Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Biện pháp tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN SONG THIẾT

BIỆN PHÁP TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN SONG THIẾT

BIỆN PHÁP TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ MAI

Hà Nội, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Biện pháp tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Song Thiết


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ........ 7
1.1. Khái niệm các biện pháp tạm giữ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam......... 7
1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc quy định và áp dụng biện pháp tạm giữ ........... 11
1.3. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ ................................................................. 15
1.4. Đối tượng, thẩm quyền, thủ tục, thời hạn tạm giữ ......................................... 22
Tiếu kết chương 1............................................................................................ 28
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN
PHÁP TẠM GIỮ VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG NINH ...................................................................................................... 28
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp
tạm giữ. .................................................................................................................... 29
2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp tạm giữ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh..... 46
Tiểu kết chương 2 .........................................................................................58
Chương 3: QUAN ĐIỂM, YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP
PHẦN NẦNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ ................................................................... 59

3.1. Quan điểm, yêu cầu nâng cao chất lượng biện pháp tạm giữ và bảo đảm
quyền con người trong áp dụng biện pháp tạm giữ.....................................59
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định các biện pháp
ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ........................................... 65
Tiểu kết chương 3..........................................................................................71
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

BPNC

: Biện pháp ngăn chặn

ĐTCTP

: Đấu tranh chống tội phạm

HĐXX

: Hội đồng xét xử


QPPL

: Quy phạm pháp luật

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

THTT

: Tiến hành tố tụng

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

TTTP&PL : Tương trợ tư pháp và pháp lý
VKS

: Viện kiểm sát

VKSND


: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh năm 2014 - 2018
Bảng 2.2: Tình hình áp dụng BPNC tại tỉnh Quảng Ninh năm 2014 - 2018
Bảng 2.3: Tình hình giải quyết Biện pháp tạm giữ tại tỉnh Quảng Ninh năm 2014 2018


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự (TTHS) thì các
biện pháp ngăn chặn (BPNC) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ các BPNC
nhằm giúp cơ quan tiến hành tố tụng có các điều kiện thuận lợi để giải quyết các vụ
việc, ngăn chặn kịp thời các hành vi phạm tội đang chuẩn bị thực hiện hoặc đang
xảy ra, góp phần đắc lực cho việc phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi phạm tội.
Trong số các BPNC, thì bắt, tạm giữ là những biện pháp pháp mang tính cưỡng chế
rất nghiêm khắc. Nếu bắt, tạm giữ oan, sai sẽ xâm phạm đến quyền tự do dân chủ
của công dân và các quyền, lợi ích hợp pháp của con người được pháp luật bảo hộ.
Ngược lại nếu không bắt, tạm giữ người phạm tội để người đó vẫn tự do ngoài
vòng pháp luật, tiếp tục gây án hoặc trốn tránh... gây khó khăn cho việc điều tra, xử
lý vụ án cũng làm thiệt hại đến quyền lợi của cộng đồng, của con người, làm giảm
lòng tin của nhân dân đối với nhà nước, làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan
điều tra, người tiến hành tố tụng.

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đất nước ta xóa bỏ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, xây dựng pháp luật có nhiều thành tích đáng kể. Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS) năm 1988 ra đời với các quy định về trình tự, thủ tục của công tác điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Việc bắt, tạm giữ, tạm giam đã được quy
định khá cụ thể. Trải qua quá trình thực hiện BLTTHS đã được sửa đổi, bổ sung
cho phù hợp với tình hình thực tế ở mỗi giai đoạn của lịch sử. Mặc dù pháp luật
quy định các trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam ngày càng cụ thể và hoàn thiện,
song thực tiễn áp dụng cho thấy tình hình vi phạm pháp luật về BPNC này vẫn khá
phổ biến. Đó là việc bắt, tạm giữ không đúng quy định, không đúng đối tượng,
không đúng thủ tục, sai thẩm quyền, lạm dụng việc bắt khẩn cấp, bắt quả tang, tạm
giữ thuộc vi phạm hành chính để áp dụng theo quy định của pháp luật TTHS... dẫn
đến nhiều trường hợp bắt, tạm giữ oan sai người dân vô tội. Một số vụ oan sai điển
hình trong đó có áp dụng BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam như vụ: Đỗ Cao Sen và
Trương Thị Liễu, Bùi Xuân Quang ở Trảng Bom, Đồng Nai [73], [74].
Việc xây dựng những quy phạm pháp luật (QPPL)về BPNC nói chung và biện
pháp tạm giữ nói riêng có tính khả thi và việc áp dụng chúng của cơ quan tiến hành
tố tụng và người có thẩm quyền chính xác, hợp lý, hợp tình thì mới có thể đạt được
mục đích của việc quy định và áp dụng biện pháp là ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa

1


các hành vi cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm thi hành án; qua
đó góp phần thực hiện được nhiệm vụ của pháp luật TTHS là chủ động phòng
ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện kịp thời, nhanh chóng, xử lý công minh mọi
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong khoa
học luật TTHS, chế định các BPNC vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách
thỏa đáng đối với tầm quan trọng của nó theo định hướng của Đảng ta và nhà nước
ta về việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng ngừa và ĐTCTP. Ví dụ,

dưới góc độ khoa học, nhiều vấn đề chưa được làm sáng tỏ để có quan điểm thống
nhất, đầy đủ và toàn diện, như: khái niệm BPNC, bản chất pháp lý, mục đích, căn
cứ áp dụng, căn cứ phân loại và những nguyên tắc áp dụng, thay thế, hủy bỏ các
BPNC nói chung và tạm giữ nói riêng; còn thiếu những tổng kết, đánh giá thực tiễn
áp dụng, thay thế, hủy bỏ chúng, giải quyết việc bồi thường thiệt hại cho người bị
oan do người có thẩm quyền TTHS gây ra, hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng. Các quy phạm về biện pháp tạm giữ không quy định căn cứ áp dụng; một số
quy phạm có nội dung mang tính chất đánh giá định tính nhưng không có văn bản
giải thích hướng dẫn áp dụng, v.v…
Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, biện pháp và thực tiễn áp dụng
biện pháp tạm giữ tại tỉnh Quảng Ninh nhằm đánh giá những mặt tích cực, hạn chế,
xác định những nguyên nhân tồn tại của chúng, trên cơ sở đó đưa ra phương hướng
hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện pháp tạm giữ, nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp này trong tình hình hiện nay không những có ý nghĩa lý luận, thực
tiễn quan trọng mà còn là vấn đề có tính cấp thiết. Với lý do trên, học viên lựa chọn
đề tài: “Biện pháp tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chế định các BPNC nói chung và biện pháp tạm giữ nói riêng có nhiều nội
dung phong phú và việc áp dụng chúng là vấn đề nhạy cảm. Bởi vì, chính các biện
pháp này là phương tiện ngăn chặn tội phạm có hiệu quả nhất và bảo đảm cho hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo đúng trình tự, thủ tục mà BLTTHS
quy định, nhưng chúng lại bị lạm dụng quá mức cần thiết. Đi đôi với việc áp dụng
các biện pháp đó, một số quyền và tự do cá nhân được ghi nhận trong Hiến pháp,
pháp luật sẽ bị hạn chế và có thể bị xâm hại. Bởi vậy, chế định này được nghiên
cứu ở nhiều góp độ và lát cắt khác nhau cả trong và ngoài nước. Ở Liên Xô trước
đây và Liên bang Nga sau này có rất nhiều tác giả nghiên cứu những biện pháp

2



cưỡng chế TTHS nói chung và các BPNC nói riêng, có thể kể đến một số nghiên
cứu như: V.M. Kornukov về "Các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự",
Nxb Đại học tổng hợp Saratov, 1978; I.L. Pêtrukhin về "Tự do cá nhân và cưỡng
chế trong tố tụng hình sự", Nxb Khoa học, Maxtcơva, 1985; Nhóm tác giả nghiên
cứu những vấn đề về các BPNC với mức độ chuyên sâu như: P.M. Đavưđôp về
"Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Xô viết", Tóm tắt luận án PTS,
Lenigrad, 1953; Iu.Đ. Livsix về "Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Xô
viết", Nxb Sách pháp lý, 1964; Z.D. Enhikeev về "Những vấn đề hiệu quả của các
biện pháp ngăn chặn tố tụng hình sự", Nxb Đại học tổng hợp Kazan, 1982; I.L
Trunov và L.K Trunova về "Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự", Nxb
Trung tâm pháp lý, Xankt - Peterburg, 2003; v.v… Những tác giả nêu trên đã
nghiên cứu nội dung các BPNC hay các biện pháp cưỡng chế theo pháp luật thực
định của nước cộng hòa thành viên hoặc của Liên Xô trước đây và Liên bang Nga
sau này. Riêng về các BPNC thì họ đã làm sáng tỏ các vấn đề sau: a) Khái niệm
BPNC; c) Căn cứ tố tụng áp dụng các BPNC; b) Chủ thể có quyền áp dụng các
BPNC; d) Mục đích và ý nghĩa áp dụng các BPNC; e) Bản chất pháp lý của BPNC
là tính cưỡng chế Nhà nước và phòng ngừa; g) Phân tích sự khác biệt giữa BPNC
và trách nhiệm hình sự (TNHS). Tuy nhiên, còn bỏ ngỏ một số nội dung ảnh hưởng
đến hiệu quả áp dụng như: a) Nguyên tắc áp dụng, thay thế, hủy bỏ các BPNC; b)
Căn cứ phân loại các BPNC theo ba tiêu chí: đối tượng tác động, việc cách ly ra
khỏi cộng đồng, sự phê chuẩn của Viện kiểm sát (VKS); v.v…
Ở trong nước, cho đến nay đã có nhiều công trình chuyên khảo nghiên cứu các
BPNC với phạm vi và mức độ khác nhau đáng chú ý như: Sách chuyên khảo: “Chế
định các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam- những vấn
đề lý luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn Trọng Phúc; Nhóm tác giả nghiên cứu nội
dung các BPNC và một số vấn đề có liên quan bảo đảm nâng cao hiệu áp dụng
gồm: TS.Nguyễn Vạn Nguyên về "Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng
cao hiệu quả của chúng", Nxb Công an nhân dân, 1995; Nhóm thứ hai nghiên cứu
đầy đủ các BPNC hoặc từng BPNC riêng lẻ gồm: ThS. Nguyễn Mai Bộ về "Một số

ý kiến về việc sửa đổi Chương V Bộ luật tố tụng hình sự về những biện pháp ngăn
chặn", đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/1998; TS. Nguyễn Duy
Thuân về "Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự - những vấn đề về lý
luận và thực tiễn", Nxb Công an nhân dân, 1999; “Một số vấn đề về biện pháp tạm
giữ trong tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Văn Cừ; bài “Về biện pháp tạm giữ

3


trong Bộ luật tố tụng hình sự” của tác giả Vũ Gia Lâm; bài “Tạm giữ- một biện
pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Mai Bộ; bài
“Một số vấn đề về quy định tạm giữ trong Bộ luật tố tụng hình sự” của tác giả
Nguyễn Văn Điệp(TL82). Ngoài ra, trong nhiều giáo trình, bình luận khoa học
đang sử dụng cho chương trình đào tạo đại học, sau đại học của các cơ sở đào tạo
luật học, nội dung các BPNC được nhiều tác giả phân tích làm rõ, như: Giáo trình
luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2001; Giáo trình luật
tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2006 do GS.TS Võ
Khánh Vinh chủ biên; Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam (Dùng cho hệ đào
tạo sau đại học), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003 do GS.TS Đỗ Ngọc Quang
chủ biên; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2007 của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên…
Những công trình trên đây mới chỉ dừng lại giải quyết một số nội dung hoặc
một phần trong chế định các BPNC hay một khối lượng kiến thức cơ bản trong một
mục của giáo trình Luật TTHS Việt Nam. Những tác giả đó đều lấy quy phạm về
các BPNC trong hai BLTTHS 1988 và 2003 làm đối tượng nghiên cứu, nhưng
tuyệt nhiên chưa đề cập đến quy phạm về bắt tạm giữ để dẫn độ được đề cập trong
các Hiệp định TTTP&PL mà Việt Nam đã ký kết với nước ngoài, cũng như việc
bồi thường thiệt hại, phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan do người có
thẩm quyền tố tụng áp dụng các BPNC gây ra được quy định tại Nghị quyết
388/NQ-UBTVQH và thực tiễn áp dụng, bên cạnh đó còn bỏ ngỏ những kiến nghị

tổng hợp, hệ thống đối với toàn bộ chế định các BPNC theo mục tiêu, định hướng,
quan điểm của Đảng ta được xác định tại Nghị quyết 48-NQ/TW và Nghị quyết 49NQ/TW.[22], [23], [65].
Bởi vậy, việc nghiên cứu chế định Biện pháp tạm giữ một cách sâu sắc, toàn
diện hơn nữa vẫn là vấn đề cần thiết mang tính thời sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề cụ thể của chế định biện pháp
tạm giữ và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Quảng Ninh, qua đó đánh giá những tồn tại,
nguyên nhân của chúng, đồng thời, đưa ra quan điểm, giải pháp hoàn thiện chế định
biện pháp đó trong pháp luật TTHS Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giữ;

4


- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật TTHS về biện pháp tạm giữ ở Việt
Nam hiện nay;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật TTHS về biện pháp tạm giữ
(trong giai đoạn từ năm 2014 đến nay);
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật TTHS về biện pháp
tạm giữ ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giữ tại địa bàn tỉnh
Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu biện pháp tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam dưới góc độ Luật tố tụng hình sự, không đề cập đến chế độ giam giữ

được quy định trong Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam.
Về thời gian, không gian: Luận văn khảo sát, đánh giá thực trạng áp dụng biện
pháp tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền tại tỉnh Quảng Ninh trong thời gian từ
năm 2014 - 2018.
5. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác - Lênin làm cơ sở khi tiến hành
nghiên cứu đề tài nhằm nghiên cứu đánh giá sự vật, hiện tượng nghiên cứu một
cách tổng thể, toàn diện, trong mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các yếu tố trong
bản thân đối tượng nghiên cứu và giữa đối tượng nghiên cứu với các sự vật, hiện
tượng khác, đồng thời phát hiện ra quy luật phát triển của đối tượng nghiên cứu
theo từng giai đoạn phát triển lịch sử.
Về phương pháp nghiên cứu cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp thống
kê, phân tích, đối chiếu, so sánh.....Đây là các phương pháp được sử dụng chủ yếu
trong quá trình đánh giá thực trạng của pháp luật TTHS về biện pháp tạm giữ trong
từng giai đoạn để cho thấy sự điều chỉnh của chính sách về nội dung nghiên cứu.
6. Ý nghĩa và giá trị đóng góp của đề tài
Nghiên cứu, đánh giá việc thực thi và áp dụng quy định của pháp luật TTHS
về Biện pháp tạm giữ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, qua đó góp phần làm phong
phú thêm lý luận về Biện pháp tạm giữ trong TTHS.

5


Bằng việc nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS về biện pháp tạm giữ tại
một địa bàn cụ thể, kết quả nghiên cứu sẽ có ý nghĩa thực tiễn đối với việc áp dụng
quy định của pháp luật TTHS về Biện pháp tạm giữ. Đề tài kỳ vọng sẽ là một tài
liệu tham khảo hữu ích trong học tập, nghiên cứu ở các cơ sở đào tạo chuyên ngành
Luật hình sự và tố tụng hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được cơ cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giữ.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp tạm
giữ và thực trạng áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Quan điểm, yêu cầu và một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của pháp luật về biện pháp tạm giữ.

6


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ
1.1. Khái niệm các biện pháp tạm giữ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1 Khái niệm biện pháp ngăn chặn
Bộ luật TTHS quy định một loạt các biện pháp cưỡng chế do cơ quan nhà
nước tiến hành nhằm thực hiện những mục đích tố tụng nhất định.
Căn cứ vào mục đích của chúng có thể phân loại các biện pháp cưỡng chế
thành các nhóm sau: (i) Nhóm biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thu thập và ghi
nhận chứng cứ (khám người, khám nơi ở, xem xét dấu vết...); (ii) Nhóm biện pháp
cưỡng chế để đảm bảo cho quá trình tố tụng được tiến hành bình thường và thuận
lợi (kê biên tài sản, áp giải bị can...); (iii) Các BPNC (bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm
đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm).
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế TTHS thì các BPNC chiếm vị trí đặc
biệt quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến thân thể, quyền con người, hạn chế một
số quyền nhân thân của công dân. Chính vì vậy mà BLTTHS đã dành một chương
riêng để quy định về các BPNC và BPCC. Để việc hiểu và thực hiện tốt các quy
định về BPNC, nhiều công trình, tài liệu, sách báo đã có những khái niệm khác
nhau về các BPNC.
• Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông của Nhà xuất bản "Sách pháp lý"
Matxcơva, 1973 giải thích rằng:

Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng hình sự do điều
tra viên, dự thẩm viên, kiểm sát viên và tòa án áp dụng đối với bị can (người bị tình
nghi) nếu có đủ căn cứ cho rằng bị can trốn tránh việc điều tra, dự thẩm hoặc trốn
tránh tòa án, cản trở việc xác minh sự thật về vụ án, hay sẽ tiếp tục hoạt động phạm
tội, cũng như để đảm bảo việc thi hành án [72, tr15].
Từ điển Luật học (2006) của nhà xuất bản tư pháp giải thích rằng:
Biện pháp ngăn chặn là: “Biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng hình sự áp dụng
khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp
khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của
họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản
trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [62, tr.69].
Tại Điều 109 BLTTHS 2015 hiện hành đã quy định các căn cứ áp dụng các
BPNC như sau: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người

7


bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm
tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi
khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
Các căn cứ này cũng đã phản ánh một phần bản chất của của các BPNC của
pháp luật TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, BPNC là biện pháp cưỡng chế tố tụng rất
nghiêm khắc, đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng về chủ thể áp dụng, về thẩm
quyền áp dụng, về đối tượng bị áp dụng, về căn cứ và mục đích áp dụng để từ đó
mới có thể hiểu một cách thấu đáo và vận dụng đúng đắn vào thực tiễn.
Cuốn “Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự” của Viện nghiên cứu
Nhà nước và Pháp luật (năm 1994) lại giải thích rằng BPNC là một loại biện pháp
do cơ quan điều tra, VKS và Tòa án áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội,

đối với bị can, bị cáo và cả người bị kết án khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng
những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
hoặc tiếp tục phạm tội. BPNC gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú,
bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [63, tr.502].
Giáo trình luật TTHS Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, cho rằng: BPNC là
biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng với bị can bị cáo, người bị truy nã
hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang) nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ
tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều
tra truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [60, tr.227].
Có thể nói rằng, các tài liệu nêu trên đã nêu lên được khía cạnh này hay khía
cạnh khác khái niệm về các BPNC, nhưng nhìn chung vẫn chưa đưa ra được một
khái niệm đầy đủ, khoa học chứa đựng tất cả các yếu tố cấu thành nên BPNC thể
hiện ở các dấu hiệu đặc trưng như căn cứ áp dụng, mục đích, thẩm quyền áp dụng
và đối tượng bị áp dụng BPNC. Theo quan điểm của học viên một khái niệm chính
xác và hoàn chỉnh về các BPNC thì khái niệm đó phải có tất cả các dấu hiệu đặc
trưng của các BPNC như: Chủ thể áp dụng, căn cứ áp dụng; mục đích áp dụng;
thẩm quyển áp dụng và đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn.

8


Tổng hợp từ những quy định của BLTTHS và một số khái niệm nêu trên,
qua phân tích có thể đưa ra khái niệm BPNC như sau: Biện pháp ngăn chặn là biện
pháp cưỡng chế do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người liên quan đến việc thực hiện tội
phạm chưa bị khởi tố khi có căn cứ áp dụng nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục
phạm tội.
1.1.2. Khái niệm biện pháp tạm giữ

Xuất phát từ đặc trưng của quan hệ xã hội là đối tượng điều chỉnh của luật
TTHS, đó là những quan hệ xã hội luôn có một bên là các cơ quan nhà nước có
trách nhiệm và quyền hạn giải quyết các vụ án hình sự, mặt khác, tội phạm là hành
vi nguy hiểm không chỉ cho riêng một cá nhân nào mà là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, nguy hiểm cho lợi ích chung của cộng đồng; do vậy trong TTHS, các cơ quan
có thẩm quyền có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế để tác động tới đối
tượng. Đặc điểm chung của các BPCC là sự tác động một chiều không phụ thuộc
vào ý chí của bên bị tác động xuất phát từ những căn cứ và điều kiện được pháp
luật qui định. Tùy thuộc vào mục đích áp dụng, đối tượng áp dụng hoặc những tiêu
chuẩn khác mà các nhà làm luật phân chia các biện pháp cưỡng chế thành những
nhóm khác nhau và trong mỗi nhóm lại có những biện pháp cụ thể khác nhau với
những trình tự, thủ tục áp dụng khác nhau. Như đã phân tích tại phần đầu 1.1.1 của
luận văn, chúng ta thấy có hai nhóm các biện pháp cưỡng chế sau đây: nhóm các
BPNC và nhóm các biện pháp điều tra. Cũng cần chú ý rằng trong TTHS không chỉ
bao gồm các biện pháp cưỡng chế mà trong đó còn có những hoạt động không có
tính cưỡng chế mà mang tính bình đẳng, ví dụ như hoạt động tranh tụng tại tòa.
Những biện pháp cưỡng chế điều tra có mục đích nhằm thu thập các chứng cứ của
vụ án làm căn cứ xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội, ví dụ như biện pháp khám xét có thể áp dụng đối với khám người, khám đồ vật,
thư tín, khám chỗ ở địa điểm hoặc như biện pháp kê biên tài sản, tạm giữ đồ vật, tài
liệu v.v... Theo Điều 109 BLTTHS 2015 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
nhóm các BPNC bao gồm các biện pháp sau đây: bắt (bao gồm bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người bị truy nã và bắt

9


bị can bị cáo để tạm giữ, tạm giam); cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc
tài sản bảo đảm.
Trong các quy định của BLTTHS năm 1988, năm BLTTHS 2003 và

BLTTHS năm 2015 đều không có quy phạm định nghĩa về khái niệm tạm giữ. Tuy
nhiên, khoản 1 Điều 48 BLTTHS năm 2003 và khoản 1 Điều 59 BLTTHS năm
2015 đã chính thức ghi nhận về mặt pháp lý khái niệm người bị tạm giữ, theo đó:
“Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang,
người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với
họ đã có quyết định tạm giữ” (khoản 1 Điều 48 BLTTHS năm 2003)[46]; “Người
bị tạm giữ là bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội
quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối
với họ đã có quyết định tạm giữ” (khoản 1, Điều 59 BLTTHS năm 2015) [47, tr
27].
Trong khoa học luật TTHS có một số quan điểm về khái niệm tạm giữ, cụ
thể như sau: (i) Trong Luật số 103/SL-005 ngày 20/5/1957 về bảo đảm quyền tự do
thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở của dân, theo đó “cơ quan tư
pháp huyện hoặc công an huyện tạm giữ can phạm trong thời hạn ba ngày kể từ lúc
nhận can phạm để xét và hỏi cung, rồi phải quyết định tha hẳn, tạm tha hoặc giải
lên tòa án nhân dân hoặc công an cấp trên”; (ii) Trong Điều 68 và Điều 69
BLTTHS năm 1988 cho rằng “Tạm giữ là một trong những BPNC của TTHS do cơ
quan điều tra áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc trường
hợp phạm tội quả tang”[3. tr,55]; (iii) Tạm giữ là việc cơ quan có thẩm quyền
quyết định tước tự do với thời hạn ngắn đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn
cấp hoặc trường hợp phạm tội quả tang nhằm thu thập thêm chứng cứ để đi tới
quyết định khởi tố hay không khởi tố bị can [63. tr, 512]. Có thể khẳng định các
quan điểm trên đều có hạt nhân hợp lý trong thực tế TTHS, trên cơ sở kế thừa
những yếu tố hợp lý trong các quan điểm trên, đồng thời theo quy định của
BLTTHS năm 2015 về biện pháp tạm giữ, có thể đưa ra khái niệm tạm giữ như sau:
“Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan hoặc người có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng, tạm thời hạn chế tự do thân thể
trong thời hạn luật định đối với người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, người
bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối


10


với người bị bắt theo quyết định truy nã nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn hành
vi cản trở hoạt động điều tra của người bị tạm giữ hoặc bảo đảm cho Cơ quan điều
tra có thời gian tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu, trên cơ sở đó ra các
quyết định khởi tố bị can, tạm giam, áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hoặc
trả tự do cho đương sự”
1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc quy định và áp dụng biện pháp tạm giữ
Để giải quyết một vụ án hình sự, các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (VKS),
Tòa án phải tiến hành nhiều hành vi tố tụng khác nhau nhằm thu thập chứng cứ
chứng minh tội phạm và người phạm tội; áp dụng hình phạt và buộc người đã thực
hiện hành vi phạm tội phải chịu hình phạt hoặc các chế tài pháp lý khác. Quá trình
này không chỉ đòi hỏi các hoạt động tích cực của Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán mà còn là những hoạt động của những người tham gia tố tụng khác
như: người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự, bị can, bị cáo, người bị
hại, người làm chứng... với những quyền và nghĩa vụ nhất định khi tham gia tố
tụng. Tuy nhiên, không phải bao giờ bị can, bị cáo hoặc những người bị nghi là
thực hiện hành vi phạm tội (thuật ngữ này dùng để chỉ những người bị bắt trong
trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) cũng thực hiện nghĩa vụ của mình
một cách tự giác; nhiều trường hợp họ cố tình trốn tránh hoặc gây cản trở cho các
hoạt động tố tụng. Vì vậy, để ngăn chặn và phòng ngừa họ không thực hiện nghĩa
vụ, việc pháp luật quy định và cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng, những người
tiến hành tố tụng, những người khác theo luật định được áp dụng Biện pháp tạm
giữ trong những trường hợp nhất định, đối với những đối tượng nhất định là hết sức
cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa
tội phạm ở nước ta.
1.2.1. Mục đích
Qua khái niệm về tạm giữ ở mục 1.1.1 có thể khẳng định mục đích của việc
áp dụng biện pháp tạm giữ đối với bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt

người trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú là để
ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra
của người bị tạm giữ, tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyển có đủ thời gian để
xác định tính chất, mức độ của hành vi; nhân thân của người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội để từ đó có thể quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án

11


hình sự, khởi tố bị can hoặc các quyết định pháp lý cần thiết khác như: tạm giam,
áp dụng các BPNC khác hay trả tự do cho người đã bị bắt v.v...Tạm giữ đối với
người bị bắt theo quyết định truy nã là để có thời gian hoàn thành thủ tục chuyển
giao đối tượng bị truy nã giữa cơ quan điều tra nhận người bị bắt và Cơ quan điều
tra thụ lý vụ án đã ra lệnh truy nã.
1.2.2. Ý nghĩa
Biện pháp tạm giữ trong TTHS có tác dụng ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn
việc cản trở công tác điều tra, bảo đảm cho quá trình điều tra theo thời hạn luật định
có ý nghĩa to lớn trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, được thể hiện
thông qua các khía cạnh sau:
- Việc quy định và áp dụng biện pháp tạm giữ thể hiện sự cưỡng chế của
Nhà nước trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm
Bất kỳ tội phạm nào đều gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho
những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Tội phạm xâm phạm và làm
ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
của chế độ XHCN, xâm phạm các quyền của công dân và chế độ nhà nước mà nhà
nước bảo hộ, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Điều 18, BLTTHS năm 2015 xác định: “Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội
phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do Bộ luật này
quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội. Không

được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy
định”
Tạm giữ không phải là hình phạt và không có mục đích trấn áp, trừng trị
những người bị áp dụng. Tuy vậy, việc áp dụng quy định này sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền tự do cá nhân. Người bị áp dụng BPNC này bị cách ly với xã hội
trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền công dân như quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại để cơ quan điều tra tiến hành các hoạt
động điều tra ban đầu, thu thập tài liệu, chứng cứ làm căn cứ đề ra quyết định khởi
tố hay không khởi tố, trả tự do cho người bị tạm giữ
Các quy định và áp dụng các quy phạm mang tính nhân đạo của pháp luật đối
với người bị tạm giữ như: Khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ

12


quan điều tra phải trả tự do cho người bị tạm giữ (Khoản 3, Điều 87 BLTTHS năm
2003), trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì Viện Kiểm sát phải trả tự do ngay cho
người bị tạm giữ (Khoản 3, Điều 118 BLTTHS năm 2015). Đối với người chưa
thành niên đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì
có thể bị tạm giữ nếu có căn cứ nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, còn đối với người đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có đủ căn cứ nhưng chỉ trong trường hợp
phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng (Điều 419, BLTTHS năm 2015). Bộ luật còn quy định việc chăm lo
người thân thích và bảo quản tài sản của người bị tạm giữ: Khi người bị tạm giữ có
con chưa thành niên dưới mười bốn tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật,
già yếu không có người chăm sóc thì cơ quan ra quyết định tạm giữ giao những
người đó cho người thân thích chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ
không có người thân thích thì cơ quan quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao
những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom (90). Trong trường hợp người bị

tạm giữ có nhà hoặc tài sản khác mà không có người chăm nom, bảo quản thì cơ
quan ra quyết định tạm giữ phải áp dụng những biện pháp bảo quản thích đáng
(khoản 1, 2, Điều 120 BLTTHS năm 2015).
Mọi vi phạm pháp luật về tạm giữ đều bị xử lý và có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn giam, giữ người trái pháp luật.
Khoản 5, Điều 31, Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh “Người bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi
thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự...”. Thực thi quy định
của Hiến pháp năm 2013, Điều 10 - Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định
“… việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người
phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm việc tra tấn, bức cung, dùng nhục
hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe
của con người”. Bên cạnh đó, Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định
người bị tạm giữ, tạm giam “có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác
bào chữa”. Ngoài ra, để đảm bảo tính nghiêm minh pháp luật, luật cũng quy định
“… cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện
quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của mình.

13


Người vi phạm pháp luật trong việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt,
giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì tuỳ tính chất, mức độ vi
phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
luật” (Điều 17 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
- Việc quy định và áp dụng đúng biện pháp tạm giữ là góp phần bảo đảm và
tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp
Kế thừa các quy định của Hiến pháp 1992, Điều 14 Hiến pháp nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội

được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong hiến pháp
và luật”. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm,…”;
“Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang...”
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, BLTTHS năm 2015 quy định các
nguyên tắc: Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp
pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi
những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết
(Điều 8 BLTTHS năm 2015); mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không
phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết
định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp
phạm tội quả tang. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người (Điều
9, Điều 10 BLTTHS năm 2015). Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
tài sản của công dân, cá nhân, theo đó mọi người (cả người bị tạm giữ) có quyền
được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi
hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của cá nhân đều bị xử lý theo pháp luật (Điều 11 BLTTHS năm 2015). Thực hiện
các quy định trên, cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng Biện pháp tạm giữ phải

14


đối xử với người bị áp dụng biện pháp tạm giữ như một người bình thường. Ngoài
ra, phải kịp thời thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giữ theo đúng quy định theo
nguyên tắc tôn trọng quyền con người và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân.

Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là một nguyên tắc quan
trọng trong TTHS của nhà nước ta. Đáp ứng và bảo đảm yêu cầu đầy đủ các quyền
dân chủ cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định đó là quyền bình đẳng
trước pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, danh dự và tài sản.
Đối với người bị tạm giữ trong các giai đoạn tố tụng BLTTHS đều quy định
việc trả lại tự do hoặc thay đổi bằng BPNC khác nếu thấy rằng những việc đó
không cần thiết nữa.
Biện pháp tạm giữ không chỉ thể hiện tính cưỡng chế của Nhà nước đối với
người có hành vi xâm hại các quyền của công dân mà còn là một phương tiện hữu
hiệu để bảo vệ các quyền đó khi nó có nguy cơ bị xâm hại hoặc đang bị xâm hại.
Biện pháp tạm giữ tuy hạn chế một số quyền của công dân nhưng mặt khác lại bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân
khác.
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do nhân dân, vì nhân dân nên những hoạt
động của Nhà nước không nhằm mục đích nào khác là phục vụ quyền lợi của nhân
dân lao động. Bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa là một chế độ dân chủ trong đó
các quyền của công dân được tôn trọng, pháp luật bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Pháp luật XHCN không cho phép một hành vi trái pháp luật
nào xâm phạm đến các quyền và lợi ích của công dân dù đó là hành vi của cơ quan
Nhà nước hay những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định về tạm giữ là nhiệm vụ của
cơ quan tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng không những tự mình phải
tuân theo các quy định của BLTTHS mà còn phải kịp thời ngăn chặn mọi vi phạm
pháp luật của những người tiến hành tố tụng. Mọi hành vi trái với quy định của
pháp luật về việc áp dụng Biện pháp tạm giữ đều bị xử lý nghiêm khắc, có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 157, BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm
2017) về tội bắt, giữ, giam người trái pháp luật.
1.3. Cơ sở quy định biện pháp tạm giữ và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ


15


Trong hoạt động lập pháp các quy định về Biện pháp tạm giữ được quy định
trong quá khá nhiều văn bản khác nhau của Nhà nước ta, xuất phát từ cơ sở quy
định biện pháp tạm giữ và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ.
* Cơ sở quy định biện pháp tạm giữ, dựa trên năm yếu tố sau:
Thứ nhất: Dựa trên quy định của Hiến pháp Việt Nam
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 và các
Hiến pháp tiếp theo (1959, 1980, 1992, 2013) đã quy định những nền tảng cơ bản
cho việc quy định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Điều 14 Hiến pháp nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 đã khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp luật”. Điều 20, Hiến pháp 2013 cũng quy định: Mọi người có quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị
bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của
Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ
người do luật định.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Nhà nước ta đã quy định các biện
pháp ngăn chặn cụ thể. Ví dụ: Việc bắt giam được quy định trong Sắc luật số 103
ngày 20/5/1957 “Về bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối
với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân”; Sắc luật số 002 ngày 18/6/1957 quy định
về những trường hợp phạm pháp quả tang và những trường hợp khẩn cấp. Xuất
phát từ các quy định của Hiến pháp mà các Bộ luật tố tụng hình sự 1988, 2003,
2915 cũng như một số văn bản pháp luật khác đã chi tiết hóa các quy định của Hiến
pháp thành các điều luật cụ thể cũng như các hướng dẫn thực hiện các quy định luật
về các biện pháp ngăn chặn.

Thứ hai: Dựa trên các quy định của Bộ luật hình sự
Bộ luật hình sự thứ nhất của Nhà nước ta được Quốc hội khóa VII thông qua
ngày 25/6/1985 đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm ở nước ta trong suốt một thời kỳ lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Sự ra đời của BLHS 1985, tiếp đến BLTTHS 1999 đã đánh

16


dấu một bước phát triển cao của pháp luật hình sự nói riêng và hệ thống pháp luật
Việt Nam nói chung. Do yêu cầu phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới BLHS
mới (2015, sửa đổi bổ sung 2017) ra đời. Đây là BLHS thứ ba của nhà nước ta. Bộ
luật này đã có những thay đổi rất lớn kể cả về số lượng điều khoản cũng như những
nội dung mới được quy định trong Bộ luật. Đây là Bộ luật lớn có tầm quan trọng
đặc biệt trong giai đoạn phát triển mới của đất nước ở thời điểm hiện tại, cũng như
sẽ phát huy tác dụng tích cực lâu dài trong tương lai phát triển của đất nước ta.
Luật hình sự là luật nội dung, luật TTHS là luật hình thức. Qua mỗi lần các
quy phạm của luật hình sự được sửa đổi, bổ sung thì các quy phạm của luật tố tụng
hình sự cũng được sửa đổi, bổ sung cho tương ứng với các quy phạm đó. Sự ra đời
của BLHS 1999, với những thay đổi đòi hỏi các quy phạm của pháp luật tố tụng
hình sự cũng phải thay đổi cho phù hợp; chính vì vậy BLTTHS 2003 đã được ra
đời. Sự ra đời của BLHS 2015, với rất nhiều sự thay đổi trong các quy định ở Phần
chung và Phần riêng, đòi hỏi các quy phạm của pháp luật tố tụng hình sự cũng phải
thay đổi cho phù hợp. Chính vì vậy, BLTTHS 2015 đã được ra đời, với rất nhiều
sửa đổi, bổ sung, thêm mới trong quy định về trình tự, thủ tục của việc khởi tố, điều
tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự nói chung và về Biện pháp tạm giữ nói riêng.
Thứ ba, Dựa trên các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự
Các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS là kim chỉ nam cho việc quy định và
thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự. Chính vì vậy, trong việc quy định về các
BPNC, các nhà lập pháp luôn căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản như: Nguyên tắc

tôn trọng và bảo vệ quyền cơ bản của công dân; nguyên tắc đảm bảo quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của công dân; nguyên tắc không ai có quyền bị coi là có tội
nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án; nguyên tắc đảm bảo
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; nguyên tắc bảo đảm quyền
được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan và
nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra v.v...
Thứ tư: Dựa vào chủ trương đường lối của Đảng trong từng thời kỳ cách
mạng
Có thể nói rằng, trong bất cứ chế độ xã hội nào, nếu còn có hành vi nguy
hiểm xảy ra như chống chính quyền, lật đổ, cướp của, giết người v.v... thì các biện

17


pháp trừng phạt, ngăn ngừa tất yếu được áp dụng, trong đó Biện pháp tạm giữ được
sử dụng như một công cụ của việc ngăn ngừa, phòng và chống các hành vi nguy
hiểm đó. Ở nước ta, việc quy định và sử dụng biện pháp tạm giữ trong từng thời kỳ
và trong từng thời điểm cách mạng có sự vận dụng khác nhau
Giai đoạn trước khi có BLTTHS theo từng thời kỳ để ngăn chặn các hành vi
nguy hiểm cho xã hội, Đảng và Nhà nước có chủ trương áp dụng các biện pháp
cưỡng chế đối với đối tượng phạm pháp hoặc bị nghi là phạm pháp. Chủ trương đó
được thể hiện bằng các quy định về việc bắt, tạm giữ và tạm giam, ví dụ như: Điều
2 Sắc luật 002-SL ngày 18/6/1957 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
và Điều 3 Sắc luật 02-SL ngày 15/3/1976 của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam, cũng đã quy định sáu trường hợp được bắt khẩn cấp đó
là: Có hành động chuẩn bị làm việc phạm pháp; người bị hại hoặc người có mặt tại
nơi xảy ra vụ phạm pháp chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là kẻ phạm pháp;
tìm thấy chứng cứ phạm pháp trong người hoặc tại nhà ở của người bị tình nghi
phạm pháp; có hành động chuẩn bị trốn hoặc đang trốn; có hành động chuẩn bị tiêu

hủy chứng cứ, làm giả chứng cứ, có sự thông đồng giữa kẻ phạm pháp với nhau để
trốn tránh pháp luật; căn cước lai lịch không rõ ràng.
Có thể nói rằng, trước khi BLTTHS được ban hành, thì các quy định sau đây
đã có những tác dụng to lớn trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
trong một thời gian dài. Tuy nhiên, do sự phát triển của xã hội, các quan hệ xã hội ở
có nhiều thay đổi. Trước tình hình mới nảy sinh đó, các quy định về những trường
hợp tạm giữ cũng đã bộc lộ những sơ hở nhất định (như sự thiếu chặt chẽ, tính chưa
cụ thể trong các quy định của pháp luật...). Cho nên dễ dẫn đến tình trạng quá lạm
dụng tạm giữ gây nên những ảnh hưởng không tốt trong dư luận quần chúng nhân
dân. Tình trạng đó đã làm cho các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm
hại, nó đi ngược lại những lợi ích của việc tăng cường pháp chế XHCN mà Đảng
và Nhà nước ta đã và đang đặc biệt quan tâm.
Sau ngày miền Bắc giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn dân bước
vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, quyền dân chủ được phát huy.
Ngày 28/6/1988 Quốc hội khóa VIII nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thông qua BLTTHS, tiếp đến là BLTTHS 2003. Có thể nói rằng, sau khi có
BLTTHS 1988, sau đó là BLTTHS 2003 các chủ trương, đường lối của Đảng về

18


các hoạt động tố tụng hình sự nói chung và về việc tạm giữ nói riêng đã được pháp
điển hóa thành những quy định trong một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao,
những quy định này đã đóng góp một phần vô cùng quan trọng trong cuộc đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm, góp phần đắc lực cho các hoạt động điều tra
khám phá và xử lý tội phạm trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, cùng với công
cuộc cải cách kinh tế, cải cách hành chính, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy
mạnh cải cách tư pháp. Nhiều quan điểm, định hướng về cải cách tư pháp đã được
thể hiện trong các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong

thời gian tới”, trong đó có việc chỉ đạo, điều chỉnh các hoạt động bắt, tạm giữ, tạm
giam là một trong những nội dung quan trọng và cấp thiết, cũng như trong Chỉ thị
53/CT-TW ngày 21/3/2000 của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số
công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000 đã nêu
“... việc bắt, giam phải được xem xét, phê chuẩn đối với từng trường hợp, từng đối
tượng cụ thể; đối với trường hợp bắt, giam cũng được hoặc không bắt, giam cũng
được thì không bắt, giam”, và chủ trương hạn chế việc bắt, giữ, giam này đã được
pháp luật hóa bằng các quy định luật về các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam của
BLTTHS 2015.
Thứ năm: Xuất phát từ yêu cầu công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
trên thực tiễn của cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, có có nơi, có lúc
đã lạm dụng việc áp dụng biện pháp tạm giữ trong điều tra các vụ án hình sự,
nguyên nhân do áp lực về thành tích, thời gian khám phát vụ án, một phần cũng do
sự am hiểu pháp luật còn hạn chế của điều tra viên, bên cạnh đó còn có nguyên
nhân chủ quan vì lợi ích cá nhân của một bộ phận cán bộ điều tra, kiểm sát viên gây
bức xúc, bất bình trong dư luận nhân dân, nhất là việc áp dụng biện pháp bắt người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Do vậy đã có thời điểm việc bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp không đúng đối tượng, chứng cứ để làm căn cứ áp dụng
biện pháp tạm giữ không đầy đủ, non chứng cứ, cá biệt có trường hợp chứng cứ để
áp dụng làm căn cứ tạm giữ không đúng, không khách quan, dẫn đến oan sai, gây
khiếu nại, phản ứng của người bị giữ, thân nhân gia đình họ và quần chúng nhân
dân. Vấn đề đặt ra ở đây là, nếu cơ quan điều tra không áp dụng biện pháp tạm giữ,

19


×