Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Thực trạng giải pháp về hoạt động tín dụng tại ngân hàng TMCP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 60 trang )

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ CỦA NHTM
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm:
Trên thực tế thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả
trong quan hệ tài chính tùy theo từng bối cảnh cụ thể, mà thuật ngữ tín dụng có một nội
dung riêng. Trong quan hệ tài chính tín dụng có thể theo các nghĩa sau:
- Xét theo góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ
thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người
cho vay sang người đi vay.
- Trong quan hệ tài chính cụ thể tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có
hoàn trả giữa hai chủ thể.
- Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay và các định chế tài chính cung cấp
cho khách hàng.
Nói tóm lại, về cơ bản, tín dụng là sự trao đổi không ngang giá giữa một thực
thể nào đó, thực thể này có thể là tiền, hàng, uy tín để đổi lấy một cam kết hoàn trả cả
vốn và lãi đúng hạn trên cơ sở lòng tin. Nói ngắn gọn ta có thể coi tín dụng là lòng tin.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng
cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.
1.1.2. Bản chất và chức năng của tín dụng ngân hàng
1.1.2.1. Bản chất của tín dụng ngân hàng:
Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với khách hàng mang 3 đặc điểm sau:
Thứ nhất, chỉ thay đổi quyền sử dụng không làm thay đổi quyền sở hữu tín dụng.
Thứ hai, thời hạn tín dụng được xác định giữa người đi vay và người cho vay
Thứ ba, người sở hữu vốn tín dụng được nhận một phần thu nhập dưới hình thức
lợi tức.
1.1.2.2. Chức năng của tín dụng ngân hàng:
• chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả:
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai quá trình thống nhất trong sự vận
hành của hệ thống tín dụng. Thông qua chức năng này tín dụng trở thành cầu nối giữa
cung - cầu vốn trong nền kinh tế, nhờ sự vận động của tín dụng mà các chủ thể đi vay


nhận được một phần tài nguyên của xã hội mở rộng quy mô kinh doanh hay tiêu dùng.
Ở khâu tập trung, tín dụng là phương thức giúp cho các chủ thể kinh tế thu hút được
một phần vốn của xã hội dưới hình thái tiền tệ hoặc vật chất tạm thời nhàn rỗi. Ở khâu
phân phối, tín dụng đã đáp ứng các nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, dân cư, tổ
chức xã hội…
• Chức năng kiểm soát các hoạt động kinh tế:


Kiểm soát các hoạt động kinh tế qua kênh tín dụng được thực hiện dưới hình thái
giá trị tiền tệ, dựa trên cơ sở vận động của các luồng giá trị tiền tệ để kiểm tra, kiểm
soát. Chức năng này được dựa trên cơ sở tín dụng thực hiện chức năng tập trung và
phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc có hoàn trả. Chức năng kiểm soát các hoạt
động kinh tế thể hiện khi chủ thể đi vay và chủ thể cho vay thực hiện thẩm định dự án,
kế hoạch kinh doanh cũng như việc kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn vay nhằm
đạt hiệu quả cao nhất.
1.1.3. Các nguyên tắc của tín dụng ngân hàng
Tín dụng phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản:
- Nguyên tắc sử dụng vốn vay đúng mục đích:
Ngân hàng cần tìm hiểu rõ mục đích vay vốn của khách hàng đồng thời phải kiểm
tra xem khách hàng có sử dụng vốn vay đúng mục đích như đã cam kết không. Điều
này rất quan trọng vì việc sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không có ảnh hưởng
đến khả năng thu hồi nợ sau này.
Khách hàng cũng cần sử dụng vốn vay đúng mục đích nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn vay giúp khách hàng đảm bảo khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng. Từ đó
nâng cao uy tín của khách hàng đối với ngân hàng và củng cố quan hệ vay vốn giữa
khách hàng và ngân hàng sau này.
- Nguyên tắc hoàn trả vốn và lãi:
Đây là nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động cho vay. Điều này xuất phát từ
tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay. Đại đa số
nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay là vốn huy động từ khách hàng gửi tiền,

do đó, sau khi cho vay trong một thời hạn nhất định khách hàng vay tiền phải hoàn trả
lại cho ngân hàng để ngân hàng hoàn trả lại cho khách hàng gửi tiền. Hơn nữa bản chất
của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn vay nên
sau một thời gian nhất định vốn vay phải được hoàn trả, cả gốc và lãi.
1.2. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.2.1. Khái niệm DNVVN
Sự phân loại các doanh nghiệp là không thống nhất ở các quốc gia do mỗi quốc
gia có những điều kiện kinh tế khác nhau và những đặc trưng riêng biệt. Ví dụ một
doanh nghiệp đặt trong môi trường kinh tế nước này được xem là DNVVN, nhưng đặt
trong môi trường kinh tế nước khác lại được xem là doanh nghiệp lớn, hoặc doanh
nghiệp rất lớn…tương tự một doanh nghiệp trong quá khứ được xem là doanh nghiệp
lớn nhưng trong hiện tại nó lại được đánh giá là doanh nghiệp nhỏ. Do đó để xác định
DNVVN ta phải hiểu rằng doanh nghiệp đó đang nằm ở quốc gia nào, trong môi
trường kinh tế nào và tại thời điểm nào. Nói cách khác khái niệm DNVVN chỉ có ý
nghĩa trong phạm vi một quốc gia, tại một thời điểm nhất định.
Thông thường khái niệm DNVVN thường dựa trên các nhóm tiêu chí định lượng
và định tính, trong đó các tiêu chí định lượng đóng vai trò quan trọng để phân biệt


nhóm doanh nghiệp này với các doanh nghiệp lớn. Có ba chỉ tiêu định lượng thường
được dùng độc lập hay kết hợp để xác định quy mô các DNVVN với nhau:
 Lượng vốn đầu tư vào máy móc, dây chuyền sản xuất
 Số lượng lao động
 Quy mô sản xuất hoặc doanh thu từ hoạt động kinh doanh
Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh
nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ
10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động. Ở mỗi nước,
người ta có tiêu chí riêng để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước mình.
Xét về mặt định tính các chỉ tiêu thường được đưa ra là cơ cấu của công ty, cơ cấu
quản lý, ngành nghề kinh doanh, người ra quyết định chính và các rủi ro có thể xảy ra.

Sau đây là một số định nghĩa của một vài quốc gia tiêu biểu trên thế giới:
Trong các nước thuộc cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC), doanh nghiệp vừa và
nhỏ được xếp thành các nhóm cụ thể như sau:
Doanh nghiệp có quy mô vừa nếu có ít hơn 250 nhân viên, doanh thu hàng năm
không vượt quá 50 triệu EUR, hoặc giá trị tổng tài sản không vượt quá 43 triệu EUR.
Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có ít hơn 50 công nhân, doanh thu hàng năm
không vượt quá 10 triệu EUR hoặc giá trị tổng tài sản không vượt quá 9 triệu EUR.
Doanh nghiệp cực nhỏ nếu có ít hơn 10 nhân viên, doanh thu hàng năm nhỏ hơn 1
triệu EUR, hoặc tổng tài sản nhỏ hơn 1,4 triệu EUR.
Tại Nhật Bản, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 99,7% số doanh nghiệp tại
Nhật Bản, 70% số nhân công Nhật làm việc cho những công ty này, giá trị sản xuất
chiếm một nửa tổng giá trị ngành sản xuất. Hoạt động của họ tập trung vào sản xuất
hàng điện tử, kỹ thuật và hóa học, cụ thể như sau:
Bảng 1.1: Xác định quy mô doanh nghiệp
Các doanh nghiệp vừa
Khu vực
Quy mô lao động / Vốn
Sản xuất, khai thác và chế biến
< 300 người / 100 triệu Yên
Bán buôn
< 100 người / 30 triệu Yên
Bán lẻ và dịch vụ
< 50 người / 10 triệu Yên
Các doanh nghiệp nhỏ
Khu vực
Sản xuất
Thương mại và dịch vụ

Quy mô lao động / Vốn
< 20 người/5 triệu Yên

< 5 người/dưới 5 triệu Yên
(Nguồn: Thư viện khoa học và kĩ thuật Trung ương)
Tại Indonesia, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế, chiếm trên 90% tổng số doanh nghiệp trong nước,thu hút từ 60% - 70% việc
làm tại các doanh nghiệp. Inđônêxia cho rằng doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số
lượng công nhân từ 20-99 người, vốn tư bản trêm 600 triệu RP (tiền Inđônêxia) doanh


nghiệp nhỏ có số lượng công nhân từ 5-19 người và vốn tư bản dưới 600 triệu RP còn
doanh nghiệp cực nhỏ có số lượng lao động từ 1-4 người (Thư viện khoa học và kĩ
thuật Trung ương).
Tại Việt Nam, căn cứ nghị định của chính phủ số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng
11 năm 2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có
vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá
300 người.
Như vậy, khái niệm DNVVN chủ yếu là dựa vào quy mô vốn và số lượng lao
động của doanh nghiệp đó.
Bảng 1.2: Tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam
Công nghiệp
Thương nghiệp, dịch vụ
Tiêu thức
DN vừa
DN nhỏ
DN vừa
DN nhỏ
Vốn sản xuất
(VND)
< 10 tỷ
< 3 tỷ

< 5 tỷ
< 2 tỷ

thường
xuyên
<300
< 100
< 200
< 50
(Nguồn: Thư viện khoa học và kỹ thuật Trung ương)
1.2.2. Đặc điểm của DNVVN
Đã được xếp vào loại doanh nghiệp vừa và nhỏ, thì xét về quy mô vốn và nguồn
nhân lực so với các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp này luôn bị hạn chế khiến họ
gặp khó khăn về rất nhiều mặt. Có thể kể đến những hạn chế đó là:
- Năng lực cạnh tranh yếu, trình độ tay nghề chưa cao, giá lao động đang tăng lên
ảnh hưởng tới giá thành, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm; thiếu sự quan
tâm kiểm soát chất lượng sản phẩm cùng với những phương pháp kiểm soát có hiệu
quả.
- Năng suất lao động thấp, mà điều này phần lớn do nhân tố trình độ công nghệ
thấp quyết định.
- Ít vốn và thiếu sự hỗ trợ tài chính.
- Phương pháp quản lý yếu kém, công tác nghiên cứu và phát triển hầu như không
có hoặc nếu có thì cũng được tiến hành rất chậm. Khâu quảng bá thương hiệu cũng còn
hạn chế do chi phí cao.Các doanh nghiệp này thường phải đối mặt với một thực tế là
những nhân viên giỏi rất dễ ra đi trước những sự lôi kéo của các công ty hay tập đoàn
lớn.
- Về vấn đề tiếp cận các nguồn vốn, vấn đề “đầu tiên” có ý nghĩa quyết định, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp khó khăn không nhỏ, nhất là các khoản vay trung
hạn, dài hạn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Đặc biệt, các khoản vay có
bảo lãnh rất hiếm khi dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; việc đầu tư vào khu vực

doanh nghiệp vừa và nhỏ, do nhận thức chưa thông thoáng, cho nên bị hạn chế rất
nhiều. Việc tiếp cận các nguồn vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ rất hạn chế. Trong khi


đó nhu cầu vốn kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất lớn bao gồm cả vốn
ngắn hạn và trung, dài hạn. Nhu cầu vốn ngắn hạn xuất hiện do tính chất thời vụ của
hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt đối với các doanh nghiệp thương mại. Các
khoản vay chủ yếu dựa trên những hợp đồng tiêu thụ có sẵn, hoặc các hợp đồng cung
cấp đã ký. Quy mô của khoản vay thường không lớn nhưng các doanh nghiệp vừa và
nhỏ thường vay nhiều lần và với thời hạn ngắn vì vậy nếu tính theo doanh số cho vay
thì con số này khá cao, có thể tương đương với một doanh ngiệp lớn. Vốn dài hạn dùng
để tài trợ tài sản cố định và mở rộng sản xuất. Hầu hết các doanh nghiệp đều muốn mở
rộng phạm vi hoạt động mở rộng quy mô để có thể trở thành các doanh nghiệp lớn hơn.
Để thực hiện các chiến lược đặt ra, các kế hoạch Marketing, đổi mới công nghệ, doanh
nghiệp vừa và nhỏ đều cần tới nguồn vốn dài hạn.
Với sự đa dạng về ngành nghề và phương thức tiếp cận thị trường, hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất linh hoạt và năng động. Lĩnh vực kinh
doanh của các doanh nghiệp này rất phong phú, vì vậy đây là cơ hội tốt cho các chủ
doanh nghiệp tìm kiếm các lĩnh vực mà ở đó sự cạnh tranh chưa cao song lại đem lại
lợi nhuận nhanh chóng. Hơn nữa, các doanh nghiệp này dễ dàng thay đổi ngành nghề
kinh doanh với chi phí thấp bởi lượng vốn bỏ vào không lớn, vì vậy trước những sự
biến động mạnh về cung cầu trên thị trường nhóm doanh nghiệp này chịu ảnh hưởng ít
hơn, dễ phục hồi hơn so với các doanh nghiệp lớn.
Về ngành nghề kinh doanh, phải nói rằng do vốn và nhân lực hạn chế, rất nhiều
lĩnh vực mà doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể tham gia như các ngành công nghiệp
nặng, luyện kim, khai thác mỏ, tài chính ngân hàng… Nhưng bên cạnh đó lại có những
mặt mà doanh nghiệp lớn nếu làm sẽ không đạt hiệu quả cao như mong đợi. Vì thế,
lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là các ngành công nghiệp
nhẹ như : may mặc, chế biến, gia công thô sơ, xử lý phần thô, sản xuất bao bì, đóng
gói,…Về dịch vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung vào các lĩnh vực như

vận tải nội thành, vui chơi giải trí, ẩm thực, bảo hành, chăm sóc khách hàng … Lĩnh
vực thương mại cũng là một trong những thế mạnh của doanh nghiệp vừa và nhỏ như
thu mua nguyên vật liệu trong và ngoài nước, đại diện bán hàng, tham gia vào các kênh
phân phối sản phẩm. Có thể nói rằng các ngành được nêu ở trên thường có số vốn đầu
tư ban đầu ít, sử dụng nhiều vốn chiếm dụng, công nghệ sử dụng ở mức trung bình, lao
động sử dụng chủ yếu là lao động phổ thông có trình độ vừa phải.
Có thể nhận thấy rõ là thị trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là
phục vụ các doanh nghiệp lớn như làm nhà cung cấp nguyên vật liệu, làm đại lý bán
hàng, kênh phân phối, hoặc là những đoạn thị trường còn bỏ ngỏ, có quy mô nhỏ và độ
sâu hạn chế. Những thị trường này chứa đựng nhiều rủi ro và không ổn định khiến cho
hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trở nên bấp bênh, sự cạnh tranh vì thế mà
trở nên gay gắt. Các nghiên cứu về doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ ra rằng đối thủ cạnh
tranh lớn nhất không phải là các doanh nghiệp lớn mà chính là các doanh nghiệp có
cùng quy mô. Bởi vì, các doanh nghiệp lớn có thị trường ổn định, nhóm khách hàng


mục tiêu thường được xác định trước. Khi có ý định mở rộng thị trường các doanh
nghiệp lớn thường tìm kiếm những thị trường có quy mô lớn, có chiều sâu, những thị
trường nhỏ thường được bỏ qua hoặc không có khả năng bao quát hết toàn bộ thị
trường. Một lý do khác nữa là lý thuyết cá lớn nuốt cá bé không còn được áp dụng phổ
biến bởi vì các doanh nghiệp lớn cũng nhận ra được sự cần thiết của doanh nghiệp vừa
và nhỏ đối với sự phát triển của mình. Trong khi đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có số
lượng đông đảo và đều có mục địch giống nhau là tìm kiếm những thị trường còn bỏ
trống. Các thị trường này quá nhỏ bé để có thể chứa nhiều doanh nghiệp trong đó cho
dù đó là những doanh nghiệp nhỏ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng rất nhạy cảm với
các thị trường này. Khi một doanh nghiệp tìm thấy được một thị trường còn bỏ ngỏ và
đầu tư vào thị trường đó thì gần như ngay lập tức có rất nhiều doanh nghiệp khác cũng
tham gia vào, ví dụ như trong lĩnh vực ăn uống, dịch vụ sửa chữa, bảo hành.
Về khả năng cạnh tranh, các DNVVN Việt Nam có nhiều lợi thế, tuy nhiên vẫn
còn nhiều hạn chế và yếu kém:

Thứ nhất, chất lượng và khả năng cạnh tranh về mặt quản lý còn yếu kém. Đội
ngũ chủ DN, giám đốc và cán bộ quản lý DNVVN còn nhiều hạn chế về kiến thức và
kỹ năng quản lý. Số lượng DNVVN có chủ DN, giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn
cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ DN và giám đốc DN tư
nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế.
Từ đó, khuynh hướng phổ biến là các DN hoạt động quản lý theo kinh nghiệm, thiếu
tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức trên các phương diện: Quản lý tổ chức, chiến lược
cạnh tranh, phát triển thương hiệu, sử dụng máy tính và công nghệ thông tin. Một số
chủ DN mở công ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích kinh doanh, trong khi đó thiếu kiến
thức và kỹ năng về kinh doanh, vì vậy đã dẫn đến rủi ro và thất bại.
Thứ hai, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao làm
yếu khả năng cạnh tranh của các DNVVN. So sánh giữa sản phẩm trong nước với các
nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philipines,... thì các sản phẩm sản xuất của
các DN Việt Nam có giá thành cao hơn từ 1,58 đến 9,25 lần mặc dù giá nhân công lao
động thuộc loại thấp so với các nước trong khu vực.
Thứ ba, năng lực cạnh tranh về tài chính vẫn còn rất yếu kém. Quy mô vốn và
năng lực tài chính (kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn vốn) của nhiều DN còn rất
nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững. Số lượng DN nhỏ và vô cùng nhỏ
chiếm tỷ lệ khá cao.
Thứ tư, nhận thức và sự chấp hành luật pháp còn hạn chế. Một số khá lớn
DNVVN còn chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt là các
quy định về thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá và sở hữu
công nghiệp. Tình trạng các DNVVN bị các cơ quan chức năng phàn nàn, xử phạt vi
phạm các chế độ về thuế, tài chính còn phổ biến. Nguyên nhân của tình trạng vi phạm


pháp luật trong lĩnh vực này cũng là do việc nhận thức, hiểu biết của DN về luật pháp
còn nhiều hạn chế.
Thứ năm, sự yếu kém về thương hiệu đã góp phần làm yếu khả năng cạnh tranh.
Hầu hết các DNVVN ở Việt Nam chưa xây dựng được các thương hiệu mạnh, chưa

khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế.
Nhiều DN ở Việt Nam, đặc biệt là các DNVVN chưa có chiến lược xây dựng thương
hiệu, chưa tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm và dịch vụ, do đó khả năng cạnh
tranh còn yếu.
Hội nhập quốc tế đã buộc các DN phải nâng cao khả năng cạnh tranh để đủ sức
đứng vững trên thương trường. Năng lực của các nhà quản lý DN là một trong những
nhân tố quan trọng nhất có ảnh hưởng quyết định đến khả năng cạnh tranh của DN.
Doanh nhân ngày nay cần có những năng lực tổng hợp và ở mức độ cao hơn hẳn 5 năm
trước; trong đó cần đặc biệt chú trọng bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về xây dựng và
phát triển thương hiệu, về chiến lược cạnh tranh.
Với những đặc điểm nêu trên, sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
thường tập trung vào một số dạng sau:
Các sản phẩm thủ công với chủ yếu là các đồ mỹ nghệ có tính cá biệt cao, do đó
mà không thể áp dụng sản xuất hàng loạt. Sản phẩm thủ công thường phục vụ cho
nhóm khách hàng đặc biệt hoặc xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Giá cả của loại sản
phẩm này thường cao do có chi phí sản xuất lớn.
Các sản phẩm được dùng làm nguyên liệu đầu vào cho các công ty lớn với chức
năng như nguyên vật liệu phụ của quá trình sản xuất, thường là: các bộ phận phụ của
một chi tiết lớn như các ngành cơ khí, tự động hoá, công nghiệp ô tô, máy bay,… với
giá cả thấp. Sản phẩm loại này có hàm lượng kỹ thuật thấp nhưng lại rất cần thiết cho
việc tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh.
Các sản phẩm tiêu dùng khác phục vụ cho nhóm khách hàng bình dân hoặc lấp
chỗ trống trên thị trường. Các sản phẩm kiểu này có chất lượng trung bình, giá cả phải
chăng chủ yếu phục vụ những khách hàng dễ tính.
Các sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp vừa và nhỏ cung cấp thường đa dạng và
có sự khác biệt giữa những doanh nghiệp với nhau. Đối với từng khách hàng thì dịch
vụ được cung ứng cũng khác nhau, giá cả của các dịch vụ cũng rất phong phú phụ
thuộc vào đối tượng khách hàng sử dụng dịch vụ đó: như dịch vụ bảo hành, dịch vụ
vận chuyển, dịch vụ ăn uống giải trí, …
1.2.3. Vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế

Các DNVVN đã và đang đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của quốc gia.
Các DNVVN góp phần cho sự tăng trưởng, giải quyết thất nghiệp, tiến bộ xã hội. Vai
trò của các DNVVN thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, DNVVN góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế và gia tăng giá
trị xuất khẩu của cả nước.


Thứ hai, mặc dù lực lượng lao động trong các DNVVN không nhiều nhưng số
lượng các DNVVN rất lớn đã tạo ra một khối lượng việc làm lớn, tạo thu nhập cho
người lao động nhất là những lao động phổ thông trong nền kinh tế góp phần xóa đói
giảm nghèo.
Thứ ba, các DNVVN góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt đối với các khu vực nông thôn. Sự phát triển
của các doanh nghiệp này ở các khu vực nông thôn tạo điều kiện cho công nghiệp phát
triển đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp. Tỷ trọng
nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân vì thế thu hẹp dần. Mặc khác DNVVN thúc
đẩy quá trình đô thị hóa, thu hút và tập trung vào các vùng trọng điểm.
Thứ tư, khu vực DNVVN hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp lớn, tập
đoàn lớn thông qua việc cung cấp nguyên vật liệu, thực hiện các hợp đồng phụ, làm đại
lý tạo lập kênh phân phối sản phẩm.
Thứ năm, DNVVN góp phần quan trọng cho việc đào tạo, bồi dưỡng doanh nhân
- nguồn nhân lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội. Mọi người khi làm quen
thường bắt đầu với các DNVVN. Từ đó họ sẽ tiếp cận với những kỹ năng cơ bản tích
lũy kinh nghiệm cho bản thân. Họ sẽ là những người phát triển các DN này thành
những DN lớn hoặc tìm kiếm những DN lớn để phát triển năng lực của mình. Nguồn
nhân lực vì thế sẽ được nâng cao cả về số lượng và chất lượng.
Thứ sáu, các DNVVN hạn chế sự độc quyền của các tập đoàn lớn, duy trì tính
cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế, đảm bảo lợi ích chính đáng của người tiêu dùng.
Chính bản thân các DNVVN cũng cạnh tranh với nhau rất gay gắt để tìm ra chỗ đứng
trên thị trường để tồn tại và phát triển thành các DN lớn. Chính yếu tố này làm cho nền

kinh tế năng động hơn, dễ thích nghi với những biến động của thị trường trong nước và
quốc tế.
Tuy có nhiều mặt hạn chế nhưng vai trò của các DNVVN không thể phủ nhận. Do
đó sự phân định và tăng cường sự hỗ trợ các DNVVN đang trở thành vấn đề cấp bách
đối với mỗi quốc gia.
1.3. CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA CÁC NHTM
1.3.1. Đặc điểm cho vay DNVVN
Ngân hàng thương mại đóng vai trò là trung gian tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế với vai trò điều tiết và định hướng các hoạt động đầu tư, trong đó hoạt động
tín dụng là một công cụ dùng để hướng các nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau vào
các hoạt động kinh tế hiệu quả.
Với một số lượng lớn như đã nói ở trên, các DNVVN đang là khách hàng chủ đạo
của các ngân hàng. Các ngân hàng thường thành lập riêng một phòng chuyên trách về
đối tượng khách hàng này để nghiên cứu, phục vụ hiệu quả hơn, đồng thời triển khai
một số giải pháp để mở rộng đối tượng khách hàng này.
1.3.2. Các hình thức cho vay của NHTM đối với các DNVVN
Tín dụng ngân hàng phân thành nhiều loại dựa vào những tiêu thức khác nhau:


 Dựa vào mục đích của tín dụng:
Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp là loại cho vay ngắn
hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại dịch vụ.
Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm xây dựng bất
động sản.
Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các khoản chi phí trong sản
xuất nông nghiệp như phân bón, giống cây trồng.
 Dựa vào thời hạn tín dụng:
Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới một năm. Mục đích của loại
cho vay này thường nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động.

Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Mục đích của
loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố định.
Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại cho
vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu tư.
 Căn cứ vào nghiệp vụ của ngân hàng:
Cho vay thấu chi: Cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh
toán của mình đến một giới hạn nhất định (hạn mức thấu chi) và trong khoảng thời
gian xác định.
Cho vay từng lần: Ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của
chu kì sản xuất kinh doanh hoặc theo từng phương án SXKD cụ thể trong từng thời kỳ
của DN.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Trong kì khách hàng có thể vay – trả nhiều lần
song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng mà ngân hàng đã cấp.
Cho vay trả góp (cho vay đầu tư dự án): Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc
làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận.
 Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
Cho vay không đảm bảo (cho vay tín chấp): là loại cho vay không có tài sản thế
chấp cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng.
Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay cần phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc
sự bảo lãnh của người thứ ba.
1.4. HIỆU QUẢ CHO VAY CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.4.1. Quan điểm về hiệu quả cho vay các DNVVN
Hiệu quả cho vay trước hết phải được hiểu là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của
khách hàng lựa chọn, đồng thời đem lại lợi nhuận cho ngân hàng không chỉ từ hoạt
động cho vay mà còn từ các hoạt động dịch vụ khác, cùng lúc đó tạo điều kiện thúc đẩy
kinh tế và tạo công ăn việc làm. Trên giác độ ngân hàng, hiệu quả hoạt động tín dụng
thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phù hợp với khả năng, thực lực và theo



hướng tích cực của ngân hàng đảm bảo sự cạnh tranh trên thị trường, tuân thủ nguyên
tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Như vậy, hiệu quả tín dụng được coi là một chỉ tiêu
tổng hợp phản ánh mối tương quan giữa khả năng sinh lợi và rủi ro, phản ánh mức độ
thích nghi của ngân hàng trước sự thay đổi của môi trường, thể hiện sức mạnh của
ngân hàng trong cuộc cạnh tranh trên thị trường. Hiệu quả cho vay phụ thuộc nhiều yếu
tố như khả năng thu hút khách hàng, mức độ an toàn, doanh thu, chi phí và lợi nhuận.
Để đo lường hiệu quả người ta căn cứ trên sự so sánh giữa yếu tố đầu vào và yếu tố
đầu ra của kỳ này so với kỳ trước, của đơn vị này so với đơn vị khác, so sánh với kỳ
vọng đặt ra, hoặc so sánh với mặt bằng chung của ngành, lĩnh vực hoạt động. Trước
đây, các ngân hàng có sự phân biệt giữa ngân hàng bán buôn và bán lẻ, tuy nhiên trong
thời gian gần đây, các ngân hàng đã nhận thấy những tiềm năng tích cực từ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, sự phân biệt cũng hầu như không còn nhờ đó chúng ta dễ dàng có
sự so sánh về hiệu quả cho vay của mỗi ngân hàng đối với các doanh nghiệp này.
1.4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay các DNVVN
Các chỉ tiêu được dùng để đánh giá hiệu quả cho vay các DNVVN bao gồm:
- Tỷ lệ vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn.
- Hệ số thu hồi nợ:
Doanh số thu nợ
Hệ số thu nợ =
Doanh số cho vay
Hệ số này phản ánh kết quả thu hồi nợ của ngân hàng cũng như khả năng trả nợ
vay của khách hàng, cho biết số tiền ngân hàng sẽ thu được trong thời kỳ nhất định từ
một đồng doanh số cho vay.
- Vòng quay vốn tín dụng:
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Vòng quay vốn tín dụng của ngân hàng ngày càng tăng thì hiệu quả đầu tư của
ngân hàng ngày càng tốt.
- Tỷ lệ tài sản sinh lời ( TS sinh lời / Tổng TS bình quân)

- Tỷ lệ nợ quá hạn / Tổng dư nợ:
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả hoạt động của chi nhánh, tỷ lệ này càng nhỏ thể
hiện nợ quá hạn càng ít và chất lượng tín dụng càng cao.
- Dư nợ / Tổng vốn huy động:
Thể hiện tỷ lệ tham gia của vốn huy động trong tổng dư nợ.
Song song với các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời của ngân hàng, để đánh giá
tình trạng rủi ro tín dụng người ta thường căn cứ vào tỷ lệ nợ quá hạn so với tổng dư
nợ, tình hình tài chính và phương án sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, xếp
hạng tín dụng người vay hay xem xét mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và người
vay. Phân tích những chỉ tiêu này có ý nghĩa rất quan trọng đối với ngân hàng nhằm


mục tiêu trước hết là đảm bảo an toàn cho chính ngân hàng, sau đó là xem xét đến chất
lượng tín dụng của các khoản cho vay. Quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng nhằm
hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra, đó cũng chính là biện pháp nâng
cao hiệu quả tín dụng đối với các DNVVN.
1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả cho vay DNVVN
1.4.3.1. Các nhân tố khách quan
Nhân tố có thể kể đến đó là môi trường pháp lý. Một môi trường pháp lý chặt chẽ
và ổn định sẽ là điều kiện tiên quyết thúc đẩy sự hoạt động có hiệu quả của các doanh
nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp có thể vay vốn tại ngân hàng. Một
sự thay đổi nào đó trong một nghị định, một hợp tác thương mại được ký kết hay một
sự thỏa thuận kinh tế giữa Chính phủ các nước đều có thể tác động tới hiệu quả cho
vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói
riêng. Ngược lại, sự tác động của môi trường pháp lý không chặt chẽ hay mang tính
kìm hãm có thể gây ra sự sụt giảm về dư nợ, gây tăng đột ngột các khoản nợ quá hạn,
hạn chế khả năng sinh lời của doanh nghiệp, và vì thế hiệu quả cho vay của ngân hàng
có thể bị suy giảm nhanh chóng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ do lợi thế về quy mô là
những người khắc phục nhanh hơn những tác động của môi trường pháp lý tới hoạt
động của mình so với doanh nghiệp lớn. Và vì vậy cho vay các doanh nghiệp vừa và

nhỏ cũng là một biện pháp làm giảm sự biến động về hiệu quả và rủi ro cho ngân hàng.
Một nhân tố nữa có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả cho vay là môi trường
kinh doanh. Tác động của nó tới hiệu quả cho vay của các ngân hàng thông qua các
biến số kinh tế như: tỷ giá, lãi suất, lạm phát,… Các chỉ tiêu này tác động lên khả năng
cho vay, đồng thời tác động trực tiếp lên chi phí của ngân hàng. Sự tăng lên của tỷ lệ
dự trữ bắt buộc hoặc lạm phát sẽ làm giảm khả năng cho vay và làm tăng chi phí trả lãi
cho các nguồn huy động, lãi suất trên thị trường tăng cũng làm hạn chế tốc độ tăng
trưởng của dư nợ đồng thời lại làm tăng nhanh chi phí trả lãi của các ngân hàng. Vì thế
để đánh giá một yếu tố thuộc môi trường vĩ mô tác động như thế nào tới hiệu quả cho
vay của mình thì các ngân hàng phải phân loại được các khách hàng chủ yếu mà mình
phục vụ, từ đó có chiến lược đối phó phù hợp.
1.4.3.2. Các nhân tố chủ quan
Từ phía doanh nghiệp: đây là nhân tố tác động quan trọng nhất tới hiệu quả hoạt
động cho vay của ngân hàng, thể hiện thông qua các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp
như khả năng thanh toán, khả năng sinh lời, hệ số nợ, hệ số khả năng chi trả…Để đạt
được mục tiêu của mình, các doanh nghiệp luôn mong muốn vay được vốn và tìm mọi
cách để có được nguồn vốn từ ngân hàng. Tuy nhiên, trái ngược với các doanh nghiệp
vận dụng các hình thức tích cực như tăng hiệu quả hoạt động, trung thực và hợp tác với
ngân hàng, thì cũng có nhiều doanh nghiệp sử dụng các biện pháp không tích cực như
làm sai lệch các báo cáo tài chính theo hướng có lợi cho doanh nghiệp, không cung cấp
đầy đủ và trung thực các thông tin cần thiết cho ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp sau
khi vay được tiền thì sử dụng tiền vay sai mục đích, cố tình lừa đảo chiếm dụng vốn


của ngân hàng. Có nhiều doanh nghiệp còn yếu kém trong việc lập dự án, nhiều dự án
không nêu được tính khả thi nên rất khó tạo niềm tin để ngân hàng cho vay vốn.
Nhân tố từ phía ngân hàng : Đây là các nhân tố chủ quan mà ngân hàng có thể
điều chỉnh và khắc phục được. Nó bao gồm chiến lược phát triển của ngân hàng, công
nghệ ngân hàng, uy tín và kinh nghiệm điều hành, trình độ nghiệp vụ và đạo đức của
cán bộ tín dụng. Chiến lược phát triển của ngân hàng tạo ra một định hướng chung về

khách hàng mục tiêu của ngân hàng, tạo lập các chính sách hỗ trợ ưu đãi cho nhóm
khách hàng đó. Với xu hướng hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu được sự
quan tâm lớn của các ngân hàng và nhiều ngân hàng đã thiết lập một chiến lược kinh
doanh hướng vào nhóm doanh nghiệp này. Công nghệ và uy tín của ngân hàng tác
động tới chi phí của khoản vay và khả năng mở rộng quy mô dư nợ, công nghệ càng
cao ngân hàng càng có khả năng tiết kiệm chi phí và đưa ra các mức lãi suất cạnh tranh
cũng như các tiện ích mới phục vụ khách hàng. Nhận thức và đạo đức của cán bộ tín
dụng đóng vai trò quan trọng nhất trong số các nhân tố tác động tới hiệu quả cho vay từ
phía ngân hàng.


CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT
NAM - CHI NHÁNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI
THƯƠNG VIỆT NAM
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Thành lập ngày 1/4/1963, với tổ chức tiền thân là Cục Ngoại hối (trực thuộc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam), trải qua 47 năm xây dựng và phát triển Ngân hàng Thương
mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam ( VCB) đã có những đóng góp quan trọng cho sự
ổn định và phát triển kinh tế của đất nước, phát huy tốt vai trò của một ngân hàng đối
ngoại chủ lực, phục vụ hiệu quả cho phát triển kinh tế trong nước, đồng thời tạo những
ảnh hưởng quan trọng đối với cộng đồng tài chính khu vực và toàn cầu.
Là Ngân hàng Thương mại nhà nước đầu tiên được chính phủ chọn để thực hiện
thí điểm cổ phần hóa, VCB đã chính thức hoạt động vào ngày 2/6/2008, sau khi thực
hiện thành công kế hoạch cổ phần hóa thông qua việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra
công chúng ngày 26/12/2007.
Không ngừng nổ lực, sáng tạo vượt qua khó khăn, thử thách, tiếp tục thực hiện
phương châm “Tăng tốc – an toàn - chất lượng - hiệu quả” trong hoạt động kinh doanh,
nhiều năm liền trở lại đây VCB đã có những bước phát triển đột phá, đưa Ngân hàng
đạt mức lợi nhuận kỷ lục, luôn dẫn đầu hệ thống Ngân hàng tại Việt Nam.

Từ một ngân hàng chuyên phục vụ kinh tế đối ngoại, tính đến thời điểm cuối năm
2010 VCB đã phát triển rộng khắp toàn quốc với mạng lưới bao gồm hội sở chính tại
Hà Nội, 1 sở giao dịch, gần 400 chi nhánh và phòng giao dịch trên toàn quốc, 3 công ty
con tại Việt Nam, 2 công ty con tại nước ngoài, 1 văn phòng đại diện tại Singapore, 4
công ty liên doanh, 2 công ty liên kết. Bên cạnh đó VCB còn phát triển hệ thống
Autobank với gần 16.300 máy ATM và điểm chấp nhận thanh toán thẻ (POS) trên toàn
quốc. Hoạt động ngân hàng còn được hỗ trợ bởi mạng lưới hơn 1.300 ngân hàng đại lý
tại 100 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Hoạt động quản trị của VCB cũng tiếp tục được thực thi theo quan điểm điều
hành linh hoạt và quyết liệt, tạo đột phá trong hoạt động bán lẻ đi đôi với đẩy mạnh
bán buôn, bám sát với diễn biến thị trường, từng bước đưa ngân hàng phát triển theo
hướng hiện đại, chuyên nghiệp và hiệu quả, với mục tiêu chiến lược đưa VCB trở
thành tập đoàn tài chính đa năng nằm trong top 70 các định chế tài chính lớn nhất châu
Á và giữ vị thế hàng đầu tại Việt Nam.
Từ năm 2006 đến năm 2010, 5 năm liền nhận danh hiệu ngân hàng tốt nhất Việt
Nam do tạp chí Asiamoney bình chọn.
Từ năm 2008 đến năm 2010, 3 năm liên tiếp VCB được trao giải thưởng “ Ngân
hàng cung cấp dịch vụ thanh toán thương mại tốt nhất Việt Nam” do tạp chí Trade
Finance Magazine bình chọn.


Năm 2010 đạt giải thưởng “Thương hiệu quốc gia năm 2010” do Hội đồng
Thương hiệu Quốc gia trao tặng. Thương hiệu VCB được bình chọn là thương hiệu dẫn
đầu trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, nhận danh hiệu “ngân hàng nộp thuế thu nhập lớn
nhất Việt Nam” do Vietnam Report phối hợp với Tạp chí Thuế ( Tổng cục Thuế) và hội
đồng cố vấn VNR500 bình chọn và công bố, được thời báo Kinh tế Việt Nam và Cục
Xúc tiến Thương mại bình chọn và trao tặng “thương hiệu mạnh Việt Nam 2010”
2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh
Kinh tế thế giới năm 2011 đang đối mặt với những khó khăn về tài chính, tiềm ẩn
nhiều yếu tố bất lợi tác động đến nền kinh tế nước ta. Đây cũng là năm chính phủ chủ

trương tái cơ cấu nền kinh tế mà mục tiêu đầu tiên là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.
Vietcombank đã thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà
nước, cũng như chủ động, linh hoạt trong hoạt động kinh doanh vơi mục tiêu “Tăng tốc
– An toàn - Hiệu quả - Chất lượng” mà HĐQT đã đề ra từ đầu năm.
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của Vietcombank
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2009
2010
2011
2010/2009
2011/2010
Số tiền Số tiền Số tiền
+/%
+/%
Thu nhập
9.287 11.531 14.873 2.244 24
3.342 29
Chi phí
4.282
5.962
9.143 1.680 39
3.181 53
Lợi nhuận trước thuế
5.005
5.569
5.730
564 11
161
3

(Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2010, 2011 tại Vietcombank)
Biểu đồ 2.1: Lợi nhuận trước thuế của Vietcombank
ĐVT: Tỷ đồng

Trong bối cảnh đầy khó khăn, với sự điều hành linh hoạt và quyết liệt của ban
lãnh đạo, Vietcombank đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức đạt được những kết quả
khả quan, duy trì đà tăng trưởng cũng như giữ vững vai trò quan trọng ở nhiều mảng


hoạt động như: huy động vốn, tín dụng, thanh toán xuất nhập khẩu, kinh doanh thẻ,
kinh doanh ngoại tệ,... Cụ thể, lợi nhuận trước thuế năm 2010 của Vietcombank đạt
5.569 tỷ đồng tăng 564 tỷ đồng (tương đương tăng 11%) so với năm 2009, sang năm
2011 lợi nhuận trước thuế đạt 5.730 tỷ đồng, tăng 161 tỷ đồng (tương đương tăng 3%)
so với năm 2010, vượt kế hoạch đề ra. Mặc dù mức lợi nhuận tăng ít hơn so với giai
đoạn năm 2009 – 2010 nhưng đây là còn số khả quan trong bối cảnh tình hình kinh tế
gặp nhiều khó khăn như hiện nay.
2.1.3. Thuận lợi và khó khăn của VCB thời gian qua
2.1.3.1. Thuận lợi
Vốn điều lệ hiện tại lớn đã tạo ra nhiều sản phẩm tín dụng với nhiều đối tượng đa
dạng. Từ đó sẽ giúp VCB chi nhánh TP.HCM có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn so với
các ngân hàng khác.
Với thế mạnh về công nghệ, VCB là ngân hàng tiên phong trong việc ứng dụng
công nghệ hiện đại vào xử lý tự động các dịch vụ ngân hàng và không ngừng đưa ra
các sản phẩm dịch vụ điện tử nhằm “đưa ngân hàng tới gần khách hàng” như: Dịch vụ
Internet banking, VCB-Money (Home banking), SMS Banking, Phone banking…
VCB có một đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ và giàu kinh nghiệm, được đào
tạo bài bản về lĩnh vực tài chính, ngân hàng, có kiến thức về kinh tế thị trường, trình độ
ngoại ngữ, có khả năng thích nghi nhạy bén với môi trường kinh doanh hiện đại và
mang tính hội nhập cao nên VCB vẫn luôn là sự lựa chọn hàng đầu cho các tập đoàn
lớn, các doanh nghiệp trong và ngoài nước cũng như của hàng triệu khách hàng cá

nhân.
2.1.3.2. Khó khăn
Năm 2010, nền kinh tế toàn cầu dù đã thoát khỏi khủng hoảng nhưng vẫn chưa
hoàn toàn hồi phục. Thêm vào đó, nhiều nguy cơ mới xuất hiện: khủng hoảng nợ công
ở các quốc gia châu Âu, lạm phát cao ở Trung Quốc và các nền kinh tế mới nổi. Lạm
phát, lãi suất, tỷ giá, … có nhiều diễn biến phức tạp. Tăng trưởng tín dụng toàn hệ
thống ngân hàng cao (29,81%) trong khi tăng trưởng huy động vốn từ nền kinh tế chỉ
đạt khoảng 27,2%. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của
VCB.
Cũng trong năm này VCB nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung phải chịu
áp lực đáp ứng yêu cầu về các tỉ lệ an toàn theo thông tư 13/2010/TT-NHNN,
19/2010/TT-NHNN.
2.2. GIỚI THIỆU VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI
THƯƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh TPHCM tiền
thân là Ngân hàng Việt Nam Thương tín, về mặt pháp lý được thành lập sau ngày miền
Nam giải phóng, thống nhất đất nước (1-11-1976).


Nhưng trong thực tế thì VCB chi nhánh TP HCM đã thực hiện chức năng của nó
ngay từ sau ngày giải phóng miền nam với danh nghĩa Ngân hàng Việt Nam Thương
tín của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Trong thời kỳ đầu sau giải phóng, công tác đối ngoại của ngành ngân hàng không
chỉ bao gồm những đối tác có tính chất truyền thống của thế giới xã hội chủ nghĩa
trước đây. Có hàng loạt công việc mới mẻ trong quan hệ với các đối tác, trong hoàn
cảnh đó thì Ngân hàng Việt Nam Thương Tín với tiền thân của VCB chi nhánhTP.
HCM là nơi có những đóng góp thiết thực về mặt này.
Đến giữa năm 1976, sau hơn một năm hoạt động trong chức năng thừa kế, Ngân
hàng Việt Nam Thương tín mới đã hoàn thành những nhiệm vụ của mình. Đến lúc này

việc đứng dưới danh nghĩa Ngân hàng Việt Nam Thương tín không còn cần thiết nữa.
Ngày 28-9-1976, Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam Hoàng Anh đã ký
Quyết định số 951- NH/QĐ về việc thành lập chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam tại TP HCM.
Là chi nhánh lớn nhất hệ thống VCB, hoạt động tại khu vực kinh tế năng động
nhất cả nước, VCB chi nhánh TP.HCM đã nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần tích cực vào sự ổn định, phục hồi và phát triển
vượt bậc của kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Không chỉ thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh, VCB chi nhánh TP.HCM còn đẩy
mạnh quan tâm tới các hoạt động an sinh xã hội hướng tới cộng đồng với những
chương trình ý nghĩa có quy mô và tầm ảnh hưởng lớn như: Tặng sổ tiết kiệm cho thân
nhân chiến sĩ Trường Sa và các Mẹ Việt Nam Anh hùng; Thăm hỏi phụng dưỡng các
Mẹ VNAH; Hành trình thắp sáng ước mơ thiếu nhi Việt Nam; Vì một thế giới trẻ thơ;
Giúp học sinh vùng lũ trở lại trường; Nghĩa tình Trường Sơn; Thắp nến tri ân các anh
hùng liệt sỹ; Trao tặng nhà tình thương; Tết làm điều hay vì nông dân nghèo thành phố.
Với những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của TP. HCM
trong suốt thời gian qua, VCB chi nhánh TP.HCM đã vinh dự đón nhận Huân chương
Lao động Hạng Nhất do Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam trao tặng.
2.2.2. Cơ cấu tổ chức và chức năng của các phòng ban chức năng
2.2.2.1. Cơ cấu tổ chức
Bộ máy quản trị gồm: Giám Đốc quản lý chung tình hình hoạt động kinh doanh
và mọi liên quan phát sinh tại chi nhánh; các Phó Giám Đốc hỗ trợ cho Giám Đốc
trong điều hành và chỉ đạo thực hiện trong hoạt động tại chi nhánh; kế tiếp là các
phòng ban thực hiện các công việc chuyên môn nghiệp vụ riêng, đứng đầu là trưởng
phòng điều hành. Toàn chi nhánh có các nhân viên với các chuyên môn nghiệp vụ trải
đều tại các phòng nghiệp vụ và có sự phân công công tác rõ ràng.



2.2.2.2. Chức năng của một số phòng ban

• Ban giám đốc: Theo dõi lợi nhuận, chi phí, điều phối và đánh giá dữ liệu tài
chính.
Dự báo những yêu cầu tài chính, chuẩn bị ngân sách hàng năm, phân tích những
sai biệt, thực hiện động tác sửa chửa.
Thiết lập tình hình tài chính bằng cách triển khai, xác minh, báo cáo thông tin tài
chính.
Quản lý nhân viên.
Theo sát và đảm bảo chiến lược đề ra.
• Phòng nghiên cứu tổng hợp:
Nghiên cứu tổng hợp và phân tích kinh tế theo chỉ đạo của Giám đốc tất cả các
vấn đề có liên quan đến chi nhánh để tham mưu cho Giám đốc trong kinh doanh nhằm
thực hiện có hiệu quả chính sách khách hàng và chiến lược kinh doanh của Ngân hàng.
Tham mưu cho giám đốc trong việc chỉ đạo cân đối nguồn vốn cho công tác tín
dụng, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán trong nước.
Tổng hợp, phân tích thông tin về tình hình kinh tế đối ngoại phục vụ công tác
thông tin của chi nhánh, lập báo cáo tổng hợp thống kê.
• Phòng kế toán
Theo dõi sự biến động về nguồn vốn, hạch toán kinh tế theo pháp lệnh và thống
kê, thực hiện các dịch vụ thanh toán với khách hàng, tư vấn cho Giám đốc các biện
pháp nâng cao công tác kế toán và chất lượng dịch vụ thanh toán.
• Phòng khách hàng:
Đầu mối duy trì và phát triển quan hệ với khách hàng trên tất cả các mặt hoạt
động, tiếp thị, bán sản phảm, dịch vụ.
Thực hiện các công tác tiếp thị để mở rộng thị phần.
Xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh hàng tháng, hàng năm, đồng thời
theo dõi đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch.
Nghiên cứu và đề xuất cho Giám đốc Chi nhánh các nghiệp vụ phù hợp với địa
bàn hoạt động và theo dõi tiến độ thực hiện dự án.
Giải ngân theo tiến độ vay vốn và hợp đồng tín dụng đã được Chi nhánh ký kết
với khách hàng.

Tiếp nhận hồ sơ của khách hàng để xét duyệt, thẩm định chấp nhận cho vay theo
quy định, quy chế của ngân hàng.
Thực hiện thu hồi nợ theo các hợp đồng tín dụng đã ký kết với khách hàng.
Thực hiện công tác tự kiểm tra, kiểm soát các mặt hoạt động của đơn vị, đồng
thời chịu sự kiểm tra kiểm soát thường xuyên hoặc đột xuất của phòng nghiệp vụ
khách hàng.
Thực hiện một số hoạt động khác khi được hội đồng quản trị cho phép.


Kiểm soát các hồ sơ tín dụng trước khi giải ngân.
Hoàn chỉnh hồ sơ, lập thủ tục giải ngân, thanh lý, lưu trữ hồ sơ tín dụng.
Quản lý danh mục thu nợ và tình hình thu nợ.
Hướng dẫn, kiểm soát về mặt nghiệp vụ đối với các đơn vị trực thuộc.
• Phòng quản lý nợ :
Quản lý và thực hiện trực tiếp tác nghiệp liên quan đến việc mở tài khoản vay,
hợp đồng, cập nhật hệ thống, giải ngân, thu hồi nợ, đảm bảo số liệu trên hệ thống khớp
đúng số liệu trên hồ sơ.
• Phòng thanh toán quốc tế:
Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán xuất khẩu và thanh toán nhập khẩu bao gồm:
thực hiện L/C, thực hiện toàn bộ công tác quốc tế và mậu dịch, dịch vụ đối ngoại của
đơn vị trong và ngoài nước,…
• Phòng kinh doanh dịch vụ:
Mở và quản lý tài khoản không cư trú.
Chi trả kiều hối.
Nghiệp vụ tiết kiệm ngoại tệ.
Nghiệp vụ thanh toán nhờ thu séc du lịch do nước ngoài phát hành.
Nghiệp vụ chuyển tiền đến và đi nước ngoài.
Bán ngoại tệ tiền mặt, thanh toán chuyển tiền đến cho khách hàng quốc tế vãng
lai.
Nghiệp vụ chuyển tiền nhanh, tiết kiệm VND, ngoại tệ phát hành kỳ phiếu VND

và ngoại tệ.
• Phòng ngân quỹ:
Có chức năng tham mưu cho lãnh đạo trong lĩnh vực quản lý kho, quỹ và tài sản
theo các quy định về an toàn kho quỹ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành.
Trực tiếp thực hiện nghiệp vụ thu chi tiền mặt, ngân phiếu kịp thời, chính xác theo chế
độ.
• Phòng kinh doanh dịch vụ thẻ:
Phát hành thẻ: Nhận và thẩm định hồ sơ xin sử dụng thẻ, riêng thẻ Mastercard thì
trình ban giám đốc duyệt hạn mức, rồi làm thủ tục phát hành thẻ cho khách hàng.
Thanh toán: cho tất cả các đơn vị và các ngân hàng đại lý chấp nhận thẻ Visa
Master và thẻ thanh toán. Chi trả tiền mặt cho chủ thẻ, thu lãi, các khoản phí có liên
quan.
Công tác khách hàng: ký kết hợp đồng và hướng dẫn các nghiệp vụ cho đơn vị
chấp nhận thẻ, các ngân hàng đại lý, giải quyết khiếu nại, thắc mắc của khách hàng…
• Phòng Vi tính
Quản lý mạng lưới vi tính toàn chi nhánh để tổng hợp thông tin chính xác, kịp
thời phục vụ công tác chỉ đạo của lãnh đạo, đảm bảo thanh toán nhanh an toàn chính
xác.


Quản lý và bảo mật chương trình ứng dụng, bảo quản máy và hệ thống mạng máy
tính, thường xuyên kiểm tra, theo dõi việc chấp hành tại tất cả các bộ phận, đảm bảo
tuyệt đối, an toàn kỹ thuật, an toàn số liệu phản ánh hoạt động kinh doanh.
Chịu trách nhiệm chính về kỹ thuật trong việc mua sắm máy móc, thiết bị vi tính,
chịu trách nhiệm trong quản lý, bảo dưỡng, bảo trì máy móc, thiết bị có trong chi
nhánh.
• Phòng quản lý nhân sự:
Chức năng tham mưu cho Ban điều hành trong việc xây dựng và thực hiện kế
hoạch tuyển dụng đào tạo, bồi dưỡng và quản lý nguồn nhân lực toàn hệ thống.
• Phòng hành chính quản trị

Tổ chức thực hiện các công tác hành chính quản trị phục vụ cho hoạt động
nghiệp vụ của ngân hàng.
• Phòng kiểm tra nội bộ
Giám sát kiểm tra việc chấp hành chế độ, thể lệ của nhà nước, của ngân hàng của
VCB -TW về nghiệp vụ kinh doanh, quản lý và thu chi tài chính nhằm đảm bảo an toàn
tài sản của Nhà nước và của Ngân hàng trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, hoạt động tín
dụng, thanh toán, kế toán và ngân quỹ.
2.2.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh
Trong giai đoạn kinh tế đổi mới và hội nhập, VCB chi nhánh TP.HCM cũng đã có
những điều chỉnh căn bản hợp lý để thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tạo nên
nhiều đột phá, đưa kết quả kinh doanh của Chi nhánh nhiều năm liền đạt những con số
ấn tượng: các lĩnh vực Huy động vốn; Tín dụng, Kinh doanh ngoại tệ; Dịch vụ thẻ;
Khách hàng (giai đoạn 2007 đến 2011) đều phát triển vượt bậc, tăng trưởng từ 143%
đến 237%.
Bảng 2.2: Kết quả hoạt động kinh doanh của VCB chi nhánh HCM
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2009
2010
2011
2010/2009
2011/2010
Số tiền Số tiền Số tiền
+/%
+/%
Thu nhập
2.820
3.243
3.697
423

15
454
14
Chi phí
1.830
1.922
2.018
92
5
96
5
Lợi nhuận
990
1.322
1.680
332
34
358
27
trước thuế
(Nguồn: Báo cáo hoạt động tại chi nhánh)


Biểu đồ 2.2: lợi nhuận trước thuế của Vietcombank chi nhánh TP.HCM
ĐVT: Tỷ đồng

Năm 2010 lợi nhuận trước thuế của VCB chi nhánh HCM đạt 1.322 tỷ đồng tăng
34% so với năm 2009, đây là một sự thành công có lẽ do sự chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng
của chi nhánh: điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay, tập trung đẩy mạnh dịch vụ
kinh doanh tiền tệ, phát triển các dịch vụ kinh doanh ngân hàng khác. Năm 2011 là

năm nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng gặp rất nhiều khó khăn như:
lạm phát tăng cao, tình hình lãi suất, tỷ giá biến động phức tạp. Đây cũng là năm quan
trọng để các ngân hàng Việt Nam hoạt động theo các quy định của luật TCTD mới.
Việc giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với các TCTD thông qua luật mới sẽ theo
xu hướng chặt chẽ hơn, yêu cầu cao hơn. Tính đến ngày 31/12/2011, lợi nhuận trước
thuế của chi nhánh đạt 1.680 tỷ đồng tăng 27% so với năm 2010. Điều này cho thấy chi
nhánh đã thích nghi một cách linh hoạt với môi trường kinh doanh. Chi nhánh vẫn duy
trì cơ cấu tín dụng hợp lý, luôn chú trọng đến chất lượng tín dụng, hạn chế tối đa nợ
xấu, vẫn giữ vững thế mạnh kinh doanh ngoại hối của mình.
Qua đây, VCB chi nhánh HCM cũng từng bước khẳng định vị trí của mình trong
hệ thống nói riêng và trên thị trường tài chính nói chung, tạo được niềm tin và uy tín
trong lòng khách hàng góp phần hoàn thành tốt định hướng hoạch định trong tương lai
của ngân hàng.
2.2.4. Thuận lợi và khó khăn của VCB chi nhánh TP.HCM thời gian qua
2.2.4.1. Thuận lợi:
Với mạng lưới hoạt động rộng khắp của mình, phân bố ở những vị trí thuận lợi
VCB chi nhánh TP.HCM có thể thu hút tất cả các đối tượng khách hàng đồng thời


khách hàng có thể tiếp cận một cách nhanh chóng với các đơn vị của VCB chi nhánh
TP.HCM khi có nhu cầu.
VCB chi nhánh TP.HCM có đội ngũ nhân viên trình độ cao, thường xuyên được
đào tạo nghiệp vụ, kỹ năng làm việc. Điều này giúp cho khả năng tư vấn, phục vụ
khách hàng ngày càng tốt hơn. Góp phần thu hút khách hàng đến với VCB ngày càng
nhiều hơn.
VCB chi nhánh TP.HCM có nhiều loại sản phẩm tín dụng đa dạng phù hợp với
từng đối tượng khách hàng.
VCB chi nhánh TP.HCM là ngân hàng mạnh nhất trong lĩnh vực thanh toán quốc
tế, giao dịch ngoại hối, dịch vụ thẻ, các sản phẩm và dịch vụ công nghệ cao.
2.2.4.2. Khó khăn:

Sau khi nước ta gia nhập WTO, sự cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Các ngân
hàng nước ngoài có ưu thế lớn so với VCB chi nhánh TP.HCM và các ngân hàng Việt
Nam ở nhiều mảng như: vốn, trình độ quản lý, kinh nghiệm về lĩnh vực ngân hàng bán
lẻ… Họ có thể tạo ưu thế cạnh tranh về lãi suất, sự đa dạng hóa sản phẩm cùng chất
lượng dịch vụ được đánh giá là tốt hơn hẳn các ngân hàng trong nước. VCB chi nhánh
TP.HCM vẫn chưa đủ sức lực về vốn cũng như kinh nghiệm trong quá trình cạnh tranh
gay gắt này.
Cơ cấu khách hàng tuy đã được đa dạng hóa rất nhiều nhưng vẫn còn phụ thuộc
vào một số khách hàng lớn, truyền thống. Vì vậy cần phải tiếp tục đa dạng hóa hơn
nữa, tiếp tục tìm kiếm khách hàng mới để tạo ra sự ổn định.


CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI
NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. PHÂN TÍCH QUY TRÌNH CHO VAY
Bước 1: Tiếp nhận hồ vay: Phòng Quan hệ khách hàng tiếp nhận hồ sơ vay từ
khách hàng.
Kiểm tra và hướng dẫn các điều kiện, thủ tục, hồ sơ vay vốn cho khách hàng.
Bước 2: Xác minh, thẩm định: P.QHKH tiến hành thu thập thông tin, xác minh
thẩm định TSĐB, tình hình họat động kinh doanh, tình hình tài chính và các vấn đề
liên quan đến khoản vay.
Tổng hợp và lập tờ trình lên Ban giám đốc.
Bước 3: Công chứng thế chấp, đăng ký TSĐB: Sau khi tờ trình đã được duyệt
thuận, P. QHKH tiến hành công chứng thế chấp tài sản đảm bảo, đăng ký tài sản đảm
bảo theo quy định.
Bước 4: Giải ngân: Sau khi thủ tục công chứng, đăng ký TSĐB hoàn tất,
P.QHKH nhận giấy tờ bản chính TSBĐ của khách hàng và chuyển hồ sơ cho P.QLTD
kiểm tra và trình ký giải ngân.
P.QLTD tiến hành nhập kho hồ sơ TSĐB và lưu giữ hồ sơ vay theo quy định.

Thông báo giải ngân cho P.NQ chậm nhất vào cuối mỗi ngày làm việc.
Bước 5: Thu lãi vốn vay định kỳ: P.QHKH theo dõi đốn đốc khách hàng để thu
lãi, vốn vay đúng hạn.
Bước 6: Tất toán nợ vay: P. QHKH tiến hành hạch toán, thu vốn, lãi.
Chuyển hồ sơ sang P.QLTD trình giải chấp và bàn giao hồ sơ TSĐB cho khách
hàng.
P.QLTD lưu hồ sơ.



3.2. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN
Huy động vốn là công việc đầu tiên, làm nền tảng cho những hoạt động tiếp theo
của quá trình kinh doanh Ngân hàng. Với vị trí và uy tín đã tạo dựng qua nhiều năm,
VCB chi nhánh TP.HCM đã hoàn thành tốt công tác huy động vốn theo kế hoạch đã
xây dựng, đóng góp vào thành tích huy động vốn chung của toàn hệ thống Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam. Sáu tháng đầu năm 2011, ngành ngân hàng liên tục có nhiều
biến động, đặc biệt về lãi suất tín dụng theo hướng không có lợi cho hoạt động của các
ngân hàng. NHNN liên tục điều chỉnh các lãi suất điều hành theo hướng thắt chặt và
đưa ra trần lãi suất huy động VND và USD nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn
định kinh tế vĩ mô. Các ngân hàng sẽ phải huy động vốn với cùng một mức lãi suất
theo quy định của NHNN, nếu ngân hàng nào huy động vượt trần thì sẽ có những hình
thức xử lý thích đáng.
Với việc cào bằng lãi suất huy động như vậy đòi hỏi các Ngân hàng phải năng
động hơn nhiều, liên tục triển khai các chương trình khuyến mại huy động có thưởng,
đưa ra nhiều sản phẩm huy động phù hợp với nguyện vọng của dân cư, tăng cường
quảng bá hình ảnh của mình nhằm thu hút khách hàng.
Bảng 3.1: Tình hình huy động vốn từ năm 2008 đến năm 2011 của VCB TP.HCM
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2008

2009
2010
2011
Số tiền
Tỷ
Số tiền Tỷ
Số tiền
Tỷ trọng Số tiền
trọng
trọng
Nguồn vốn
30.888 100% 33.976
100%
39.073
100%
44.544
huy động
Phân theo
kỳ hạn
Ngắn hạn
24.710
80% 28.880
85%
27.351
70%
36.526
Trung và
6.178
20%
5.097

15%
11.722
30%
8.018
dài hạn
Phân theo
loại
tiền
gửi
Huy động
23.166
75% 24.463
72%
25.397
65%
30.290
nội tệ
Huy động
7.722
25%
9.513
28%
13.676
35%
14.254
ngoại tệ
(Nguồn: báo cáo hoạt động tại VCB chi nhánh TP.HCM)

Tỷ
trọng

100%

82%
18%

68%
32%


×