là một hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc
tế. Xuất khẩu không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các
quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản
phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm đồng

tiền thanh toán. Tiền tệ có thể là tiền của một trong hai nước hoặc là tiền của một
nước thứ ba (đồng tiền dùng thanh toán quốc tế). xuất khẩu giúp đẩy mạnh sản xuất
hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định từng bước nâng cao mức
sống nhân dân. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại
thương.
1.1.1.2. Các hình thức xuất khẩu
Xuất khẩu có thể được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau phụ thuộc vào
số lượng và các loại hình trung gian thương mại. Mỗi phương thức có đặc điểm
riêng, có kỹ thuật tiến hành riêng. Theo Nghị định 08/2015/NĐ-CP thì có các loại
hình xuất khẩu chủ yếu sau:
a. Xuất khẩu uỷ thác
Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác giao cho
đơn vị xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc một số lô
hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng với chi phí của
bên uỷ thác. Về bản chất, chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền thu lao trả
cho đại lý. Theo nghị định 64-HĐBT, chi phí uỷ thác xuất khẩu không cao hơn 1%
của tổng số doanh thu ngoại tệ về xuất khẩu theo điều kiện FOB tại Việt Nam.
b. Xuất khẩu trực tiếp


13
Trong phương thức này, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký kết
hợp đồng ngoại thương, với tư cách là một bên phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó.
Hợp đồng ký kết giữa hai bên phải phù hợp với luật lệ quốc gia và quốc tế, đồng
thời bảo đảm được lợi ích quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của doanh nghiệp.
Để thực hiện hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành các khâu công
việc:
Giục mở L/C và kiểm tra luận chứng (nếu hợp đồng quy định sử dụng phương pháp
tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá làm thủ tục hải
quan, giao hàng lên tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toán và giải quyết khiếu

nại (nếu có).
c. Gia công hàng xuất khẩu
Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức kinh doanh trong đó một bên
(gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên
khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia
công và nhận thù lao ( gọi là chi phí gia công). Tóm lại, gia công xuất khẩu là đưa
các yếu tố sản xuất (chủ yếu là nguyên vật liệu) từ nước ngoài về để sản xuất hàng
hoá theo yêu cầu của bên đặt hàng, nhưng không phải để tiêu dùng trong nước mà
để xuất khẩu thu ngoại tệ chênh lệch do hoạt động gia công đem lại.
Gia công xuất khẩu là một phương thức phổ biến trong thương mại quốc tế. Hoạt
động này phát triển sẽ khai thác được nhiều lợi thế của hai bên: bên đặt gia công và
bên nhận gia công.
d. Tạm nhập tái xuất
Đây là một hình thức xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá trước đây
đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Qua hợp đồng tái xuất bao gồm
nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về số ngoại tệ lớn hơn số ngoại tệ đã bỏ ra
ban đầu.
1.1.1.3. Vai trò của xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của


14
mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội của một nước phát triển như thế nào, phụ thuộc
rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất khẩu có thể làm tăng
ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách, kích thích
đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao
mức sống của người dân.
Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ quan trọng cho nhập khẩu và
tích luỹ phát triển sản xuất, phục vụ công nghiệp hoá đất nước.
Trong kinh doanh quốc tế, xuất khẩu không phải là chỉ để thu ngoại tệ về, mà là với

mục đích đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá dịch vụ khác nhằm thoả mãn
nhu cầu tiêu dùng, tăng trưởng nền kinh tế và tiến tới xuất siêu (xuất khẩu > nhập
khẩu), tích luỹ ngoại tệ (thực chất là đảm bảo chắc chắn hơn nhu cầu nhập khẩu
trong tương lai).
Xuất khẩu và nhập khẩu trong thương mại quốc tế vừa là điều kiện, vừa là tiền đề
của nhau, xuất khẩu để nhập khẩu và nhập khẩu để phát triển xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, định hướng và phát
triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Xuất khẩu đa dạng: là có mặt hàng nào xuất khẩu được thì xuất khẩu nhằm
thu được nhiều ngoại tệ nhất, nhưng với mỗi mặt hàng thì lại nhỏ bé về quy mô,
chất lượng thấp (vì không được tập trung đầu tư) nên không hiệu quả.
Xuất khẩu hàng mũi nhọn: Xuất khẩu hàng mũi nhọn làm thay đổi cơ cấu
ngành và cả cơ cấu trong nội bộ một ngành theo hướng khai thác tối ưu lợi thế so
sánh của đất nước. Mặt khác, trên thị trường thế giới yêu cầu về hàng hoá dịch vụ ở
mức chất lượng cao, cạnh tranh gay gắt. Chỉ có các doanh nghiệp đủ mạnh ở mỗi
nước mới tham gia thị trường thế giới. Toàn bộ các tác động trên làm cho nền kinh
tế phát triển tăng trưởng theo hướng tích cực. Đó là ý nghĩa kinh tế của hoạt động
xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động, tạo thu nhập và tăng mức sống.


15
Về ngắn hạn, để tập trung phát triển các ngành hàng xuất khẩu thì phải cần
thêm lao động, còn để xuất khẩu có hiệu quả thì phải tận dụng được lợi thế lao động
nhiều, giá rẻ ở nước ta. Xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu
dùng thiết yếu, phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú và tốt hơn nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao
động.
Hoạt động xuất khẩu mở rộng và tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại của

nước ta.
Hoạt động xuất khẩu đem lại ngoại tệ, góp phần làm cân bằng cán cân thanh
toán, là một trong bốn điều kiện đánh giá nền kinh tế của một nước: GDP, lạm phát,
thất nghiệp và cán cân thanh toán. Cao hơn nữa là xuất siêu, tăng tích luỹ ngoại tệ,
luôn đảm bảo khả năng thanh toán với đối tác, tăng được tín nhiệm. Qua hoạt động
xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam được bầy bán trên thị trường thế giới, khuyếch
trương được tiếng vang và sự hiểu biết. Hoạt động xuất khẩu làm cho các quan hệ
kinh tế chặt chẽ hơn, làm tiền đề thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như
dịch vụ du lịch, ngân hàng, đầu tư, hợp tác, liên doanh.
1.1.2. Khái quát về xuất khẩu hàng dệt may
1.1.2.1. Tình tình xuất khẩu hàng dệt may trên thế giới
Theo Báo cáo thống kê thương mại thế giới năm 2017 được công bố mới đây
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), giá trị xuất khẩu dệt may thế giới tính
theo đồng USD hiện hành (SITC 65) và giá trị xuất khẩu quần áo thế giới tính theo
đồng USD hiện hành (SITC 84) năm 2017 lần lượt đạt 284 tỷ đô la Mỹ và 443 tỷ đô
la Mỹ, giảm lần lượt 2,3% và 04% so với năm trước. Đây là năm thứ hai kể từ năm
2015, giá trị hàng dệt may thế giới xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng âm.
Giá trị xuất khẩu hàng hóa thế giới tính theo đồng USD hiện hành cũng chỉ
đạt 11.200 tỷ đô la, giảm 3% trong năm 2016 do giá xuất khẩu nhiên liệu và khai
khoáng giảm -14%. Mặt khác, theo nhận định của WTO, sự sụt giảm mạnh giá cả
hàng hóa năm 2016 chủ yếu đã chấm dứt vào năm 2017, trừ giá năng lượng.
Hình 1. 1. Top 10 nhà xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới năm 2017


16
(Đơn vị: Tỷ USD)

Nguồn: Ban Thư ký WTO
Xét về giá trị, Trung Quốc, Liên minh châu Âu và Ấn Độ vẫn là ba khu vực
xuất khẩu hàng dệt may hàng đầu vào năm 2017; chiếm 65,9% tổng kim ngạch xuất

khẩu dệt may và quần áo thế giới vào năm 2017, giảm nhẹ so với mức 66,5% của
năm 2016, chủ yếu là do Ấn Độ giảm thị phần.
Hoa Kỳ vẫn là nhà xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ tư trên thế giới vào năm
2017, chiếm 4,6% tổng kim ngạch xuất khẩu thế giới (giảm từ 4,8% năm 2016).
Hơn một nửa trong số 10 nước xuất khẩu hàng đầu đã trải qua sự suy giảm về giá trị
xuất khẩu vào năm 2017. Cụ thể là: Hồng Kông (-13%), Đài Loan (-8%), Hàn Quốc
(-6%) và Hoa Kỳ (-6%). Đáng chú ý là lần đầu tiên Việt Nam vươn lên nằm trong
top 10 nhà xuất khẩu hàng dệt may hàng đầu thế giới (chiếm 2% thị phần thế giới,
tăng trưởng 9% từ năm 2016).

Ba nước xuất khẩu hàng may mặc hàng đầu gồm Trung Quốc, Liên minh
Châu Âu và Bangladesh. Tổng cộng, 3 khu vực này chiếm 69,1% tổng kim ngạch
xuất khẩu của thế giới, gần mức 70,3% vào năm 2016. Trong số 10 nhà xuất khẩu


17
hàng may mặc hàng đầu, giá trị xuất khẩu gia tăng đã được ghi nhận tại Cămpuchia
(+6%), Bangladesh (+6%), Việt Nam (+ 5%), và Liên minh châu Âu (+4%). Trong
khi đó, một số nước xuất khẩu hàng đầu khác phải trải qua sự trì trệ về giá trị xuất
khẩu (như Thổ Nhĩ Kỳ) hoặc có sự sụt giảm (như Trung Quốc, Ấn Độ và
Indonesia). Do khả năng bị ảnh hưởng tiêu cực bởi chi phí lao động và chi phí sản
xuất tăng, thị phần của Trung Quốc trong xuất khẩu hàng dệt may của thế giới giảm
từ 37,4% năm 2016 xuống còn 37,2% trong năm 2017; và thị phần trong hàng may
mặc xuất khẩu của thế giới giảm từ 39,2% năm 2016 xuống 36,4% năm 2017 - mức
thấp kỷ lục kể từ năm 2010 [15].
1.1.2.2. Tình hình sản xuất và xuất khẩu sản phẩm của ngành dệt may Việt Nam
Hiện nay ở nước ta ngành công nghiệp dệt may ngày càng có vai trò quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân. Trong giai đoạn những năm 2012-2017 ngành
công nghịêp dệt may đã có những bước tiến vượt bậc. Tốc độ tăng trưởng bình quân
của ngành khoảng 30%/năm, trong lĩnh vực xuất khẩu tốc độ tăng trưởng bình quân

24,8%/năm và chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tính đến quý 4
năm 2018, theo Tổng cục thống kê, cả nước có khoảng 822 doanh nghiệp dệt may,
trong đó doanh nghiệp quốc doanh là 231 doanh nghiệp, doanh nghiệp ngoài quốc
doanh là 370 doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 221 doanh
nghiệp [18]. Ngành dệt may có năng lực như sau:
 Về thiết bị: có 1.050.000 cọc kéo sợi, 14.000 máy dệt vải; 450 máy dệt kim
và 190.000 máy may.
 Về lao động: ngành dệt may đang thu hút được khoảng 1,6 triệu lao động,
chiếm 25% lực lượng lao động công nghiệp.
 Về thu hút đầu tư nước ngoài: tính đến quý 4 năm 2018 có khoảng 180 dự án
sợi-dệt-nhuộm -đan len-may mặc còn hiệu lực với số vốn đăng ký đạt gần
1,85 tỷ USD, trong đó có 130 dự án đã đi vào hoạt động, tạo việc làm cho
trên 50.000 lao động trực tiếp và hàng ngàn lao động gián tiếp.
 Tổng nộp ngân sách thông qua các loại thuế ngày càng tăng, tốc độ tăng bình
quân khoảng 15%/ năm.


18
Về thì trường xuất khẩu: chúng ta xuất khẩu nhiều sang các thị trường Mỹ,
EU, Canada và Nhật Bản trong đó các nước EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt
may lớn nhất của Việt Nam chiếm 34%-38% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm
của Việt Nam. Còn sản phẩm dệt may xuất khẩu sang Nhật Bản đã được hưởng thuế
ưu đãi theo hệ thống GSP nên kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường
này tăng khá nhanh trong những năm gần đây, thị phần hàng dệt thoi và dệt kim của
nước ta trên thị trường hàng dệt may của Nhật Bản tương ứng là 3,6% và 2,3%, kim
ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 30% sản phẩm dệt may.
1.1.3. Xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản
1.1.3.1. Đặc điểm thị trường hàng dệt may Nhật Bản.
a) Các chính sách của thị trường Nhật Bản về hàng may mặc
Chế độ cấp giấy phép nhập khẩu: Hàng nhập khẩu được quy định bởi lệnh

kiểm soát nhập khẩu theo mục 6 điều 15 của luật kiểm soát ngoại thương và ngoại
hối. Các loại hàng hoá này bao gồm tất cả các loại động sản. kim loại quý (vàng
thoi, vàng hợp chất, tiền đúc không lưu thông và các mặt hàng khác có hàm lượng
vàng cao), chứng khoán, giấy chứng nhận tài sản vô hình… không thuộc sự điều tiết
của lệnh kiểm soát nhập khẩu mà do lệnh kiểm soát ngoại hối quy định. Tuy hầu hết
hàng nhập khẩu không cần giấy phép nhập khẩu của MITI (Bộ Công Thương Quốc
Tế).
Quản lý chất lượng và ghi nhãn
*Hàng hoá lưu thông trên thị trường phải có nhãn mác đúng tiêu chuẩn và
nhãn mác phải thể hiện đúng xuất xứ hàng hoá sao cho người tiêu dùng không nhầm
lẫn sản phẩm do Nhật Bản sản xuất với sản phẩm sản xuất ở nước ngoài và họ có
thể nhanh chóng xác định được xuất xứ của hàng hoá, cấm nhập khẩu các sản phẩm
có nhãn mac mập mờ, giả mạo về xuất xứ.
b) Tiêu chuẩn JIS (Japan Industrial Standards).
JIS – một trong những dấu chất lượng được sử dụng rộng rãI ở Nhật – là hệ
thống tiêu chuẩn chất lượng áp dụng cho hàng hoá công nghiệp. Tiêu chuẩn chất


19
lượng này dựa trên “Luật tiêu chuẩn hàng hoá công nghiệp” được ban hành vào
tháng 6-1949 và thường được biết đến dưới cái tên “Dấu chứng nhận tiêu chuẩn
công nghiệp Nhật Bản” hay JIS.
-Dấu JIS được áp dụng cho rất nhiều loại sản phẩm khác nhau như: vải, quần
áo, các thiết bị điện, giày dép, bàn ghế và các loại sản phẩm khác đòi hỏi phải tiêu
chuẩn hoá về chất lượng và kích cỡ hay các quy cách phẩm chất khác. Dấu này lúc
đầu được áp dụng để tạo ra một chuẩn mực về chất lượng cho các sản phẩm xuất
khẩu khi Nhật Bản bán sản phẩm của mình ra nước ngoài. Nói chung, các tiêu
chuẩn JIS được sửa đổi bổ xung theo định kỳ để phù hợp với các tiến bộ của công
nghệ.
-Theo quy định của “Luật tiêu chuẩn hoá Nhật Bản”, dấu chứng nhận tiêu

chuẩn JIS chỉ được phép áp dụng cho các sản phẩm thoả mãn các yêu cầu về chất
lượng của JIS. Do đó khi kinh doanh các sản phẩm này chỉ cần kiển tra dấu chất
lượng tiêu chuẩn JIS là đủ để xác nhận chất lượng của chúng. Hệ thống dấu chất
lượng này áp dụng ở nhiều nước thực hiện tiêu chuẩn hoá. ở Nhật Bản, giấy phép
đóng dấu chứng nhận tiêu chuẩn JIS trên hàng hoá do Bộ trưởng Bộ Công Thương
cấp cho nhà sản xuất khi sản phẩm của họ được xác nhận là có chất lượng phù hợp
với tiêu chuẩn JIS.
c) Luật nhãn hiệu chất lượng hàng hóa gia dụng: luật này đòi hỏi tất cả các sản
phẩm quần áo đều phải dán nhãn trên nhãn ghi rõ thành phẩm của vải và các
biện pháp bảo vệ sản phẩm thích hợp.
d) Luật kiểm tra các sản phẩm gia dụng có chứa các chất độc hại:
Luật này quy định tất cả các sản phẩm gia dụng phải tuân thủ các tiêu chuẩn
về mức độ cho phép đối với các chất gây nguy hiểm cho da. Các sản phẩm may mặc
có mức độ độc hại cao hơn mức cho phép sẽ bị cấm bán ở thị trường Nhật Bản.
Luật thuế hải quan: luật này quy định cấm nhập khẩu các sản phẩm mang
nhãn mác giả mạo vi phạm nhãn mác thương mại hoặc quyền sáng chế.
Các chính sách của Nhật Bản về nhập khẩu hàng may mặc là tương đối khắt
khe, nhất là với các nước đang phát triển bởi các nước này ít kinh doanh dựa trên


20
nhãn mác của mình, chất lượng sản phẩm chưa cao, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm thấp.
Do vậy, công ty cần đẩy mạnh hơn nữa việc kinh doanh trên nhãn mác của mình,
nâng cao tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm băng cách sử dụng triệt để nguồn nguyên liệu
trong nước một cách có hiệu qủa nhằm thích ứng với các chính sách của Nhật Bản
và chiến thắng các đối thủ cạnh tranh.
1.1.3.2. Thị trường hàng dệt may Nhật Bản
Với 126 triệu dân, GDP đạt xấp xỉ 4200 tỷ USD vào năm 1997, Nhật Bản là
thị trường tiêu dùng lớn thứ hai trên thế giới chỉ đứng sau Mỹ. Đồng thời cũng là
một nước nhập khẩu lớn, với kim ngạch nhập khẩu hàng năm nên tới 300-400 tỷ

USD.
(Đơn vị: Tỷ USD)

Hình 1. 2. Giá trị nhập khẩu hàng dệt may của Nhật Bản giai đoạn 2013 – 2017
Nguồn: Thống kê Hải quan Nhật Bản)
Theo số liệu hải quan Nhật Bản về xuất nhập khẩu hàng hóa của Nhật Bản
theo nước/vùng lãnh thổ, năm 2009 Nhật Bản nhập khẩu khoảng 2.300 tỷ ¥ (tương
đương 24,6 tỷ USD) hàng dệt may, giảm 10,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong
năm 2010, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của nước này khoảng 1903,3 tỷ ¥
(tương đương 21,3 tỷ USD), giảm 6,0% so với cùng kỳ năm 2009. Tính đến năm
2014, kim ngạch nhập khẩu dệt may của Nhật Bản đã đạt 29,36 tỷ USD, giảm
7,63% so với năm 2013. Trong giai đoạn 2015 – 2017, Nhật Bản đã cố gắng tăng
hàng nhập khẩu mà chủ yếu là từ các nước đang phát triển hơn là từ các nước công
nghiệp bằng việc cải thiện khả năng tiếp cận thị trường của các nhà cung cấp, năm
2015 tăng nhập khẩu dệt may thêm 6,35 tỷ USD, năm 2016 tiếp tục tăng thêm 2,82
tỷ USD so với năm 2015.
Để khôi phục nền kinh tế và tạo tiền đề cho việc phát triển trong những năm
đầu thế kỷ 21, Nhật Bản đã đề ra chính sách kinh tế tổng thể với ba nhiệm vụ chủ
yếu cần phải được tiến hành đông thời là:


21
1-Thực hiện các biên pháp mạnh mẽ nhằm tăng nội nhu thông qua đầu tư vào
cơ sở hạ tầng xã hội và cắt giảm thuế.
2- Thúc đẩy nhanh cải cách kinh tế. Các biện pháp nhằm làm tăng nội nhu
nói trên phải phù hợp với phương hướng cải tổ lâu dài cơ cấu kinh tế nhằm cải thiện
các điều kiện cơ bản của nền kinh tế Nhật Bản.
3- Đẩy mạnh việc xoá bỏ những khoản nợ khó đòi làm cản trở việc hồi phục
nền kinh tế.
Đối với các nước Châu á, Nhật Bản đã đề ra những biện pháp sau nhằm hỗ

trợ cho việc ổn định hoá nền kinh tế và thúc đẩy cải tổ cơ cấu kinh tế ở các nước
đang gặp phải khó khăn kinh tế do việc khủng hoảng tài chính, tiền tệ vừa qua gây
ra:
1-Hỗ trợ tạo điều kiện thực hiện tài trợ cho thương mại thông qua việc sử
dụng các khoản vay của ngân hàng xuất nhập khẩu Nhật Bản.
2-Hỗ trợ cải tổ nền kinh tế thông qua việc lập nên hệ thống lãi suất đặc biệt
khẩn cấp cho các khoản vay chính phủ bằng đồng yên được giải ngân sớm.
3- Tăng cường hỗ trợ phát triển nhân lực.
4- Trợ giúp cho các công ty con của Nhật Bản tại các nước này.
Người tiêu dùng Nhật Bản luôn tìm kiếm những hàng hoá chất lượng tốt và
với gía cả hợp lý. Với công ty, thị trường Nhật Bản là một thị trường cạnh tranh
khốc liệt với những chủng loại hàng hoá xuất xứ từ nhiều quốc gia Châu Á như
Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Việt Nam với chi phí thấp.
Để đáp ứng được những yêu cầu của khách hàng Nhật Bản về chất lượng sản
phẩm, màu sắc, kích cỡ, số lượng cũng như thời gian giao hàng. Các doanh nghiệp
may cần có những chính sách đồng bộ từ đầu tư đổi mới công nghệ; nghiên cứu
mẫu mã mới, màu sắc phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng; đổi mới quản lý doanh
nghiệp, tăng cường công tác quản trị chất lượng sản phẩm từ khâu nhập nguyên liệu
đầu vào đến khâu cung ứng đầu ra một cách có hiệu quả; đến đáp ứng nhanh nhất về
số lượng cũng như thời gian giao hàng bằng các phương tiên vận chuyển đường


22
biển, đường không.
Giá cả hàng may tại thị trường Nhật Bản: Với cuộc cạnh tranh giá cả gay gắt
trong khi chi phí sản xuất tăng do giá nguyên, nhiên, vật liệu, cước vận chuyển, phí
hải quan tăng đã làm cho giá thành sản phẩm của công ty tăng khá cao. Để có thể
chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này công ty một mặt phải không ngừng tìm cách
hạ giá thành sản phẩm, giảm tỷ lệ phế phẩm, phế liệu, tăng cường công tác quản lý
sản xuất. Mặt khác kiến nghị chính phủ có những chính sách về: phát triển nguồn

nguyên vật liệu trong nước đáp ứng được yêu cầu về số lượng cũng như chất lượng
cho các doanh nghiệp may xuất khẩu; hỗ trợ xuất khẩu, giảm thiểu các thủ tục hải
quan.
1.2. Các yếu tố tác động dến xuất khẩu hàng dệt may
1.2.1. Yếu tố khách quan
1.2.1.1. Yếu tố kinh tế
Các nhân tố thuộc môi trường kinh tế như tốc độ tăng trưởng kinh tế của
quốc gia, thu nhập bình quân trên đầu người, lạm phát, suy thoái kinh tế, các chính
sách vĩ mô của Chính phủ về thị trường tài chính tiền tệ, thị trường chứng khoán,
thu hút đầu tư, tỷ giá hối đoái...có tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu dệt may
của các quốc gia, trong đó có Việt Nam, các yếu tố thuộc môi trường kinh tế là
những dấu hiệu của một thị trường tiềm năng để DN định hướng xuất khẩu, hoặc có
thể là những dấu hiệu của một thị trường chứa đựng rủi ro DN cần phải thận trọng.
1.2.1.2. Yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế
Tiến trình hội nhập sâu rộng vào các tổ chức kinh tế quốc tế, VN tham gia ký
kết Hiệp định CPTPP, các hiệp định thương mại tự do (FTAs) song phương, đa
phương sẽ mang lại cho cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức
không nhỏ đối với các DN VN nói chung và DN dệt may VN nói riêng. Đối với mặt
hàng dệt may, trong đó có thời trang xuất khẩu của VN sẽ xóa bỏ hạn ngạch, thuế
quan; thu hút đầu tư của các ngành công nghiệp phụ trợ là cơ hội để thời trang VN
thâm nhập thị trường thế giới, tuy nhiên cũng là thách thức cho thời trang VN phải
tuân thủ thực thi cam kết các hiệp định mà VN đã tham gia ký kết.


23
1.2.1.3. Chính sách thuế quan,hạn ngạch và trợ cấp xuất khẩu
Thuế quan; các biện pháp hạn chế số lượng (giấy phép xuất khẩu); giám sát
ngoại hối; thủ tục hải quan. Các công cụ này ảnh hưởng gián tiếp đến hiệu quả xuất
khẩu. Chẳng hạn như: việc đánh thuế nhập khẩu cao các mặt hàng nguyên liệu phục
vụ sản xuất mặt hàng xuất khẩu hay thủ tục hải quan xuất khẩu và thủ tục hoàn thuế

rườm rà sẽ làm giảm hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp.
Hạn ngạch xuất khẩu: là những quy định của Chính phủ về số lượng cao nhất
của một mặt hàng được phép xuất khẩu từ thị trường nội địa trong một thời gian
nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép. Chính phủ đưa ra hạn ngạch nhằm bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực trong nước hoặc để điều tiết xuất khẩu một
cách thích hợp trên cơ sở lượng hay kim ngach xuất khẩu đã cam kết giữ nước xuất
khẩu và nước nhập khẩu.
1.2.1.4. Yếu tố vă hóa xã hội
Văn hoá được hiểu như một tổng thể phức tạp, bao gồm ngôn ngữ, tôn giáo,
nghệ thuật, đạo đức, thị hiếu, phong tục tập quán và tất cả các khả năng khác mà
con người có được. Văn hoá quy định hành vi của mỗi con người, thông qua mối
quan hệ giữa người với người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu. Vì
vậy, nếu nắm bắt được thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng, doanh nghiệp kinh
doanh có điều kiện mở rộng khối lượng cầu một cách nhanh chóng.
Tôn giáo có thể ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày của con người và do đó
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Ví dụ, thời gian mở cửa hoặc đóng cửa; ngày
nghỉ, kỳ nghỉ, lễ kỷ niệm...
1.2.1.5. Yếu tố chính trị pháp luật
Mọi DN tham gia hoạt động đều chịu ảnh hưởng bởi nhân tố pháp luật. Việc
phân tích các nhân tố của môi trường luật pháp buộc các các DN xuất khẩu phải
phân tích cả trên ba phương diện: môi trường của nước xuất khẩu, môi trường của
nước nhập khẩu và các thông lệ, tập quán KD quốc tế.


24
Các nhân tố môi trường luật pháp của nước chủ nhà (nước xuất khẩu), nước
sở tại (nước nhập khẩu) có ảnh hưởng đến hoạt động marketing, trong đó có hoạt
động truyền thông thương hiệu của các DN xuất khẩu thông qua việc tạo cơ hội
xuất, nhập khẩu, áp dụng các biện pháp bảo vệ xuất, nhập khẩu.

1.2.2. Yếu tố chủ quan
1.2.2.1. Năng lực của doanh nghiệp
Năng lực của DN là yếu tố quyết định tới khả năng vượt RCKT đối với hàng
DMXK. Các yếu tố cơ bản tạo ra năng lực của DN gồm:
-

Năng lực nghiên cứu và phát triển: khả năng phát triển sản phẩm mới, cải

tiến quy trình công nghệ…
-

Công nghệ sản xuất: máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, mức độ tự

động hóa…
-

Nguồn nhân lực: Cán bộ quản lý, điều hành sản xuất, công nhân, phục vụ…

-

Cơ sở hạ tầng: Mặt bằng sản xuất, nhà xưởng, giao thông nội bộ, điện nước,

hệ thống xử lý chất thải…
-

Tài chính: Nguồn vốn chủ sở hữu, cơ cấu vốn, khả năng huy động vốn…

Tùy thuộc vào từng lĩnh vực sản xuất cũng như chu kỳ kinh doanh của sản phẩm mà
vai trò và tác động của các yếu tố này có thể khác nhau. Đối với các DNDM, khi tập
trung phát triển thương hiệu/ mẫu mã mới, thì năng lực nghiên cứu phát triển có ý

nghĩa quyết định.
1.2.2.2. Uy tín, thương hiệu
Uy tín doanh nghiệp là một trong những tài sản vô hình của doanh nghiệp
trong cơ chế thị trưòng. Giá trị của nguồn tài sản này cao giúp doanh nghiệp tăng
khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường, tăng sản lượng xuất khẩu, doanh thu
tăng dẫn tới hiệu quả kinh doanh được nâng cao.
1.2.2.3. Trình độ quản lý
Một doanh nghiệp biết quản lý tốt sử dụng hợp lý nguồn lực nói chung và


25
nguồn nhân lực nói riêng, đồng thời biết phát huy tối đa năng lực kinh doanh hiện
có thì mới duy trì được hiệu quả kinh doanh xuất khẩu. Trình độ quản lý thể hiện ở
việc biết sử dụng con người đúng việc, đúng chỗ, phù hợp với khả năng tình độ
chuyên môn của từng người. Bên cạnh đó người chủ doanh nghiệp còn quan tâm
đến đời sống của người lao động, đến tâm tư, nguyện vọng của họ. Đồng thời còn
tạo ra mọi điều kiện để người lao động có điều kiện học hỏi nhằm nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của doanh
nghiệp.
1.2.2.4. Cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ
Doanh nghiệp nói chung, đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nói
riêng muốn mở rộng hoạt động kinh doanh phải cần vốn, vốn kinh doanh bao gồm
nguồn vốn chủ sở hữu và vốn đi vay. Khi có vốn doanh nghiệp sử dụng đầu tư các
phương án kinh doanh hiệu qủa. Việc sử dụng hợp lý nguồn vốn giúp doanh nghiệp
nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu. Đây là một nhân tố có vai trò chiến lược
trong kinh doanh xuất nhập khẩu.
1.2.2.5. Chất lượng sản phẩm
Xã hội càng phát triển, thu nhập ngày càng cao thì người mua càng có xu
hướng lựa chọn sản phẩm thời trang có chất lượng cao hơn là những sản phẩm có
giá rẻ. Cho đến nay, chất lượng luôn được coi là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến

PTTH sản phẩm thời trang XK của các DN may Việt Nam.
Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Một là, điều kiện kỹ thuật,
trình độ công nghệ SX, thể hiện trên chất liệu vải và kỹ thuật may. Hai là, CLSP
thời trang còn thể hiện ở tiêu chuẩn an toàn vệ sinh đối với người sử dụng như thấm
mồ hôi vào mùa hè, giữ được ấm trong mùa đông, sử dụng thoải mái, v.v...Ba là,
CLSP thời trang còn đòi hỏi phải phù hợp với thị trường.
1.3. Khái quát chung về Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương và nội dung về thương mại hàng dệt may
1.3.1. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương


×