Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật nước ngoài của Tòa án Việt nam. Nguyên nhân của thực trạng đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.22 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Trang

1
1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Để điều chỉnh và giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế, một trong các cách phổ
biến là quốc gia xây dựng các quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật của mình
và trong các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Việc áp dụng các quy
phạm xung đột cũng đồng nghĩa với việc quốc gia đó thừa nhận và cho phép áp dụng
luật nước ngoài và tất nhiên đây là một đòi hỏi thực tế khách quan đáp ứng việc củng
cố, tăng cường và mở rộng quan hệ đa phương, đa diện của quốc gia với nước
ngoài.Tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau, vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài vẫn là
một thách thức đối với Toà án Việt Nam và những quy định của pháp luật về vấn đề
này vẫn chưa phát huy hiệu quả trong thực tiễn xét xử. Trong tiến trình hội nhập nền
kinh tế quốc tế ở mức độ cao hơn và sâu sắc hơn, nếu những bất cập trong vấn đề áp
dụng pháp luật nước ngoài khi Toà án xét xử những vụ việc dân sự có yếu tố nước
ngoài vẫn còn tồn tại thì sẽ gây những trở ngại không nhỏ cho các chủ thể có liên
quan. Vô hình trung sẽ ảnh hưởng đến môi trường pháp lý thuận lợi mà Việt Nam đang
xây dựng nhằm thu hút nhiều hơn nữa những chủ thể nước ngoài tham gia.Để tìm hiểu
vấn đề đó, em xin lựa chọn đề bài số 21: “Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật
nước ngoài của Tòa án Việt nam. Nguyên nhân của thực trạng đó”, làm nội dung
bài tập học kỳ.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm ADPL nước ngoài
Theo nguyên lý chung, ADPL dân sự là hoạt động của những cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định nhằm cá biệt hoá các quy


phạm pháp luật dân sự vào những trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ
thể hoặc nhằm xác định rõ quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên hoặc của người thứ ba
có liên quan khi giải quyết các tranh chấp dân sự[4]. Như vậy, thông qua hoạt động
ADPL của các chủ thể có thẩm quyền, các quy phạm pháp luật dân sự mới điều chỉnh
các quan hệ xã hội, thực hiện sự tác động lên hành vi của các chủ thể quan hệ pháp
luật dân sự và thông qua đó, tác động lên các quan hệ xã hội. ADPL dân sự là một giai
đoạn quan trọng trong quá trình biến các quy phạm pháp luật dân sự thành thực tế 1.
Như vậy: Áp dụng pháp luật nước ngoài trong Tư pháp quốc tế là việc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam tiến hành áp dụng luật nước ngoài để giải quyết
các tranh chấp, yêu cầu hay những xung đột giữa các chủ thể có yếu tố nước ngoài tại
Việt Nam.
1 ngày truy cập 20/10/2019
2
2


2. Sự cần thiết áp dụng pháp luật nước ngoài
Trong xu thế toàn cầu hóa và tăng cường hợp tác, các quốc gia cùng nhau thỏa
thuận để ban hành nên các quy phạm xung đột giúp giải quyết xung đột pháp luật, do
đó, các quốc gia phải thực hiện các cam kết của mình một cách tận tâm, thiện chí. Nếu
quốc gia nào thiếu thân thiện trong việc thực hiện các cam kết thì chính quốc gia đó sẽ
bị giảm sút uy tín cũng như ảnh hưởng xấu tới việc thiết lập quan hệ hợp tác với các
quốc gia khác trên trường quốc tế2.
Với mục đích tối đa hoá một cách hợp lý những lợi ích vật chất hoặc giá trị tinh
thần, cá nhân, tổ chức kinh tế cần phải xác lập các giao dịch vượt ra ngoài phạm vi
biên giới quốc gia; các quan hệ dân sự (nói chung) vượt ra ngoài phạm vi biên giới
quốc gia nếu phát sinh tranh chấp thì có thể chịu sự tài phán của nhiều quốc gia. Trong
phạm vi quốc gia, sau khi được xác lập hoặc hình thành, các quan hệ dân sự thường có
sự phát triển dẫn đến sự thay đổi và chấm dứt. Việc thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ do
các bên tham gia thoả thuận và định đoạt bởi một hoặc cả hai bên, tuỳ thuộc vào quan

hệ hoặc nội dung thoả thuận mà có thể yêu cầu Trọng tài hoặc Toà án quốc gia giải
quyết. Khi các quan hệ không còn chỉ tồn tại trong phạm vi quốc gia nữa, xuất phát từ
nguyên tắc chủ quyền quốc gia, nghĩa vụ của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, các quốc gia, bằng việc ban hành luật quốc nội và ký kết
hoặc tham gia các điều ước quốc tế để xác định thẩm quyền cho Toà án của quốc gia
mình.
Trước hết, việc áp dụng pháp luật nước ngoài xuất phát từ đòi hỏi của thực tế
khách quan. Yếu tố nước ngoài ở đây là một trong ba yếu tố: chủ thể (hai bên không
cùng quốc tịch hoặc ít nhất một bên là người Việt Nam định cư ở nước ngoài); khách
thể của quan hệ ở nước ngoài; căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ xảy ra ở
nước ngoài.
Khi xuất hiện quan hệ tư pháp quốc tế thì hiện tượng xung đột pháp luật sẽ xảy ra
vì khi đó hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh.
Việc thừa nhận khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài hay không, áp dụng pháp luật
nước ngoài nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể nào hoàn toàn thuộc về chủ
quyền của các quốc gia. Tuy nhiên, trong xu hướng hiện nay, với mục đích tăng cường,
củng cố và thúc đẩy sự phát triển bền vững các mối quan hệ quốc tế, hầu hết các quốc
gia đều thừa nhận khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài. Hơn nữa, quan hệ Tư pháp
quốc tế với bản chất là quan hệ dân sự nên một trong những nguyên tắc điển hình đó là
tôn trọng sự thỏa thuận.
2 ngày truy cập 20/10/2019
3
3


Do vậy nếu áp đặt việc áp đặt phải áp dụng pháp luật của quốc gia thì sẽ không
dung hòa được lợi ích của các quốc gia có liên quan. Điều này giúp điều chỉnh quan hệ
tư pháp quốc tế được khách quan và công bằng hơn, đảm bảo tốt nhất lợi ích của công
dân tham gia quan hệ dân sự quốc tế. Đồng thời, việc áp dụng pháp luật nước ngoài
đảm bảo sự ổn định, củng cố và phát triển hợp tác về mọi mặt trong giao lưu dân sự

giữa các quốc gia vì sự thịnh vượng chung của cả thế giới; đáp ứng việc củng cố, tăng
cường và mở rộng quan hệ đa phương, đa diện của quốc gia với nước ngoài.
3. Các trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài
Khi quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật một nước, dù đó là pháp luật
Việt Nam hay pháp luật nước ngoài thì về cơ bản cơ quan có thẩm quyền của Việt
Nam sẽ áp dụng pháp luật của nước được dẫn chiếu đến. Nếu quy phạm xung đột dẫn
chiếu tới áp dụng pháp luật Việt Nam thì cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đương
nhiên áp dụng pháp luật Việt Nam và việc áp dụng này không gây khó khăn cho cơ
quan áp dụng. Nhưng nếu luật nước ngoài được dẫn chiếu đến thì có nhiều vấn đề cần
xem xét hơn, bởi pháp luật nước ngoài là một hệ thống pháp luật khác biệt so với Việt
Nam. Một trong những câu hỏi cần giải đáp là liệu luật nước ngoài sẽ được áp dụng
trong những trường hợp nào, có phải chỉ khi quy phạm xung đột dẫn chiếu đến hay
còn các trường hợp khác?
Luật nước ngoài sẽ được áp dụng trong các trường hợp sau đây:
- Các bên được pháp luật cho phép lựa chọn pháp luật áp dụng và đã lựa chọn
pháp luật nước ngoài, khi đó pháp luật nước ngoài được áp dụng. Chú ý sự cho phép
các bên lựa chọn pháp luật áp dụng có thể được quy định tại quy phạm xung đột thống
nhất cũng có thể được quy định tại quy phạm xung đột thông thường.
- Quy phạm xung đột thống nhất trong điều ước quốc tế dẫn chiếu đến pháp
luật nước ngoài.
- Quy phạm xung đột thông thường dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài.
- Khi quy phạm xung đột xác định áp dụng pháp luật nước có mối liên hệ gắn
bó nhất, và trong trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền xác định pháp luật nước
ngoài chính là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất.

4
4


Ngoài các trường hợp trên pháp luật nước ngoài không được áp dụng trong

trường hợp nào nữa.
4. Các yêu cầu về điều kiện khi áp dụng pháp luật nước ngoài
Điều kiện để pháp luật nước ngoài được áp dụng tại Việt Nam được ghi nhận tại
Điều 664, 668, 670 BLDS 2015. Với các quy định này, nhìn chung pháp luật nước
ngoài sẽ được áp dụng tại Việt Nam nếu thoã mãn hai điều kiện sau đây:
Thứ nhất, pháp luật nước ngoài chỉ được áp dụng trong những trường hợp
được pháp luật quy định. Cụ thể là pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng khi Điều ước
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam có
quy định; hoặc pháp luật nước ngoài được áp dụng nếu Điều ước quốc tế mà Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam có quy định các bên có
quyền lựa chọn pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Đây
được xem là điều kiện tiên quyết để Toà án xem xét việc áp dụng pháp luật nước ngoài
trong một vụ việc cụ thể. Mặc dù việc chấp nhận áp dụng pháp luật nước ngoài hay
không, chấp nhận áp dụng đối với những quan hệ nào, hoàn toàn thuộc chủ quyền của
quốc gia. Tuy nhiên, cơ quan có thẩm quyền của quốc gia, cụ thể ở đây là Toà án,
không thể áp dụng một cách tuỳ tiện cũng như từ chối áp dụng một cách tuỳ tiện.
Như vậy, với quy định trên có thể khẳng định rằng pháp luật nước ngoài chỉ có
thể được áp dụng tại Việt Nam nếu thuộc 1 trong 3 trường hợp: (i) quy phạm xung đột
trong Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định áp dụng pháp luật nước
ngoài (ii) quy phạm xung đột trong pháp luật Việt Nam quy định áp dụng pháp luật
nước ngoài (iii) các bên thoả thuận lựa chọn pháp luật nước ngoài.
Thứ hai, pháp luật nước ngoài chỉ được áp dụng nếu thỏa mãn điều kiện nếu
hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài không được trái với các nguyên tắc cơ
bản của pháp luật Việt Nam. Đây là điều kiện quan trọng nhằm bảo vệ nguyên tắc cơ
bản của quốc gia có Toà án không bị ảnh hưởng bởi pháp luật nước ngoài.
Bên cạnh điểm tiến bộ của BLDS 2015 trong cách quy định về điều kiện này,
vẫn tồn tại những điểm chưa đồng nhất trong cách quy định của các văn bản pháp luật
Việt Nam.
Cụ thể, khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại 2005 quy định: “Các bên trong giao
dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài,

5
5


tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế
đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.”; hay khoản 3 Điều 5
Bộ luật Hàng hải 2015 quy định: “luật nước ngoài có thể được áp dụng tại Việt Nam
đối với quan hệ hợp đồng liên quan đến hoạt động hàng hải, nếu luật đó không trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”.
Thông qua những điều luật trên có thể thấy điều kiện áp dụng pháp luật nước
ngoài thứ hai này được thể hiện dưới nhiều hình thức và cách quy định khác nhau ở
mỗi văn bản pháp luật. Ở BLDS 2015, điều kiện được ghi nhận là hậu quả của việc áp
dụng pháp luật nước ngoài không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam, thế nhưng một số văn bản pháp luật chuyên ngành khác lại khẳng định luật nước
ngoài chỉ được áp dụng nếu bản thân nội dung pháp luật nước ngoài đó không trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
5. Xác định luật nước ngoài
Bản chất của việc áp dụng pháp luật nước ngoài là quá trình Toà án của quốc
gia vận dụng, áp dụng các quy phạm pháp luật cụ thể trong hệ thống pháp luật của một
quốc gia khác hoặc các tiểu bang, vùng lãnh thổ của quốc gia khác để giải quyết một
quan hệ hay một vấn đề pháp lý cụ thể trong Tư pháp quốc tế. Như vậy, quá trình này
phải được tiến hành theo những nguyên tắc nhất định nhằm thể hiện sự tôn trọng hệ
thống pháp luật của quốc gia nước ngoài. Toà án không thể áp dụng pháp luật nước
ngoài một cách tuỳ tiện theo cách hiểu hay theo cách giải thích của bản thân mình,
điều này sẽ làm sai lệch bản chất và phần nào làm ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của
pháp luật nước ngoài.
Những văn bản pháp luật của Việt Nam trước đây đều chưa ghi nhận những nguyên tắc
cũng như những quy định cụ thể đối với việc áp dụng pháp luật nước ngoài của Toà
án. Đây là một trong những trở ngại lớn khi Toà án giải quyết những vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, khuyết điểm này đã được khắc

phục bằng những quy định cụ thể của BLDS 2015 và BLTTDS 2015.
Về trách nhiệm xác định và cung cấp pháp luật nước ngoài: Quy định tại Điều
481 BLTTDS 2015 là một quy định hoàn toàn mới trong Tư pháp quốc tế Việt Nam.
Quy định này đã xác định rõ trách nhiệm của đương sự cũng như các cơ quan
Nhà nước trong việc cung cấp và xác định pháp luật nước ngoài. Theo đó, trong
trường hợp các đương sự lựa chọn pháp luật nước ngoài để áp dụng thì nghĩa vụ cung
6
6


cấp pháp luật nước ngoài cho Toà án giải quyết vụ việc dân sự thuộc về các bên. Các
đương sự phải chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp pháp của pháp luật nước
ngoài đã cung cấp. Trong trường hợp này, các cơ quan Nhà nước như Bộ Tư pháp, Bộ
Ngoại giao, cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài
chỉ có trách nhiệm cung cấp pháp luật nước ngoài khi được Tòa án Việt Nam yêu cầu.
Ngược lại, trong trường hợp pháp luật nước ngoài cần được áp dụng theo sự chỉ
dẫn của quy phạm xung đột trong pháp luật Việt Nam hoặc trong Điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên thì việc cung cấp pháp luật nước ngoài là quyền chứ không
phải nghĩa vụ của các đương sự. Trong trường hợp này, Toà án có quyền yêu cầu các
cơ quan chức năng của Việt Nam cung cấp pháp luật nước ngoài. Toà án cũng có thể
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có chuyên môn về pháp luật nước ngoài cung cấp
thông tin về pháp luật nước ngoài. Tuy nhiên, thông qua điều luật này có thể thấy pháp
luật Việt Nam không trực tiếp quy định về trách nhiệm của Toà án Việt Nam trong việc
tìm kiếm và xác định nội dung pháp luật nước ngoài. Điều này có thể sẽ là một kẽ hở
dẫn đến việc Toà án bỏ qua việc áp dụng pháp luật nước ngoài khi giải quyết các tranh
chấp về hợp đồng thương mại quốc tế.
 Về cách thức xác định nội dung pháp luật nước ngoài:

(i) Trường hợp pháp luật nước ngoài được áp dụng nhưng có cách hiểu khác
nhau

Liên quan đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài nhưng có nhiều cách hiểu khác nhau,
Điều 667 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp pháp luật nước ngoài được áp dụng
nhưng có cách hiểu khác nhau thì việc áp dụng phải theo sự giải thích của cơ quan có
thẩm quyền tại nước đó”. Đây là quy định hoàn toàn mới so với BLDS 2005 và là một
quy định hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài. Việc Toà án
áp dụng pháp luật nước ngoài cần phải tuân thủ theo đúng cách thức, tinh thần giải
thích, áp dụng những quy định pháp luật đó tại chính quốc gia nơi nó được ban hành.
Toà án Việt Nam khi áp dụng pháp luật nước ngoài không được tuỳ tiện giải thích
những quy định của pháp luật nước ngoài theo nguyên tắc pháp luật Việt Nam.
Điều đó có nghĩa là cơ quan có thẩm quyền không thể dùng tư duy pháp lý,
cách thức giải thích, cách thức áp dụng của luật quốc gia mình để giải thích và áp dụng
pháp luật nước ngoài. Đây là nguyên tắc chung được thừa nhận rộng rãi ở các nước.
Khi Toà án của mỗi nước áp dụng pháp luật nước ngoài mà áp dụng theo cách hiểu
riêng của mình thì sẽ dẫn đến hệ quả là pháp luật nước ngoài không được áp dụng một
7
7


cách thống nhất, không bảo đảm giá trị của pháp luật. Vì vậy nguyên tắc này ràng buộc
Toà án của các nước dù trong hoàn cảnh, điều kiện nào, ở quốc gia nào thì việc áp
dụng một hệ thống pháp luật nào đó phải luôn cho ra một kết quả giống như pháp luật
đó được áp dụng tại quốc gia đã ban hành. Nhằm khẳng định nguyên tắc này, W.
Goldschmidt, học giả người Đức đã nhận xét “Nếu đối với pháp luật quốc gia, thẩm
phán tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật với tư cách là một kiến trúc sư, thì
đối với pháp luật nước ngoài, thẩm phán chỉ là một nhiếp ảnh gia. Thẩm phán áp dụng
pháp luật quốc gia và dập khuôn pháp luật nước ngoài.”
(ii)Trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài có nhiều hệ thống pháp luật
Trong quá trình áp dụng pháp luật nước ngoài, Toà án có thể gặp tình trạng quy
phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài nhưng tại quốc gia có hệ thống
pháp luật nước ngoài đó tồn tại các hệ thống pháp luật khác nhau. Việc xác định hệ

thống pháp luật nào được áp dụng cần tuân theo nguyên tắc xác định pháp luật do
chính quốc gia nước ngoài đó quy định. Vấn đề này được ghi nhận tại Điều 669 BLDS
2015 “Trường hợp pháp luật của nước có nhiều hệ thống pháp luật được dẫn chiếu đến
thì pháp luật áp dụng được xác định theo nguyên tắc do pháp luật nước đó quy định.”
Đây là một quy định mới được đưa vào BLDS 2015 và là quy định phù hợp với Tư
pháp quốc tế của nhiều nước
6. Thứ tự áp dụng luật
Điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế có thể bằng nhiều phương pháp và có thể
có nhiều hệ thống pháp luật tham gia, vì vậy cần phải nắm rõ thứ tự áp dụng pháp luật
theo các bước sau:
Bước 1: Áp dụng quy phạm thực chất thống nhất.
Bước 2: Áp dụng quy phạm xung đột thống nhất.
Nếu quy phạm cho chọn luật áp dụng và đương sự chọn luật áp dụng là pháp
luật nước nào thì luật nước đó sẽ được áp dụng.
Nếu quy phạm cho chọn mà đương sự không chọn hoặc quy phạm không cho
chọn thì sẽ áp dụng pháp luật nước được xác định bởi quy phạm.

8
8


Bước 3: Áp dụng quy phạm thực chất thông thường.
Bước 4: Áp dụng quy phạm xung đột thông thường,
Nếu quy phạm cho chọn luật áp dụng và đương sự lựa chọn luật áp dụng là
pháp luật nước nào thì luật nước đó sẽ được áp dụng.
Nếu quy phạm cho chọn mà đương sự không chọn hoặc quy phạm không cho
chọn thì sẽ áp dụng pháp luật nước được xác định bởi quy phạm.
Bước 5: Áp dụng pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất (có thể cả tập
quán hoặc tương tự pháp luật, án lệ hoặc lẽ công bằng).
Cần lưu ý các bước sau chỉ được áp dụng khi các bước trước không thể thực hiện

được3.
II. THỰC TIỄN VẤN ĐỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI CỦA
TÒA ÁN VIỆT NAM
1. Phân tích thực tiễn
Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đang là
vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới hiện nay. Chính đặc điểm này tạo ra sự liên kết và
phụ thuộc lẫn nhau càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Điều đó cũng đồng nghĩa
rằng việc áp dụng pháp luật nước ngoài là một nhu cầu khách quan không thể tránh
khỏi ở tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, nhằm bảo
vệ các quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự và thúc đẩy giao lưu dân sự phát
triển. Thời gian qua, cùng với sự phát triển của các giao lưu dân sự, thương mại, đầu
tư, lao động,... giữa nước ta với cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước trong khu vực,
số lượng các vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài được các tòa án Việt Nam thụ lý giải
quyết cũng gia tăng.
Trong thời gian qua,Việt Nam đã tham gia kí kết 23 Hiệp định tương trợ tư
pháp về dân sự và các lĩnh vực có liên quan trong đó có một số quy định nhằm quy
định cụ thể hơn việc áp dụng pháp luật nước ngoài.
Việt Nam cũng đã ban hành các văn bản pháp luật trong đó có những quy định
rõ ràng các trường hợp áp dụng pháp luật nước ngoài như Bộ luật dân sự 2015 (Điều
667), Luật thương mại 2005 (Điều 5), Luật hôn nhân và gia đình năm 2014,..
3 Hứog dẫn môn học Tư pháp quốc tế, TS. Vũ Thị Phương Lan, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2017, Trang 34

9
9


Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết các
quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam của các Tòa án và
trọng tài Việt Nam là rất hãn hữu và do vậy nên kinh nghiệm của Tòa án, trọng tài
ViệtNam trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết các quan hệ dân sự

theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài là gần như chưa có. Mặc dù việc áp dụng pháp
luật nước ngoài trên cơ sở dẫn chiếu của quy phạm xung đột có thể bảo vệ tốt hơn
quyền và lợi ích chính đáng của các bên nhưng thực tế, khi có vụ việc dân sự liên quan
đến các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài xảy ra, nếu các bên
không có thỏa thuận gì về pháp luật điều chỉnh thì tòa án Việt Nam có xu hướng chung
là áp dụng pháp luật luôn pháp luật Việt Nam để giải quyết. Thậm chí, có trường hợp
tòa án Việt Nam thụ lý nhưng liên quan đến một vấn đề được điều chỉnh bởi pháp luật
nước ngoài thì lại từ chối thẩm quyền giải quyết
Ví dụ: Vụ việc tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh từ chối thẩm quyền
giải quyết vụ tranh chấp xảy ra giữa Công ty Kolon (Hàn Quốc) và công ty Vinafood
(Việt Nam) về vấn đề bồi thường liên quan đến hợp đồng mua bán một số lượng phân
bón, xuất xứ Hoa Kỳ giữa hai công ty xảy ra cách đây khá lâu. Đúng như trước đó tác
giả Nguyễn Công Khanh trong một bài đăng của mình trên tạp chí Dân chủ và pháp
luật đã nói: “Tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam khi giải
quyết những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, thường chỉ áp dụng pháp luật
Việt Nam, hầu như rất hãn hữu, nếu không muốn nói là chưa bao giờ áp dụng
pháp luật nước ngoài, mặc dù đã được quy phạm xung đột dẫn chiếu”. Hay tại hội
thảo “Một số vấn đề thực tiễn về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản trong Tư pháp
quốc tế”, thẩm phán Ngô Thị Minh Ngọc đã thừa nhận “Chúng tôi chưa bao giờ áp
dụng pháp luật nước ngoài khi giải quyết tranh chấp dân sự hay ly hôn”.
Mặc dù việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết các vụ việc dân sự theo
nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài là một trong những hoạt động diễn ra từ rất lâu và rất
phổ biến trên thế giới, và mặc dù pháp luật Việt Nam đã có rất nhiều quy định cho
phép áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết những vụ việc dân sự theo nghĩa rộng
có yếu tố nước ngoài trong những trường hợp nhất định với những nguyên tắc nhất
định nhưng đây vẫn là một hoạt động hoàn toàn mới mẻ đối với các tòa án. Mới mẻ ở
đây không phải vì thực tế ở Việt Nam không có vụ án nào đòi hỏi phải áp dụng pháp
luật nước ngoài để giải quyết, và chúng ta cũng không thể nói rằng trong lĩnh vực này,
các quy định của pháp luật đã đi trước thực tiễn, mà thực tế là việc các tòa án, trọng tài
Việt Nam áp dụng pháp luật nước ngoài trong quá trình giải quyết một vụ án là rất hãn

10
10


hữu, do đó, việc tích lũy kinh nghiệm hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài để giải
quyết vụ việc dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài là hoàn toàn chưa có.
Việc áp dụng pháp luật nước ngoài ở các Toà án nước ta hiện nay đang là vấn
đề có nhiều tranh cãi. Vấn đề đặt ra là việc Toà án nhân dân Việt Nam không áp dụng
pháp luật nước ngoài khi có yêu cầu phải áp dụng thì có phải là Toà án đó đã vi phạm
pháp luật không? Có ý kiến cho rằng, đối với những trường hợp mà quy phạm xung
đột pháp luật cho phép các bên chọn pháp luật nước này hay nước kia để điều chỉnh
quan hệ của họ và họ đã chọn pháp luật nước ngoài nhưng khi toà án áp dụng pháp
luật Việt Nam, họ không có phản ứng gì thì toà án không vi phạm pháp luật. Ở đây,
chúng ta coi như các đương sự từ bỏ pháp luật nước ngoài và ngầm chọn pháp luật
Việt Nam.
Theo quan điểm của em, việc toà án không áp dụng pháp luật nước ngoài khi
quy phạm xung đột dẫn chiếu tới là toà án đã vi phạm pháp luật. Như đã phân tích ở
trên, việc một quốc gia có cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài hay không hoàn
toàn phụ thuộc vào ý chí của quốc gia đó, xuất phát từ yêu cầu của mỗi quốc gia trong
quá trình bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như pháp nhân của
nước mình, của chính bản thân mình trong giao lưu dân sự quốc tế. Nhưng khi việc áp
dụng pháp luật nước ngoài đã được ghi nhận trong pháp luật quốc gia thì quốc gia đó
cần phải tuân thủ những quy định đó. Không thể tự mình xây dựng luật rồi lại tự mình
vi phạm luật. Trong thời đại ngày nay, khi mà chúng ta đang tiến tới xây dựng một nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì đây là điều cần phải khắc phục kịp thời.
Trong thực tiễn xét xử, các tòa án Việt Nam hầu như chưa áp dụng pháp luật
nước ngoài để giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, việc xem
xét nội dung pháp luật nước ngoài cũng chưa được đặt ra trong thực tiễn xét xử.
2. Những nguyên nhân
a) Nguyên nhân chủ quan

Pháp luật Việt Nam đã có quy định về vấn đề này nhưng các quy định đó mới
chỉ dừng lại ở mức độ chung, mang tính khái quát, thường dưới dạng:” theo quy định
của Chính phủ”. Và sau khi các quy định trong các luật, bộ luật.. được ban hành lại
còn cần chờ được hướng dẫn thi hành bởi các nghị quyết, thông tư...thì mới có thể
được thi hành trên thực tế. Đồng nghĩa rằng phải mất rất nhiều thời gian để các quy
định về việc áp dụng pháp luật nước ngoài này được ban hành và hướng dẫn thi hành
để áp dụng được trên thực tế, trong khi các quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng
11
11


có yếu tố nước ngoài diễn ra ngày càng phổ biến trên thực tế và đòi hỏi phải được giải
quyết nhanh chóng và kịp thời. Chưa kể đến việc các quy định đã được ban hành còn
có thể có tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, trong cùng một vấn đề nhưng lại có nhiều
văn bản pháp luật khác nhau cùng quy định. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, chủ
thể.4
Ví dụ: 1 công ty mang quốc tịch Anh (có trụ sở ở Anh) kí hợp đồng với một
công ty mang quốc tịch Việt nam (trụ sở ở Việt Nam). Trong hợp đồng thỏa thuận pháp
luật áp dụng cho nội dung hợp đồng là pháp luật Mỹ. Giả định rằng giữa Việt Nam và
Anh có một điều ước quốc tế về vấn đề này trong đó quy định đối với hợp đồng giữa
thương nhân hai nước thì luật áp dụng để giải quyết cho nội dung hợp đồng là pháp
luật nước ký kết có tòa án thụ lý vụ việc. Vậy thì trong trường hợp này, việc thỏa thuận
giữa hai bên là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam nhưng nó lại
trái với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (với quy định của điều ước | thì rõ
ràng không cho phép các bên thỏa thuận về lựa chọn pháp luật).

b) Nguyên nhân khách quan
Giả sử chúng ta tham gia vào công ước 1980 về mua bán hàng hóa CISG, thì
những bất lợi mà chúng ta có thể gặp phải đó là gì?
- Về kinh tế: trong giao dịch buôn bán quốc tế, mỗi ngành mỗi lĩnh vực đều có

những điều khoản hợp đồng chuẩn đặc thù ví dụ mua bán dầu, gạo, hoa quả tươi… và
các doanh nghiệp không muốn từ bỏ những điều khoản đã được sử dụng rộng rãi và
quen thuộc này. Do đó cho dù Việt Nam có gia nhập CISG thì Công ước này cũng
không thể điều chỉnh tất cả các hợp đồng mua bán quốc tế trong đó có Việt Nam tham
gia. Hơn nữa việc áp dụng CISG cũng còn hạn chế trong quan hệ buôn bán giữa các
doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp của các nước chưa tham gia công ước.
- Những rào cản về pháp lý: nội dung Công ước Viên còn khá mới mẻ đối với
hệ thống xây dựng pháp luật, tư pháp và trọng tài ở Việt Nam, vì vậy các bên Việt
Nam (doanh nghiệp, tòa án, trọng tài) cần có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu, hiểu
rõ khi áp dụng CISG trong các quan hệ giao dịch thương mại quốc tế. Hiện nay tại
Việt Nam có rất ít nghiên cứu chuyên sâu về nội dung CISG cũng như thực tiễn áp
dụng CISG trên thế giới để áp dụng tại Việt Nam. Thêm vào đó: trong hệ thống giáo
dục pháp luật của Việt Nam nói chung (ngoại trừ một số rất ít trường đại học chuyên
ngành luật, hợp tác với nước ngoài) cũng chưa có nội dung nào giới thiệu, đào tạo
4 ngày truy cập 20/10/2010

12
12


chuyên sâu về CISG. Các doanh nghiệp, nhà thực hành luật Việt Nam cũng chưa có
diễn đàn nào riêng để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm về CISG như tại nhiều nước khác
trên thế giới. Điều này cũng sẽ làm giảm sức mạnh, tiếng nói của các doanh nghiệp
Việt Nam, và khả năng xét xử tòa án, trọng tài tại Việt Nam khi có tranh chấp liên
quan đến CISG5.
3. Một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện, nâng cao việc áp dụng pháp luật
nước ngoài của Tòa án Việt Nam
Trên cơ sở phân tích quy định của pháp luật Việt Nam em xin kiến nghị đưa ra
một số định hướng sau đây nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam, tạo điều
kiện cho pháp luật Việt Nam được áp dụng trên thực tiễn.

Thứ nhất, tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực về cung cấp pháp
luật nước ngoài
Giải pháp này được tác giả đề xuất dựa trên sự tham khảo và phân tích mô hình
của các nước Liên minh Châu Âu thông qua Công ước Liên minh Châu Âu về cung
cấp thông tin pháp luật nước ngoài. Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh Việt Nam
vừa gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN (gọi tắt là AEC). Mặc dù AEC thực chất chưa
thể được coi là một cộng đồng kinh tế gắn kết như Cộng đồng Châu Âu, bởi AEC
không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và những điều lệ, quy định có tính chất ràng buộc
cao và rõ ràng như EC, tuy nhiên AEC vẫn mở ra cơ hội cho các nước thành viên trong
khu vực có thể thiết lập những thoả thuận hợp tác pháp lý, cụ thể là liên quan đến việc
cung cấp thông tin pháp luật nước ngoài.
Nói đến áp dụng pháp luật nước ngoài cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài nói chung, trở ngại lớn nhất cho các cơ quan có thẩm quyền là việc tiếp cận và
giải thích nội dung pháp luật nước ngoài. Rào cản về ngôn ngữ, về chính sách pháp
luật, tư duy lập pháp… của các nước đã tạo nên rất nhiều khó khăn cho các chủ thể áp
dụng pháp luật. Đây là thực trạng không phải chỉ tồn tại trong Tư pháp quốc tế Việt
Nam mà còn cả ở các nước phát triển trên thế giới. Vì vậy, nếu có thể xây dựng được
một cơ chế cung cấp, trao đổi thông tin pháp luật nước ngoài giữa các nước thành viên
AEC sẽ là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục những khó khăn đang tồn tại đối với
các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Thứ hai, hoàn thiện yếu tố con người trong quá trình thực thi pháp luật
5 ngày truy cập
20/10/2019
13
13


Đây là nhóm giải pháp mang tính bổ trợ, không trực tiếp liên quan đến các quy
định của pháp luật tuy nhiên theo tác giả, nếu các giải pháp bổ trợ này được triển khai
hiệu quả cũng sẽ giúp cho các quy định pháp luật liên quan đến việc áp dụng pháp luật

nước ngoài đi vào thực tiễn dễ dàng hơn.
(i) Cần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ trong ngành Toà án, cụ thể là các
thẩm phán. Như tác giả đã đề cập, thực trạng những quan hệ hợp đồng thương mại
quốc tế hầu như không được giải quyết theo đúng những nguyên tắc của Tư pháp quốc
tế, xuất phát rất nhiều từ sự hạn chế năng lực của các thẩm phán.
(ii) Bộ Tư pháp phối hợp cùng các cơ quan, tổ chức hoặc các cơ sở giáo dục
thường xuyên tổ chức các Hội thảo quốc tế với sự tham gia của các chuyên gia, các
học giả nước ngoài uy tín trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế để cập nhật những thông tin
về pháp luật nước ngoài, thực tiễn xét xử của Toà án nước ngoài cho các luật gia, các
luật sư, cũng như những đối tượng nghiên cứu pháp luật khác. Thực tiễn xét xử của
Toà án các nước cho thấy, trong quá trình xác định nội dung pháp luật nước ngoài, Toà
án có thể nhận sự hỗ trợ rất hiệu quả từ phía các chuyên gia nghiên cứu pháp luật. Do
đó, việc đẩy mạnh công tác trang bị kiến thức pháp luật nước ngoài cho nhóm đối
tượng này cũng là một giải pháp cần thiết.
(iii) Các cơ sở đào tạo pháp luật cần chú trọng đầu tư việc giảng dạy Tư pháp
quốc tế cho người học ở mọi cấp độ. Mục tiêu này có thể được đẩy mạnh bằng cách
cho người học tiếp cận với pháp luật nước ngoài thông qua phương pháp học bằng tình
huống, vụ việc (case study). Những nguyên tắc nền tảng của Tư pháp quốc tế và những
kiến thức về pháp luật nước ngoài được củng cố cho sinh viên luật ngay từ trong giảng
đường sẽ giúp ích rất nhiều khi họ phải đối mặt với những vụ việc dân sự có yếu tố
nước ngoài trên thực tế6.
Thứ tư về nguồn xác định nội dung pháp luật nước ngoài, pháp luật nên cho
phép tòa án được sử dụng tất cả các nguồn thông tin để tra cứu, tìm hiểu nội dung của
pháp luật nước ngoài. Nhưng tòa án phải chịu trách nhiệm vệ mức độ tin cậy và chính
xác của các nguồn thông tin này. Trong tương lai, cũng cần khuyến khích tòa án Việt
Nam hợp tác với các tòa án nước ngoài trong việc trao đổi thông tin pháp luật và thực
tiễn xét xử, cũng như hỗ trợ nhau đào tạo kiến thức pháp luật cho thẩm phán. Về lâu
dài, việc Việt Nam tham gia các điều ước quốc tế song phương và đa phương về tương
6 />14
14



trợ thông tin pháp luật nước ngoài sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thẩm phán trong việc
xác định nội dung pháp luật nước ngoài7.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Pháp luật nước ngoài không thực sự quen thuộc với thẩm phán. Tuy nhiên
không vì lý đó mà tòa án lẩn tránh việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Khi vấn đề áp
dụng pháp luật nước ngoài được đặt ra (do đương sự hoặc chính tòa án khởi xướng),
tòa án phải trả lời câu hỏi nội dung pháp luật nước ngoài được xác định như thế nào, ai
chịu trách nhiệm xác định nội dung của pháp luật nước ngoài và nếu nội dung pháp
luật nước ngoài không được xác định thì hậu quả pháp lý như thế nào. Trong điều kiện
kinh tế xã hội hiện đại, nền kinh tế của một quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu
tố trực tiếp và gián tiếp của các quan hệ kinh tế quốc tế.

7 ngày truy cập 20/10/2019
15
15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Tư

pháp , Hà Nội, năm 2017
2. Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, PGS.TS. Hoàng Thế Liên (chủ

biên), Bình luật khoa học Bộ luật dân sự năm 2005 (tập III), Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, năm 2013
3. TS. Đỗ Văn Đại & PGS.TS. Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam – Quan


hệ dân sự, lao động, thương mại có yếu tố nước ngoài (sách chuyên khảo), Nhà
xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2010
4. Theo học thuyết pháp luật, pháp luật nước ngoài được thừa nhận là pháp luật và

tòa án phải áp dụng mà không cần có sự đề xuất và chứng minh bởi đương sự.
Tòa án phải tự mình xác định nội dung của pháp luật nước ngoài.
5. Theo học thuyết này thẩm phán thực tế biết hoặc buộc phải biết luật mà họ

được đào tạo trong các trường đại học luật La Mã và tra cứu trong các văn bản
qui phạm pháp luật. (Xem Stephen L. Sass, Foreign law in civil litigation: a
comparative survey, The American Journal of Comparative Law, [Vol. 16;
1968], tr. 332 – 371, tr. 349)

16
16



×