Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC AN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ TỘI “VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ” TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN QUỐC AN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ TỘI “VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ” TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG

HÀ NỘI, 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Quốc An


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN VỀ TỘI VI
PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ .......... 6
1.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi THQCT trong giai đoạn điều tra vụ
án về tội VPQĐVTGGTĐB ........................................................................ 6
1.2. Nội dung THQCT trong giai đoạn điều tra đối với vụ án vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ .............................................. 14
1.3. Phân biệt THQCT và kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra vụ
án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ................. 15
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN VỀ TỘI “VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ” VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH
QUẢNG NINH............................................................................................... 17
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra vụ án về tội “Vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ”................................................................................ 17

2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án
về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” tại tỉnh
Quảng Ninh ............................................................................................... 23
Chương 3: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN VỀ TỘI “VI PHẠM
QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ” ................... 38


3.1. Các yếu tố tác động đến chất lượng thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra vụ án về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ”........................................................................................ 38
3.2. Các yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra vụ án về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ”........................................................................................ 42
3.3. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra vụ án về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ ......................................................................................... 49
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS 2015: Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
BLHS 1999: BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự 2015
CQĐT : Cơ quan điều tra
ĐTV : Điều tra viên
KSV : Kiểm sát viên
THQCT: Thực hành quyền công tố

KSĐT : Kiểm sát điều tra
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện Kiểm sát nhân dân
VPQĐVTGGTĐB : Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
VPQĐVĐKPTGTĐB : Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Tổng hợp số vụ án hình sự vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ giai đoạn năm 2014-2018 ........................................... 24
Bảng 2.2. Tổng hợp số liệu điều tra vụ án hình sự vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ qua giai đoạn năm 2014-2018 ............. 27
Bảng 2.3. Số liệu THQCT về khởi tố vụ án hình sự vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ qua giai đoạn năm 2014-2018 ............. 27
Biểu 2.4. Số liệu hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn sự trong các vụ án vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ qua giai đoạn năm
2014-2018 ............................................................................................. 28


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 30 năm đổi mới nền kinh tế đất nước ngày càng tham gia hội
nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, kinh tế xã hội của đất nước đã đạt
thành tựu tích cực, nguồn lực đầu tư xã hội ngày càng lớn, hạ tầng giao thông
ngày càng khang trang hiện đại phục vụ tốt cho phát triển kinh tế, xã hội. Bên
cạnh đó cũng phát sinh với nhiều mặt trái tiêu cực trên các lĩnh vực khác
nhau. Trong đó tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là tội
phạm trong lĩnh vực giao thông. Số vụ tai nạn gây thiệt hại lớn đặc biệt
nghiêm trọng về người và tài sản có chiều hướng gia tăng. Do vậy, vấn đề này

luôn thu hút sự quan tâm, chú ý của Đảng, Nhà nước các cấp, các ngành từ
Trung ương tới địa phương, nhiệm vụ đảm bảo an toàn giao thông luôn được
coi là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách trong công tác chỉ đạo, lãnh đạo, quản lý.
Cùng với đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết
nhằm tăng cường việc phòng ngừa tai nạn giao thông cụ thể: Chỉ thị số 04CT-TW ngày 04/9/2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về Tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông
đường bộ; Chỉ thị số 12/CT-TTG ngày 26/3/2013 của Thủ tướng chính phủ về
Tăng cường thực hiện các giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn tai nạn giao
thông nghiêm trọng trong hoạt động vận tải và đặc biệt là Bộ luật Hình sự
năm 2015 sửa đổi năm 2017 đã có thay đổi của nhà làm luật về chủ thể của
Điều 260 BLHS.
Tỉnh Quảng Ninh nằm ở phía Đông Bắc tổ quốc là địa phương có tỷ lệ
phát triển nhanh về kinh tế xã hội, hạ tầng được đầu tư lớn và đồng bộ, hiện
đại vì vậy tình hình tội phạm nói chung và tội VPQĐVTGGTĐB cũng có
chiều hướng tăng. Vì vậy, các cơ quan chức năng của tỉnh đã phối hợp đấu
tranh có hiệu quả đối với tội phạm này. Trong đó, Viện kiểm sát nhân dân 2
cấp tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố các

1


vụ án VPQĐVTGGTĐB góp phần đảm bảo việc giải quyết các vụ án có căn
cứ, kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật, góp phần vào công cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm, đảm bảo tình hình an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Bên cạnh đó, công tác THQCT trong giai đoạn điều tra tội phạm
VPQĐVTGGTĐB ở VKSND tỉnh Quảng Ninh còn bộc lộ hạn chế như: Công
tác phê chuẩn khởi tố, áp dụng các biện pháp ngăn chặn đôi khi còn chưa kịp
thời, một số Kiểm sát viên chưa phát huy được chức năng mà pháp luật quy
định đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Cùng với những yêu cầu của cải cách tư pháp do Bộ Chính trị đặt ra,

cần thiết nghiên cứu và tổng kết thực tiễn về những vấn đề liên quan đến mô
hình tổ chức bộ máy và quyền hạn, nhiệm vụ, chức năng của VKSND trong
đó có chức năng THQCT là rất cần thiết, nhằm thực hiện chủ trương của
Đảng về cải cách tư pháp, góp phần hoàn thiện bộ máy Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phù hợp với nhiệm vụ, nội dung mà Nhà nước và
Đảng đã giao phó cho ngành Kiểm sát.
Xét thấy, việc nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn về đề lý luận và
thực tiễn công tác THQCT các vụ án VPQĐVTGGTĐB là một trong những
vấn đề quan trọng, có tác dụng nâng cao chất lượng công tác THQCT của
Viện KSND ở tỉnh Quảng Ninh, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai
đoạn hiện nay và hội nhập kinh tế quốc tế, vì vậy, việc chọn đề tài “Thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu, làm luận
văn thạc sĩ Luật học là hết sức cần thiết, giúp cho bản thân có điều kiện nâng
cao trình độ chuyên môn để đáp ứng được công việc trong tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tai nạn giao thông nói chung và tội VPQĐVTGGTĐB nói riêng luôn là
vấn đề nóng, được đưa ra nghiên cứu bở nhiều chủ thể và nhiều thời điểm. Đó
là một số công trình sau: - Lê Hữu Thể (Chủ biên): “Thực hành quyền công tố

2


và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”, Nxb Tư pháp, Hà
Nội, 2005; Phạm Tuấn Anh: “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ từ thực tiễn tại tỉnh Nam Định”, Học viện khoa học
xã hội, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà nội năm 2017; - GS.TS Võ Khánh Vinh:
“Lý luận chung về định tội danh, chương X “Các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng”; Giáo trình luật hình sự Việt Nam, phần các tội phạm
do GS. TS Võ Khánh Vinh làm chủ biên; Ngoài ra, còn có một số chuyên đề

tập huấn của ngành Kiểm sát, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Toà án nhân dân...
Xuất phát từ vai trò quan trọng của công tác THQCT trong giai đoạn
điều tra tội VPQĐVTGGTĐB và thực tiễn thi hành pháp trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh, có thể cho rằng việc nghiên cứu đề tài luận văn thạc sỹ về vấn
đề: “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” là
cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận trong hoạt động THQCT của
VKSND trong giai đoạn điều tra tội VPQĐVTGGTĐB;
+ Khái quát đầy đủ hoạt động thực tiễn hoạt động THQCT của
VKSND trong giai đoạn điều tra loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh từ năm 2014 đến 2018. Từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá khách quan về
những kết quả đã đạt được cùng với những hạn chế, vướng mắc và nguyên
nhân của những vấn đề đó.
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh
trong công tác điều tra, xử lý tội VPQĐVTGGTĐB trên địa bàn tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận công tác thực hành quyền công
tố của VKSND trong giai đoạn điều tra tội VPQĐVTGGTĐB.

3


+ Phân tích khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội VPQĐVTGGTĐB.
+ Khái quát và phân tích đánh giá thực tiễn công tác THQCT của
VKSND trong giai đoạn điều tra tội VPQĐVTGGTĐB trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh từ năm 2014 đến năm 2018. Chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế,

tồn tại, nguyên nhân và vướng mắc trong công tác thực hành quyền công tố
của Viện KSND tỉnh Quảng Ninh đối với tội phạm VPQĐVTGGTĐB.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hành
quyền công tố của VKSND trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong bối cảnh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn trong
công tác THQCT của VKSND đối với tội VPQĐVTGGTĐB trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực tiễn tiến hành công tác THQCT của
VKSND tỉnh Quảng Ninh đối với tội VPQĐVTGGTĐB từ khi khởi tố vụ án
hình sự đến khi kết thúc điều tra đề nghị truy tố hoặc ra quyết định đình chỉ,
tạm đình chỉ vụ án. Thời gian được giới hạn từ năm 2014 đến năm 2018 trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử các quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về
trương trình cải cách tư pháp và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phối hợp các phương
pháp nghiên cứu có tính phổ biến trong khoa học xã hội và nhân văn như:
phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh, thống kê, khảo
sát… Các phương pháp này có thể được sử dụng riêng rẽ hoặc phối hợp nhằm
giải quyết tốt các vấn đề lý luận và thực tiễn mà đề tài đặt ra. Trong quá trình

4


nghiên cứu, luận văn có sử dụng các số liệu, thông tin, tài liệu thống kê của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh và tham khảo một số bài viết, đề tài

của một số tác giả trong nước và quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu phản ánh, phân tích, luận giải một
cách khái quát về những vấn đề lý luận liên quan đến công tác THQCT trong
điều tra vụ án hình sự nói chung, đồng thời phân tích một cách chi tiết về thực
tiễn thực hiện công tác THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án về tội
VPQĐVTGGTĐB tại tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
Luận văn là công trình khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết
thực, nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo cho
những người công tác trong ngành kiểm sát nhằm nâng cao hiệu quả công tác
và những nhà làm luật trong xây dựng chính sách pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được bố cục gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Chương 2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ và thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Các yếu tố tác động, các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án về tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN VỀ TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

1.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi THQCT trong giai đoạn điều
tra vụ án về tội VPQĐVTGGTĐB
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ
án về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
1.1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
Trong nghiên cứu tố tụng hình sự nói chung và luật tố tụng hình sự nói
riêng, việc xác định quyền công tố và THQCT có ý nghĩa quan trọng về lý
luận và thực tiễn. Cùng với đó là nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Cho
đến hiện tại, còn có sự nhầm lẫn giữa quyền công tố và THQCT trong nhận
thức của không ít người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn của các cơ quan
tư pháp.
Phạm vi của quyền công tố trong TTHS bắt đầu từ khi có tội phạm xảy
ra và kết thúc khi có bản án đã có hiệu lực pháp luật. Theo tố tụng hình sự
Việt Nam, VKS là cơ quan duy nhất THQCT, và không chịu sự can thiệp của
bất cứ cơ quan nhà nước nào. Viện kiểm sát có quyền hủy bỏ mọi quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ và trái pháp luật
của cơ quan điều tra. Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra và Tòa án phải gửi mọi quyết định khởi tố vụ án
hình sự do mình ban hành đến VKS, nếu có vi phạm pháp luật thì VKS có
quyền kháng nghị.
Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra chỉ có quyền đề nghị việc áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với tất cả các trường
hợp VKS đã phê chuẩn, còn việc quyết định là do VKS; Cơ quan điều tra có

6


quyền độc lập thu thập tài liệu, chứng cứ, nhưng việc bảo đảm cho các tài liệu
chứng cứ ấy có căn cứ và đủ cơ sở để truy tố bị can hay không là trách nhiệm
của VKS. Trong trường hợp khôngcó đủ căn cứ để buộc tội, VKS có quyền

yêu cầu cơ quan điều tra bổ sung tài liệu chứng cứ; yêu cầu cơ quan có thẩm
quyền xử lý kỷ luật hoặc xử lý hành chính người đã có hành vi vi phạm pháp
luật; có quyền đình chỉ vụ án. Khi có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi
phạm tội và xét thấy đủ căn cứ để xử lý hành vi phạm tội của người đó trước
Tòa án thì VKS quyết định truy tố bị can ra Tòa. Bộ luật TTHS đã qui định
chức năng THQCT của VKS trong TTHS rất lớn là: Quyết định việc buộc tội,
phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người
phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và
xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm
tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội (Điều 20 BLTTHS).
Như vậy, THQCT là việc VKS truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội, đưa người đó ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó
thông qua các biện pháp mà pháp luật quy định.
Cần nhấn mạnh rằng, phạm vi Quyền công tố và THQCT bắt đầu từ
khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi ra bản án có hiệu lực pháp luật, không
bị kháng nghị. Tuy nhiên, trên thực tế, theo qui định của BLTTHS, quyền
công tố có thể bị triệt tiêu ở giai đoạn tố tụng trước khi có bản án có hiệu lực
pháp luật. Điều này có nghĩa là, không phải mọi vụ án đều được đưa ra xét
xử trước tòa án, khi chấm dứt quyền công tố thì đồng thời cũng không có
việc THQCT. Từ đó, có thể thấy phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu
ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo
không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
Tóm lại: Phạm vi THQCT bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi
ra bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị hoặc vụ án được đình

7


chỉ khi có một trong những căn cứ do BLHS và BLTTHS qui định.

Như vậy, pháp luật quy định những quyền hạn mà VKS có quyền áp
dụng liên quan đến việc buộc tội bị can, bị cáo chính là quyền năng thuộc nội
dung THQCT; những quyền hạn mà VKS sử dụng để phát hiện và yêu cầu xử
lý vi phạm pháp luật của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng là những quyền năng thuộc chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật. Tuy vậy, trên thực tế, sự phân chia này chỉ mang tính chất
tương đối, vì có những hành vi tố tụng thể hiện sự giao thoa giữa kiểm sát việc
tuân theo pháp luật và THQCT trong lĩnh vực tư pháp. Ví dụ: Quyết định kháng
nghị phúc thẩm hình sự của VKS đối với bản án hoặc quyết định của tòa án chưa
có hiệu lực pháp luật có thể gồm 02 nội dung: một là có vi phạm nghiêm trọng
về TTHS; hai là có sự vi phạm trong việc áp dụng pháp luật hình sự; hoặc chỉ thể
hiện một trong hai nội dung trên nhưng đều làm phát sinh một trình tự xét xử
mới - xét xử phúc thẩm hình sự. Chính vì lẽ đó, theo luật định VKS thực hiện
đồng thời hai chức năng là THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Từ những vấn đề vừa phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: THQCT là
việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng độc lập, quyết định việc
buộc tội đối với người phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội,
được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng.
1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ
án về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Trong quá trình THQCT ở giai đoạn điều tra đối với các vụ án vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ được bắt đầu từ giai đoạn tiếp
nhận tin báo tội phạm có vụ việc tai nạn giao thông xảy ra, khởi tố vụ án, khởi
tố bị can và kết thúc điều tra, VKS ra quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án
theo qui định của pháp luật. Hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra đối
với các vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ của
VKSND có những đặc điểm sau:

8



Một là, hoạt động này chỉ do VKSND tiến hành theo qui định của pháp luật.
Theo qui định của pháp luật thì VKSND là cơ quan có chức năng
THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp - đặc biệt là cơ quan điều tra. Hoạt
động THQCT trong giai đoạn điều tra của VKS được qui định tại Điều 14 Luật
tổ chức VKSND năm 2014; Điều 165 BLTTHS.
Tuỳ từng trường hợp, khi THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án
hình sự, VKS thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ, tự mình khởi tố bị can, khởi tố
vụ án hình sự hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định
khởi tố bị can, khởi tố vụ án hình sự theo qui định của BLTTHS. Theo qui
định của BLTTHS thì việc khởi tố vụ án hình sự do Cơ quan điều tra thực
hiện là chủ yếu. VKS chỉ trực tiếp khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Hội
đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án và VKS huỷ bỏ quyết định không khởi tố
vụ án hình sự của Cơ quan điều tra. Trong trường hợp, sau khi nhận hồ sơ vụ
án và kết luận điều tra mà phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm
tội trong vụ án nhưng chưa bị khởi tố thì VKS có quyền khởi tố bị can. Đối
với các trường hợp còn lại, Cơ quan điều tra thực hiện việc khởi tố bị can và
VKS có trách nhiệm phê chuẩn việc khởi tố. Trên thực tế, việc VKS trực tiếp
khởi tố vụ án, khởi tố bị can là rất ít, mà chủ yếu, khi THQCT trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự VKS, VKS sẽ yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án,
khởi tố bị can hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can.
Khi THQCT trong giai đoạn điều tra, một trong những nhiệm vụ,
quyền hạn quan trọng của VKS là yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra
theo yêu cầu điều tra VKS đã đề ra. Với vai trò là cơ quan được giao nhiệm
vụ THQCT, để kết quả hoạt động điều tra bảo đảm thì VKS phải đề ra yêu
cầu điều tra bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án và trong suốt quá trình
điều tra. Để đề ra các yêu cầu điều tra một cách kịp thời, toàn diện và cụ thể,
KSV được phân công THQCT trong giai đoạn điều tra phải bám sát việc
CQĐT điều tra vụ án, nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng người, đúng


9


tội, đúng pháp luật. Khi THQCT trong giai đoạn điều tra, để thực hiện quyền
hạn, nhiệm vụ của Kiểm sát viên, trong một số trường hợp cần thiết, theo qui
định của Bộ luật TTHS, VKS có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều
tra như: triệu tập và lấy lời khai người làm chứng; triệu tập và hỏi cung bị
can; thực nghiệm điều tra; tiến hành đối chất; … từ đó củng cố chứng cứ và
các tình tiết khác để đánh giá vụ án một cách toàn diện, khách quan, đúng quy
định của pháp luật.
Trong giai đoạn điều tra, khi THQCT, VKS có quyền năng quyết định
việc thay đổi, áp dụng hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ,
tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo,
bảo lĩnh. Đối với những biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế cần phải
có phải có sự phê chuẩn của VKS như: Phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp; phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ; phê chuẩn lệnh
bắt bị can để tạm giam; phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; phê chuẩn lệnh
tạm giam… thì VKS có nhiệm vụ, quyền hạn xem xét, quyết định việc không
phê chuẩn hoặc phê chuẩn. Trong mọi trường hợp, VKS phải nêu rõ lý do nếu
từ chối phê chuẩn các lệnh, quyết định trên.
Để THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự bảo đảm việc điều
tra khách quan, toàn diện, đúng pháp luật khi phát hiện các quyết định tố tụng
của Cơ quan điều tra không có căn cứ và trái pháp luật thì VKS có quyền ra
quyết định huỷ bỏ các quyết định đó như: Quyết định tạm giữ; quyết định khởi
tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định về việc bảo lĩnh; quyết định đình chỉ điều tra,
tạm đình chỉ điều tra vụ án của Cơ quan điều tra… thì VKS ra quyết định huỷ bỏ
các quyết định đó theo đúng qui định của BLTTHS; trong trường hợp hồ sơ vụ
án đã kết thúc điều tra chuyển đến VKS để truy tố nhưng bị can trốn hoặc không
biết bị can đang ở đâu nên không hoàn thành được hồ sơ truy tố thì VKS phải
kịp thời yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can theo qui định tại

Điều 239 BLTTHS.

10


Hai là, hoạt động này của VKS phải tuân thủ nghiêm chỉnh những qui
định về trình tự, thủ tục do pháp luật qui định.
Hoạt động THQCT của VKS là hoạt động rất quan trọng có tính quyết
định trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Chính vì vậy, trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là pháp luật tố tụng hiện hành đã qui định
rất chặt chẽ trình tự, thủ tục của hoạt động điều tra vụ án hình sự, kèm với đó
là hoạt động kiểm sát: Khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các biện pháp ngăn chặn,
các biện pháp điều tra, nhập - tách vụ án, tạm đình chỉ, đình chỉ, thời hiệu
điều tra, thời hạn điều tra...
Ba là, hoạt động này của VKS được pháp luật bảo đảm thi hành.
Hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong hoạt động điều
tra các vụ án hình sự - trong đó có các vụ án về vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ luôn được pháp luật bảo đảm thi hành để xác định rõ
hành vi phạm tội, người phạm tội đã thỏa mãn cấu thành của tội đó hay chưa.
Mặc dù bao gồm nhiều bước nhưng đều tuân thủ nguyên tắc xử lý sau: Mọi
hành vi phạm tội cần được phát hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời, công minh,
đúng luật; Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân
biệt giới tính, độ tuổi, tôn giáo hay thành phần xã hội. Sau khi kết thúc điều
tra, VKS sẽ đối chiếu giữa các yếu tố cấu thành tội phạm, các tình tiết định
khung, khoản với hành vi thực tế của người phạm tội đã gây ra để quyết định
truy tố ra xét xử trước tòa án hay ra quyết định tố tụng khác theo Điều 236
BLTTHS.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: “THQCT trong giai đoạn
điều tra vụ án về tội VPQĐVTGGTĐB là chức năng của VKS mà khi thực hiện
chức năng đó trong giai đoạn điều tra, VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn do

pháp luật quy định nhằm buộc tội người vi phạm quy định về an toàn giao
thông đường bộ mà BLHS quy định là tội phạm”.

11


1.1.2. Đối tượng THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án về tội Vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Đối tượng THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án về tội
VPQĐVTGGTĐB là tội phạm và người phạm tội VPQĐVTGGTĐB. Trách
nhiệm chứng minh trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự các loại tội
phạm nói chung và đối với VPQĐVTGGTĐB nói riêng là của cơ quan tiến
hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Trách nhiệm của Viện kiểm sát là
cần chứng minh rõ những vấn đề sau để xác định có hay không có tội phạm:
Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết
khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay
không có lỗi, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; những tình tiết
giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về
nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến
việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
(Điều 85 BLTTHS).
Qua đó hiểu rằng đối tượng THQCT đối với các tội Vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ là yếu tố mà THQCT tác động tới nhằm
thực hiện mục đích truy cứu TNHS đối với những người có hành vi xâm
phạm trật tự giao thông đường bộ, gây thiệt hại tính mạng, sức khỏe, tài sản
của người khác.
1.13. Vai trò thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với
vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Nghiên cứu THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội

VPQĐVTGGTĐB của VKSND cho thấy có các vai trò sau:
Thứ nhất, THQCT trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án
VPQĐVTGGTĐB, có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước trong xã hội. Trong đó, có việc thực hiện quyền tư pháp của VKS, góp

12


phần bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ chế độ XHCN và bảo vệ quyền công dân;
bảo đảm mọi hành vi xâm phạm tới lợi ích của nhà nước, của tập thể, quyền và
lợi ích của công dân phải được xử lý theo pháp luật. Đồng thời góp phần xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật trong lĩnh vực
hình sự nói riêng; tạo thói quen tuân thủ pháp luật. Thực tế thấy rằng, các qui
phạm pháp luật nói chung và các qui phạm pháp luật trong THQCT trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự về tội VPQĐVTGGTĐB của VKSND nói riêng
đều được kiểm nghiệm về tính phù hợp hay không phù hợp, tính có căn cứ hay
tính không có căn cứ, cần phải có những qui định mới hay cần sửa đổi, bổ sung
những qui định cụ thể nào khác. Qua công tác THQCT trong giai đoạn điều tra
các vụ án hình sự về tội VPQĐVTGGTĐB của VKSND, phát hiện ra những
dạng vi phạm pháp luật mới cần phải có những qui phạm pháp luật mới điều
chỉnh kịp thời, những qui phạm pháp luật đã lạc hậu, chồng chéo, lỗi thời cần
thay thế sửa đổi, bổ sung.
Thứ hai, một trong những vai trò quan trọng khi VKS THQCT trong
giai đoạn điều tra các vụ án hình sự về tội VPQĐVTGGTĐB là định hướng
cho những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện những
hành vi phù hợp với các qui định của pháp luật, cụ thể: Thực hiện đúng, đủ
nhiệm vụ, quyền hạn của mình khi tiến hành tố tụng; đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người phạm tội; phòng ngừa,
hạn chế tối đa việc những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng phát sinh các hành vi vi phạm mới trong quá trình điều tra vụ án.

Thứ ba, thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án
hình sự về tội VPQĐVTGGTĐB của VKSND còn có vai trò nổi bật nữa đó là
thông qua công tác này, VKS có những biện pháp, cách thức tuyên truyền,
phổ biến pháp luật không những đối với các đối tượng vi phạm, tội phạm mà
còn tác động rộng lớn trong xã hội; đề xuất, kiến nghị các giải pháp phòng
ngừa vi phạm pháp luật nói chung và tại tỉnh Quảng Ninh nói riêng.

13


1.2. Nội dung THQCT trong giai đoạn điều tra đối với vụ án vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
1.2.1. Thực hành quyền công tố về căn cứ khởi tố vụ án, bị can của cơ
quan điều tra
Đối với loại tội VPQĐVTGGTĐB thì hoạt động THQCT đối với căc căn
cứ khởi tố như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi rất là quan trọng.
Giai đoạn này được thực hiện dựa trên ý thức pháp luật, trình độ hiểu biết
kiến thức pháp luật của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS và KSV, đòi hỏi
phải nắm vững và áp dụng các qui định của pháp luật để xem xét, đánh giá
đầy đủ sự kiện pháp lý đã xảy ra, những công việc đã xử lý của cơ quan điều
tra, yêu cầu và đề nghị của cơ quan điều tra đối với việc giải quyết vụ án.
KSV là người trực tiếp tham gia kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, đề ra yêu cầu cho cơ quan điều tra những nội dung cần
thiết trong quá trình thu thập dấu vết, chứng cứ cũng như bảo đảm thực hiện
đúng trình tự, thủ tục theo qui định của pháp luật.
1.2.2. Thực hành quyền công tố trong việc nghiên cứu hồ sơ, báo cáo
án, lập hồ sơ kiểm sát, ra các quyết định tố tụng và xây dựng hồ sơ truy tố
Hoạt động nghiên cứu hồ sơ nhằm nhận thức đầy đủ, khách quan, toàn
diện, sâu sắc những tình tiết của vụ án. Sắp xếp hồ sơ một cách hợp lý, khoa
học theo đúng qui trình, qui định của ngành. Xây dựng cáo trạng truy tố các bị can

ra trước tòa án, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật và tránh oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Vì vậy, trong THQCT ở giai đoạn điều tra các vụ án Vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ KSV phải nghiên cứu hồ sơ một cách kỹ
lưỡng và thực hiện quyền công tố của mình để phát hiện ra những điểm bất hợp
lý, những điểm không phù hợp thực tế, những chỗ vi phạm pháp luật tố tụng
hình sự để xử lý kịp thời những vi phạm và những bất hợp lý.

14


1.3. Phân biệt THQCT và kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra
vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Hiến pháp năm 2013, BLTTHS, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 đều
quy định rất rõ: VKSND có hai chức năng đó là THQCT và kiểm sát hoạt
động tư pháp. Qua đó thấy rằng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong
quá trình giải quyết đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ là hai chức năng độc lập của VKS. Chúng có sự khác nhau nhất
định từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
(Điều 159 và Điều 160 BLTTHS); giai đoạn khởi tố (Điều 161 BLTTHS);
giai đoạn điều tra vụ án hình sự (Điều 165, 166 BLTTHS); giai đoạn truy tố
(Điều 236, 237 BLTTHS) và giai đoạn xét xử (Điều 266, 267 BLTTHS).
Nhưng tựu chung lại có thể thấy hai chức năng THQCT và kiểm sát điều tra
trong giai đoạn điều tra vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ có điểm khác nhau cơ bản như sau:
Về mục đích: Hoạt động THQCT là bảo đảm mọi hành vi phạm tội và
người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ đều phải được phát hiện và xử lý. Còn mục đích của của kiểm sát
điều tra là đảm bảo cho các hoạt động điều tra được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất trong quá trình giải quyết vụ án vi phạm quy định về tham gia

giao thông đường bộ.
Về nội dung: Hoạt động THQCT đối với tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ trong giai đoạn điều tra gồm các hoạt động phê
chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định tố tụng của các cơ quan có
thẩm quyền trong tố tụng hình sự; yêu cầu hoặc trực tiếp tiến hành một số
hoạt động tố tụng; quyết định việc truy tố. Trong khi đó, hoạt động kiểm sát
điều tra lại là yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm loại trừ hành vi vi phạm
pháp luật.

15


Tuy THQCT và kiểm sát điều tra là hai chức năng riêng biệt của VKS
nhưng chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ, qua lại và hỗ trợ cho nhau. Nhìn
dưới góc độ chung nhất thì THQCT và kiểm sát điều tra đều có chung mục
đích bao quát đó là nhằm đảm bảo cho hành vi phạm vào các tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều
tra, truy tố đúng người đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội cũng như
không làm oan người vô tội.
Trong thực tiễn, hoạt động THQCT dựa trên kết quả hoạt động của
kiểm sát điều tra, điều đó có nghĩa là quá trình kiểm tra tính có căn cứ và hợp
pháp trong các tình tiết của vụ án để từ đó thực hiện các quyền năng thuộc
phạm vi quyền công tố và ngược lại.
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung nhất về khái niệm,
đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố của VKSND trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự về tội VPQĐVTGGTĐB, có thể hình dung một cách khái
quát về cách thức tổ chức thực hành quyền công tố nói chung và tại VKSND tỉnh
Quảng Ninh nói riêng. Tuy nhiên, với cách thức thực hành quyền công tố được áp
dụng chung cho tất cả các địa phương nhưng do mỗi địa phương có những đặc

điểm khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội nên việc THQCT trong
giai đoạn điều tra vụ án về tội VPQĐVTGGTĐB ở mỗi địa phương cũng có
những nét đặc thù, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương.
Đây là cơ sở để tác giả triển khai nghiên cứu công tác THQCT trong
giai đoạn điều tra tội VPQĐVTGGTĐB tại tỉnh Quảng Ninh trong bối cảnh
cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.

16


Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN VỀ TỘI
“VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ”
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra vụ án về tội “Vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ”
Điều 165 BLTTHS, quy định cụ thể khi thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra vụ án, Viện kiểm sát có một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể.
Đây cũng chính là nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Viện kiểm sát khi THQCT
trong giai đoạn điều tra vụ án về tội VPQĐVTGGTĐB, cụ thể:
“1. Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ
án hình sự, khởi tố bị can.
2. Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc
bổ sung quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật.
3. Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị
can trong các trường hợp do Bộ luật này quy định.
4. Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm,
khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn các
quyết định tố tụng khác không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy
định của Bộ luật này; hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái
pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một

17


số hoạt động điều tra. Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy bỏ thì trong
quyết định không phê chuẩn hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do.
5. Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật này.
6. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành điều tra để làm
rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can, áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
7. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để
kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm
pháp luật mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc
phục hoặc trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định
việc truy tố.
8. Khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố
vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều
tra có dấu hiệu tội phạm.
9. Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam; quyết
định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh; hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án.
10. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền
công tố theo quy định của Bộ luật này.”
Điều luật này quy định việc thực hiện các quyền công tố của VKS trong
giai đoạn điều tra. Theo quan niệm phổ biến hiện nay thì trong hoạt động tố

18


×