Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tiểu Luận Toàn Cầu Hòa và vấn đề hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.76 KB, 34 trang )

Trường Đại Học Duy Tân
Khoa Lý Luận – Chính Trị

TIỂU LUẬN MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI : TOÀN CẦU HÓA VÀ VẤN ĐỀ HỘI NHẬP QUỐC
TẾ CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY



GVHD : Nguyễn Thị Thành Lê



Lớp : HIS 361 S



Nhóm :

1.

Lê Thị Kim Oanh

MSSV : 2120524752

2.

Mai Thị Thảo

MSSV : 2120526685



3.

Võ Cảnh Toàn

MSSV : 2121524670

Đà Nẵng, 12/2019


MỤC LỤC
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
I. Khái quát về vấn đề toàn cầu hóa và xu thế hội nhập của Việt Nam hiện nay..........1
1. Khái quát về vấn đề toàn cầu hóa..........................................................................1
2. Xu thế hội nhập của Việt Nam hiện nay................................................................2
B. NỘI DUNG..............................................................................................................5
I. Vấn đề toàn cầu hóa...................................................................................................5
1. Khái niệm toàn cầu hóa..........................................................................................5
2. Những biểu hiện của vấn đề toàn cầu hóa.............................................................5
a. Biểu hiện tích cực................................................................................................5
b. Biểu hiện tiêu cực...............................................................................................7
3. Hướng giải quyết của các quốc gia trong vấn đề toàn cầu hóa..............................8
a. Không hội nhập, nguyên nhân............................................................................8
b. Hội nhập chủ động............................................................................................14
II. Hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay......................................24
1. Khái niệm về hội nhập quốc tế.............................................................................24
2. Sự cần thiết của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam..........................24
3. Điều kiện, nhiệm vụ và qua điểm của Đảng về vấn đề hội nhập quốc tế............26
a. Điều kiện...........................................................................................................26

b. Nhiệm vụ...........................................................................................................27
c. Quan điểm chỉ đạo của Đảng............................................................................29
C. KẾT LUẬN...........................................................................................................31
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................32


A. MỞ ĐẦU
I. Khái quát về vấn đề toàn cầu hóa và xu thế hội nhập của Việt Nam hiện
nay
1. Khái quát về vấn đề toàn cầu hóa
Toàn cầu hoá đang là xu hướng tất yếu và ngày càng được mở rộng. Tính
tất yếu của toàn cầu hoá trước hết được biểu hiện ở tính tất yếu kinh tế. Toàn cầu
hoá kinh tế là khía cạnh quan trọng nhất của toàn cầu hoá; nó đang tác động
mạnh mẽ đến lĩnh vực chính trị. Đến lượt mình, những thay đổi về chính trị lại
có tác động trở lại đối với kinh tế. Song, cái cần quan tâm và nhấn mạnh lại
chính là sự tác động của kinh tế và những thay đổi chính trị đối với văn hoá
trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Toàn cầu hóa không phải là hiện tượng mới mẻ, mà trái lại, đã xuất hiện ở
thế kỷ XV và diễn ra mạnh mẽ hơn ở cuối thế kỷ XIX. Cho đến nay, vẫn còn
đang có những ý kiến khác nhau về nguồn gốc và bản chất của quá trình toàn cầu
hoá. Một số người cho rằng, quá trình toàn cầu hoá bắt đầu từ khi người Thổ Nhĩ
Kỳ kiểm soát con đường tơ lụa. Với một số người khác, quá trình đó được bắt
đầu từ sự kiện vượt qua vùng biển thuộc mũi Hảo Vọng và việc khám phá ra
châu Mỹ, nhờ đó thế giới được mở rộng và các nguồn tài nguyên của thế giới từ
các châu lục khác được chuyển về châu Âu. Trong khi đó, một số người khác lại
tin rằng, toàn cầu hoá diễn ra từ cuối thế kỷ XIX cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của cuộc cách mạng công nghiệp tạo nên sự phát triển của lực lượng sản xuất và
các phương tiện vận tải.
Nhưng, dù xuất hiện sớm hơn hay muộn hơn, trong thời đại hiện nay, toàn
cầu hóa mang một nội dung với những nét đặc thù mới. Một số học giả gọi toàn


Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 1


cầu hóa hiện nay là toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Bởi lẽ, quá trình đó đang chịu
sự chi phối mạnh mẽ của các nước tư bản, đặc biệt là các nước tư bản lớn.
Toàn cầu hóa hiện nay đang tác động hết sức mạnh mẽ đến các quốc gia
dân tộc, đến đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng như đến cuộc
sống của từng người. Cách nhìn nhận và thái độ đối với toàn cầu hoá là hết sức
khác nhau. Trong khi một số nước đang phát triển tiếp nhận toàn cầu hoá một
cách hồ hởi thì ở nhiều nước phát triển, phong trào chống toàn cầu hoá lại diễn ra
một cách rộng khắp và thu hút hàng vạn người tham gia. Song, bất chấp thái độ
khác nhau, ủng hộ hay phản đối, toàn cầu hoá vẫn là một xu thế tất yếu và ngày
càng được mở rộng mà mỗi quốc gia dân tộc phải đối mặt với nó. Vậy tính tất
yếu của toàn cầu hoá được biểu hiện như thế nào?
Tính tất yếu của toàn cầu hoá trước hết được biểu hiện ở tất yếu kinh tế.
Kinh tế, như mọi người đều biết, là nhân tố đóng vai trò quyết định đối với sự
phát triển của văn minh nhân loại. Thực ra, thuật ngữ văn minh nhân loại vừa
mang ý nghĩa vật chất, vừa mang ý nghĩa tinh thần. Ưu thế của một nền văn
minh được thể hiện trong sự hoà quyện và kết hợp giữa yếu tố vật chất và yếu tố
tinh thần. Với ý nghĩa đó, lịch sử của nhân loại là lịch sử của sự giải phóng mang
tính chất tiến bộ khỏi sự tước đoạt về vật chất, đồng thời là lịch sử phát triển của
tự do thuộc về vương quốc của tinh thần.
2. Xu thế hội nhập của Việt Nam hiện nay
Việt Nam bắt đầu tiến hành mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế khu vực
và thế giới từ năm 1986. Nhờ chủ trương đổi mới, mở cửa, trong gần 20 năm
qua, Việt Nam đã thu được những thành tựu hết sức to lớn trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội. Trên lĩnh vực kinh tế, Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng vào loại

cao trong khu vực. Chẳng hạn, trong thập kỷ 70, tốc độ tăng trưởng GNP trung
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 2


bình hàng năm của các nước, các vùng lãnh thổ trong khu vực là: 9,6% (Hàn
Quốc), 8,3% (Hồng Kông), 7,9% (Malaixia), 7,2% (Inđônêxia), 7,1% (Thái Lan)
và 6% (Philippin). Nhưng từ 1980 đến 1991, tốc độ tăng GNP hàng năm đã có sự
thay đổi như sau: 9,6% ở Hàn Quốc, 9,4% ở Trung Quốc, 6,9% ở Hồng Kông,
6,6% ở Singgapo, 5,7% ở Malaixia, 5,6% ở Inđônêxia, ở Philippin chỉ là
1,1%(7). Tính từ 1985 đến 1996, tốc độ tăng trưởng GNP hàng năm của Việt
Nam là trên 8,5%, từ năm 2001- 2005, tốc độ đó đạt mức trên dưới 8%. Như vậy,
nếu so sánh với các nước, các vùng lãnh thổ trong khu vực, tốc độ tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam được xếp vào hàng cao nhất trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, ngay từ năm 1994, nhiều nhà kinh tế cũng như lãnh đạo của
Việt Nam đã nói đến nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Cho đến nay, trải qua
hơn 10 năm tiếp tục đổi mới, nguy cơ đó vẫn tồn tại và hết sức lớn. Để tránh
nguy cơ đó, trong những năm gần đây, Việt Nam chủ trương đẩy mạnh công
nghiệp hoá và hiện đại hóa, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn
theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong môi trường hội nhập và cạnh tranh quốc
tế. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn để khắc phục nguy cơ tụt hậu. Tuy
nhiên, chủ trương đó được thực hiện trong điều kiện năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế tuy có tiến bộ, nhưng vẫn còn thấp xa so với yêu cầu phát triển và hội
nhập kinh tế quốc tế; tích luỹ từ nền kinh tế để công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn
thấp; kết cấu hạ tầng lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, v.v..
Do vậy, những khó khăn của việc thực hiện quá trình công nghiệp hóa và hiện
đại hóa là không nhỏ. Xét về mặt cơ cấu của nền kinh tế, Việt Nam vẫn là nước
nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn. Sự chuyển dịch lao
động từ nông nghiệp và nông thôn sang các ngành nghề khác còn rất khó khăn.

Tỷ trọng lĩnh vực dịch vụ có phần chững lại. Tỷ lệ lao động được đào tạo và lao
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 3


động có trình độ cao còn rất thấp. Sự lãng phí trong đầu tư còn quá lớn. Thêm
vào đó, nền công nghiệp lại phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở 2 đầu của
đất nước. Người lao động có trình độ cao chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn.
Do đó, sự phát triển công nghiệp ở các vùng sâu, vùng xa đã khó khăn lại càng
khó khăn hơn.
Bên cạnh đó, những tiềm năng của các thành phần kinh tế chưa được phát
huy hết. Kinh tế nhà nước chưa làm tốt được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân. Kinh tế tập thể chậm phát triển. Kinh tế tư nhân chưa phát triển đúng
với tiềm năng của nó nhằm tạo động lực cho toàn bộ nền kinh tế, v.v..
Những thách thức về kinh tế sẽ tăng lên gấp bội, nếu như trong vài năm
tới, nước ta hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do đó, nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là nguy cơ thực tế. Bản thân nguy cơ này có bị loại
trừ hay không, điều đó phụ thuộc vào sự thành công của công cuộc đổi mới và sự
chuẩn bị các nguồn lực cho quá trình hội nhập tiếp theo của nền kinh tế.
Cùng với thách thức về kinh tế, toàn cầu hóa đang đặt ra cho nước ta
những thách thức lớn về mặt xã hội.

Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 4


B. NỘI DUNG
I. Vấn đề toàn cầu hóa

1. Khái niệm toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là một quá trình biến các vùng miền, các cộng đồng người
khác nhau từ trạng thái biệt lập, tách rời nhau thành một trạng thái khác về chất,
bằng sự liên kết gắn bó thành một thể thống nhất hữu cơ trên quy mô toàn cầu.
Khi đó, một sự kiện, một hiện tượng, một vấn đề xảy ra ở vùng miền này, ở cộng
đồng người này sẽ có ảnh hưởng, tác động tới các vùng miền, các cộng đồng
người khác trên quy mô toàn thế giới
2. Những biểu hiện của vấn đề toàn cầu hóa
a. Biểu hiện tích cực
Một là, toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy tự do hoá mậu dịch phát triển. Nhìn
lại tình hình buôn bán của các nước trên thế giới hiện nay, hầu như không còn
tồn tại tình trạng thị trường đơn nhất ngay cả ở cường quốc kinh tế phát triển.
Giờ đây, hầu như thị trường nội địa của các nước đều gắn với thị trường thế giới,
là bộ phận của thị trường thế giới. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước cũng
như ngành ngoại thương đóng vai trò rất lớn đối với tăng trưởng tổng sản lượng
quốc nội (GDP). Năm 2004, mức độ phụ thuộc của GDP Mỹ vào ngành ngoại
thương tới 25,9%, năm 2005, mức độ phụ thuộc của GDP Trung Quốc với ngành
ngoại thương và buôn bán đối ngoại tới 61%. Do tính phụ thuộc vào ngành ngoại
thương ngày càng cao, nên mức độ tự do hoá mậu dịch của các nước trong khu
vực Đông Nam Á cao hơn của các nước ở Mỹ Latinh. Bởi vì, tới nay sự phát
triển kinh tế của các nước Mỹ Latinh chủ yếu dựa vào nội thu, trong khi nhân tố
nhu cầu nước ngoài thấp hơn nhiều so với các nước Đông Á.

Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 5


Hai là, toàn cầu hoá kinh tế đã đẩy mạnh tiến trình quốc tế hoá lưu chuyển
vốn, có lợi cho tự do hoá đầu tư. Từ năm 2001 tới 2003, mặc dù đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI) giảm sút rất lớn, nhưng bắt đầu từ năm 2004 đã có dấu hiệu
tăng trưởng trở lại. Theo “Báo cáo đầu tư năm 2005” do Hội nghị phát triển mậu
dịch Liên hợp quốc công bố, tổng số FDI trên toàn thế giới đã lên tới 648 tỷ
USD, tăng 2% so với năm 2003. Điều này cho thấy xu thế đầu tư quốc tế giảm
sút từ năm 2001 tới 2003 đã được ngăn chặn và bắt đầu gia tăng trở lại trên thế
giới. Năm 2004, các nước Phương Tây đã tiếp nhận FDI trị giá khoảng 380 tỷ
USD, giảm 14% so với năm 2003. Trong khi đó, FDI ở các nước đang phát triển
tăng 40%, với tổng giá trị 233 tỷ USD. Rõ ràng nếu không có toàn cầu hoá kinh
tế thì không thể quốc tế hoá vốn và di chuyển dễ dàng từ nước này qua nước
khác. Toàn cầu hoá kinh tế chẳng những thúc đẩy FDI tăng lên mà ở mức độ lớn
đã thúc đầy tự do hoá đầu tư. Mấy năm qua, do môi trường đầu tư được cải thiện,
xu thế lưu thông tự do đầu tư đã tăng lên rõ rệt. “Báo cáo của Hội nghị mậu dịch
Liên Hợp quốc” năm 2004 cho biết hai nước có FDI đổ vào nhiều nhất là Mỹ và
Anh, trong đó Mỹ tiếp nhận tới 96 tỷ USD và nước Anh tới 78 tỷ USD. Mặc dù
các nước đang phát triển đã ra sức mở cửa thị trường vốn của mình và đưa ra
nhiều chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài, nhưng do cơ chế và thị
trường còn nhiều khâu yếu kém, nên trình độ tự do hoá tiền vốn của các nước
đang phát triển kém hơn nhiều so với các nước phát triển. Đây chính là vấn đề
mà các nước đang phát triển cần nghiên cứu và hoàn thiện để tận dụng được cơ
hội tốt của toàn cầu hoá.
Ba là, toàn cầu hoá kinh tế đã “bật đèn xanh” cho tự do hoá lưu chuyển
tiền tệ. Trong điều kiện ngày nay, mọi tổ chức ngân hàng, tài chính, tiền tệ và thị
trường chứng khoán của các nước đều phải phát triển theo xu thế toàn cầu hoá.
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 6


Nếu ra đời xu thế này, thì không thể nói tới tự do hoá lưu chuyển tiền vốn. Ba thị
trường chứng khoán nổi tiếng là New York, London và Tokyo giờ đây đã len lỏi

tới khắp nơi trên thế giới đề thu hút tiền vốn. Thông qua việc không ngừng điều
chỉnh tỷ giá hối đoái, những đồng tiền như USD, Euro và đồng Franc của Thuỵ
Sĩ đều trở thành đồng tiền dự trữ và có thể tự do lưu hành ở các nước. Tóm lại,
tiền tệ được tự do lưu hành như hiện nay rõ ràng do tác động mạnh mẽ của tiến
trình toàn cầu hoá.
Bốn là, toàn cầu hoá đã thúc đẩy phát triển sản xuất xuyên quốc gia. Mấy
năm qua, đặc điểm nổi bật nhất của sản xuất xuyên quốc gia là sản xuất của các
công ty xuyên quốc gia mở rộng mạnh mẽ ra các nước. Đầu năm 1994, Khu vực
mậu dịch tự do Bắc Mỹ vừa mới khởi động, các công ty xuyên quốc gia của Mỹ
đã nhân cơ hội này thành lập một loạt công ty con ngay gần biên giới Mehico.
Những công ty này đã lợi dụng nguyên vật liệu, tài lực, vật lực của địa phương
sản xuất hàng hoá giá rẻ đưa về thị trường nội địa Mỹ. Mấy năm qua, hầu hết các
công ty xuyên quốc gia lớn của Mỹ và các nước trên thế giới đều tới Trung Quốc
lập văn phòng hoặc trụ sở công ty để tiến hành sản xuất kinh doanh ngay tại
Trung Quốc.
b. Biểu hiện tiêu cực
Một là, toàn cầu hóa kinh tế làm nảy sinh nhiều vấn đề cho xã hội con
người. Bên cạnh những mặt tốt, mặt tích cực, nó gây ra không biết bao nhiêu
điều tiêu cực, gây ra những hậu quả khôn lường cho từng quốc gia, dân tộc, thậm
chí cho cả một khu vực.
Hai là, toàn cầu hoá kinh tế sẽ tác động làm gia tăng thất nghiệp, sẽ dẫn tới
phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư ở từng nước, và phân hóa giàu
nghèo giữa các quốc gia.
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 7


Ba là, toàn cầu hóa cũng là cơ hội, điều kiện để cho những nước giàu,
những tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia khống chế kinh tế các nước kém phát

triển.
Bốn là, toàn cầu hóa kinh tế cũng là cơ sở để nảy sinh các cuộc cạnh tranh
gay gắt các lĩnh vực kinh tế như “chiến tranh thương mại”, “chiến tranh tiền
tệ” ... “chiến tranh thị trường”... giữa các nước, từ đó gây nên sự biến động kinh
tế khu vực và thế giới. Trong các cuộc cạnh tranh gay gắt đó nước thua thiệt nhất
vẫn là các nước kém phát triển.
Năm là, toàn cầu hóa kinh tế còn dẫn đến nguy cơ phá vỡ các nền văn hóa
truyền thống của các dân tộc, nhất là các truyền thống văn hóa nhân văn và nhạy
cảm như : lối sống, đạo đức, nghệ thuật,… Bởi lẽ toàn cầu hóa kinh tế là cơ sở,
là điều kiện làm cho các dòng thác văn hóa, lối sống giữa các nước tràn ngập vào
nhau một cách ồ ạt, bất khả kháng, nước chủ nhà dù có muốn chặn lại cũng
không thể chặn nổi.
3. Hướng giải quyết của các quốc gia trong vấn đề toàn cầu hóa
a. Không hội nhập, nguyên nhân
Quá trình toàn cầu hóa hiện đang bước vào một ngã rẽ quan trọng, bởi vì
những thách thức mà nó đang đối mặt sẽ quyết định con đường phát triển của nó
trong vài năm tới đây. Chúng ta cần phải nhận thức được rằng, môi trường hiện
tại đang rất thiếu ổn định và những thách thức mà chúng ta đang đối mặt cần
được giải quyết ổn thỏa để có thể đạt được một phiên bản toàn cầu hóa vững
chắc hơn.
Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa đã đạt đến một tầm cao chưa từng thấy:
chỉ số toàn cầu hóa được tổng hợp bởi Viện Kinh tế Thụy Sỹ đang ở mức cao
nhất mọi thời đại, và 3 trong số 4 trụ cột (hàng hóa, dòng chảy vốn và con người,
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 8


ngoại trừ dịch vụ) cũng phản ánh mức độ toàn cầu hóa sâu rộng. Tương tự như
vậy, tỷ lệ tổng kim ngạch thương mại trên tổng GDP vào những năm 1970 cũng

vượt xa cột mốc đỉnh cao của chính nó vào năm 1913, trong làn sóng toàn cầu
hóa lần thứ nhất.
Đây là một kết quả từ tiến trình tự do hóa thương mại hàng hóa. Và mặc
dù tốc độ phát triển có dấu hiệu chậm lại trong những năm gần đây, do các biến
cố bùng nổ theo chu kỳ (những cuộc Đại Suy thoái) và các tác động mang tính
cấu trúc (sự phân mảnh của chuỗi cung ứng toàn cầu), các dòng chảy thương mại
ngày nay vẫn luôn duy trì ở mức cao. Ngược lại, một điểm nghẽn to lớn vẫn tiếp
tục tồn tại trong lĩnh vực dịch vụ: mặc dù tỷ lệ các ngành dịch vụ trên tổng giá trị
xuất khẩu tăng từ 9% vào năm 1970 lên thành 25% vào năm 2018, các rào cản
quy định vẫn còn rất khắt khe đối với rất nhiều lĩnh vực (chẳng hạn như các dịch
vụ tài chính và viễn thông).
Nhiều nhà kinh tế học ủng hộ việc thiết lập thêm nhiều hiệp định thương
mại tự do đầy tham vọng, nhằm đẩy mạnh thương mại dịch vụ. Điều này hoàn
toàn có thể trở thành hiện thực trong một thời đại mà những thay đổi công nghệ
có thể giúp đơn giản hóa các hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu dịch vụ. Lĩnh
vực tài chính cũng đã đạt đến trình độ hội nhập rất cao, mặc dù cuộc khủng
hoảng tài chính từng gây ra một số trì trệ, khiến các dòng chảy vốn ngân hàng
xuyên biên giới bị kiểm soát gắt gao hơn.
Vấn đề toàn cầu hóa dòng chảy con người cũng ngày càng quan trọng và
đang nhận được sự quan tâm nhất định trong các cuộc tranh luận của công
chúng, bởi ảnh hưởng kinh tế của nó và bởi những tai tiếng từ cuộc khủng hoảng
di cư tị nạn (từ năm 2000 đến 2017, đã có khoảng 33,000 người di cư mất mạng
trên biển Địa Trung Hải khi đang hướng về châu Âu, theo số liệu của Liên Hiệp
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 9


Quốc). Mặc dù tỷ lệ người di cư trên tổng dân số vẫn duy trì ở mức ổn định,
khoảng 3% trong suốt 100 năm qua, con số thực tế đã tăng lên 244 triệu người,

trong đó 19% đang sinh sống tại Hoa Kỳ và 23% tại Liên minh châu Âu. Đa
phần các dòng chảy di cư là từ các nước đang phát triển sang các nước đã phát
triển, và 40% trong số họ di cư dưới hình thức tham gia chương trình đại học. Xu
hướng này ngày càng tăng lên trong bối cảnh bùng nổ cạnh tranh thu hút nhân tài
trên toàn cầu, dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám tại các nền kinh tế đang
phát triển.
Sau khi miêu tả vắntắt những yếu tố khác nhau tạo nên quá trình toàn cầu
hóa, chúng ta phải phân tích những thách thức đang gặp phải. Thách thức đầu
tiên chính là việc củng cố các thể chế toàn cầu quan trọng (như Qũy Tiền tệ
Quốc tế - IMF, Ngân hàng Thanh toán Quốc tế - BIS, và Tổ chức Thương mại
Thế giới - WTO). Các tổ chức này được thành lập sau Chiến tranh Thế giới Thứ
hai và hỗ trợ làn sóng toàn cầu hóa hiện nay.
Ví dụ như IMF, cơ quan này nên hiện đại hóa hệ thống quản trị doanh
nghiệp của mình, để tạo sức ảnh hưởng cao hơn lên các nền kinh tế mới nổi,
những nơi đã phát triển mạnh mẽ nhờ vào tiến trình toàn cầu hóa. Rất khó để
biện hộ cho việc một số nước trong OECD nắm 64% quyền biểu quyết ra quyết
định, trong khi họ chỉ chiếm 46% tổng GDP toàn cầu, hay như quyền biểu quyết
của Trung Quốc chỉ chiếm 6% trong khi nước này hiện nắm giữ đến 19% nền
kinh tế toàn cầu. Còn đối với BIS, việc các dòng chảy tài chính toàn cầu ngày
càng gắn kết chặt chẽ với nhau hơn cho thấy cơ quan này và các thể chế tài chính
khác nên giữ một vai trò chủ động hơn, nhằm thúc đẩy hợp tác trong chính sách
tiền tệ và tài chính vĩ mô. Cuối cùng, WTO nên đóng một vai trò quan trọng hơn

Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 10


trong việc giúp Trung Quốc hội nhập một cách hài hòa vào nền thương mại toàn
cầu.

Thách thức thứ hai là vấn đề phân bổ tốt hơn những lợi ích tổng thể. Điều
quan trọng là phải nhấn mạnh được những tác động tích cực của quá trình toàn
cầu hóa trong những thập kỉ gần đây: ở các nước đang phát triển, quá trình này
giúp cho hàng triệu người dân thoát khỏi cảnh nghèo đói, còn ở các nền kinh tế
tiến bộ, nó tạo ra những giá trị quan trọng cho sự thịnh vượng của người dân,
chẳng hạn như việc họ có thể lựa chọn nhiều mặt hàng tiêu dùng đa dạng, với
mức giá phải chăng.
Tuy nhiên, công bằng mà nói, mặc cho những lợi ích này, toàn cầu hóa
cũng gây ra tác động xấu lên một vài lĩnh vực nhất định: theo thống kê của hai
nhà kinh tế học tại Đại học MIT, Acemoglu và Autor, 10% số công việc sản xuất
bị mất đi ở Hoa Kỳ từ năm 1999 đến 2011 (khoảng 560,000 công việc) do đối
mặt với sự cạnh tranh thương mại gắt gao của Trung Quốc. Trong bất kì trường
hợp nào, chúng ta cũng cần tự hỏi tại sao những cuộc tranh luận xoay quanh một
mô hình toàn cầu hóa bao trùm hơn, với mục đích bồi thường kẻ thua và ngăn họ
không bị loại bỏ khỏi một nền kinh tế mới, ngày càng sôi nổi hơn bao giờ hết.
Câu trả lời chính là, khi mức độ tiếp cận toàn cầu hóa của một nền kinh tế
còn giới hạn, thì lợi ích của việc hội nhập sâu rộng sẽ cao hơn, vì tổng thu nhập
thực sự của nền kinh tế sẽ có dấu hiệu tăng lên rõ ràng. Tuy nhiên, khi mà nền
kinh tế đã đạt đến một trình độ toàn cầu hóa nhất định, sẽ không còn nhiều
khoảng trống để tăng kích thước của chiếc bánh lợi ích, trong khi đó, mất mát
gây ra từ các lĩnh vực bị ảnh hưởng tiêu cực lại tăng lên. Đây là lý do tại sao,
việc xúc tiến các biện pháp như chính sách lao động chủ động hay chính sách

Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 11


bảo đảm thu nhập trong giai đoạn thất nghiệp của những người bị ảnh hưởng bất
lợi bởi quá trình thay đổi lại trở nên ngày một quan trọng.

Cuối cùng, thách thức thứ ba của quá trình toàn cầu hóa đó là phải áp dụng
các cơ chế nào để cho quá trình thay đổi công nghệ mà chúng ta đang chứng kiến
có thể diễn ra thành công và toàn diện. Nói rõ hơn, cuộc cách mạng kỹ thuật số
buộc chúng ta phải tính toàn lại quá trình toàn cầu hóa hiện tại, và cuộc cách
mạng này cũng dẫn đến những tác động khác nhau lên các hướng khác nhau.
Một mặt, sự gia tăng trong việc sử dụng robot khiến cho tỷ lệ công việc
thuê ngoài giảm xuống đáng kể (theo như Deloitte, chí phí cho một robot dự tính
sẽ bằng 10% chi phí trả cho một công nhân làm việc sản xuất trong nước và bằng
35% chí phí trả cho một công nhân làm việc tại các cơ sở sản xuất ở nước ngoài).
Mặt khác, việc mở rộng quy mô sản xuất ở cấp độ toàn cầu dẫn đến sự nổi
lên của các tập đoàn đa quốc gia khổng lồ, điều này có tiềm năng gây bất lợi cho
hoạt động cạnh tranh và đổi mới. Nếu như tiến trình toàn cầu hóa và các thể chế
đại diện cho nó không kịp thời giải quyết những thách thức này, những tư tưởng
chính trị chủ nghĩa dân túy theo đường lối đảo ngược toàn cầu hóa có thể sẽ
thắng thế.
Nhiều bài nghiên cứu cho thấy các chính trị gia dân túy đã bắt đầu thu
được những lợi ích đầu tiên: ở cả Hoa Kỳ và EU, tại những vùng bị ảnh hưởng
nhiều nhất bởi hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, sự ủng hộ của người dân dành
cho những đảng phái theo chủ nghĩa dân túy cũng tăng cao - nhiều đến mức một
vài nhà khoa học chính trị thậm chí khẳng định rằng các cuộc tranh luận chính
trị, thông thường sẽ tập trung vào sự khác biệt về tư tưởng giữa cánh tả và cánh
hữu, sẽ chuyển thành một cuộc đấu tranh mãnh liệt giữa các nhà toàn cầu hóa và
những người theo chủ nghĩa dân túy.
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 12


Trước khi đi vào phần kết luận, chúng ta sẽ phân tích nguyên nhân khiến
cho làn sóng toàn cầu hóa lần thứ nhất bị lệch hướng, để xem liệu chúng ta có

đúc kết được bài học nào từ việc này. Dấu hiệu khủng hoảng bắt đầu nhen nhóm
từ cuối thế kỷ thứ 19, thời điểm mà các quan chức chính phủ bắt đầu bị chi phối
trước áp lực đòi gia tăng thuế quan, gây ra bởi một số nhóm ngành nghề nhất
định (chẳng hạn như ngành nông nghiệp). Cùng lúc đó, các quốc gia như Mỹ,
Canada, Úc, và Argentina không thể quản lý hiệu quả tình trạng di cư quy mô
lớn từ Châu Âu, dẫn tới việc họ phải đóng cửa biên giới vào những năm 1910.
Nhiều nhà sử học cho rằng, thái độ phản đối toàn cầu hóa trong vô số tầng lớp
người dân là một trong những nguyên nhân dẫn đến Chiến tranh Thế giới Thứ
nhất năm 1914 đến 1918.
Cuộc Đại Suy Thoái là đòn đánh cuối cùng lên làn sóng toàn cầu hóa thứ
nhất: các quốc gia phản ứng bằng cách đề ra các chính sách đi theo chủ nghĩa
bảo hộ trên diện rộng, khiến cho khủng hoảng kinh tế năm 1929 tệ hại hơn rất
nhiều, để lại một tiếng vang lớn trên toàn cầu. Theo nhà kinh tế học Jakob
Madsen, từ năm 1929 đến 1932, khối lượng hàng hóa giao thương thực tế trên
toàn cầu đã giảm 33%, 2/3 trong số đó là do các chính sách chủ nghĩa hộ.
Tóm lại, trong bài viết này, chúng ta biết được toàn cầu hóa đang đi vào
một giai đoạn bước ngoặc lịch sử, và bây giờ chính là thời điểm phải giải quyết
những thách thức khiến toàn cầu hóa bị nhiều người ngờ vực. Một điều chắc
chắn rằng, chúng ta vẫn có thể lạc quan nhưng cũng phải hành động thận trọng:
hệ thống quản trị toàn cầu hiện tại có rất nhiều công cụ để loại bỏ những bất cập
và thúc đẩy một phiên bản toàn cầu hóa hiện đại và toàn diện hơn. Tuy nhiên,
nếu không giải quyết được các bất cập trong quá trình phát triển, chúng ta sẽ có
nguy cơ biến cái bóng của quá khứ trở thành ác mộng của hiện tại. Liệu chúng ta
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 13


có tránh được việc bị vấp chân hai lần liên tục vào cùng một hòn đá đều phụ
thuộc vào thời điểm này.

b. Hội nhập chủ động
Toàn cầu hoá, mà trước hết là toàn cầu hoá kinh tế, là một xu thế khách
quan mà mọi quốc gia, dân tộc đều không thể chống lại hay quay lưng lại với nó.
Tuy nhiên, toàn cầu hoá hiện nay vừa có khả năng tạo ra những cơ hội thuận lợi
cho sự phát triển, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả của
chúng rất khó lường đối với bất cứ quốc gia nào. Vì vậy, đối với Việt Nam, việc
“chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” trong bối cảnh toàn cầu hoá là
điều cần thiết, đảm bảo cho việc nắm bắt và tận dụng những cơ hội mới, đồng
thời khắc phục, hạn chế những khó khăn, thách thức mới nảy sinh, sớm đưa nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020, cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Toàn cầu hóa hiện nay, về thực chất, là sự hội nhập toàn cầu trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, là xu thế phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy
luật của xã hội loài người. Toàn cầu hóa hiện nay, trước hết là toàn cầu hóa kinh
tế đã đem lại cơ hội cho các nước có trình độ phát triển khác nhau hội nhập khu
vực và quốc tế. Song, toàn cầu hóa hiện nay cũng đã đặt ra những thách thức
không nhỏ đối với nhiều nước, nhất là những nước có nền kinh tế kém phát triển,
trong đó có nước ta. Làm thế nào để tranh thủ được những cơ hội thuận lợi, đồng
thời vượt qua được những thách thức không nhỏ này khi “chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế” đã được Đảng ta xác định là một chiến lược trong công
cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa - đó là vấn đề mà chúng
tôi muốn đề cập trong bài viết này.

Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 14


Toàn cầu hóa, không phải là một hiện tượng mới mẻ, mặc dù gần đây, trên
mọi phương tiện thông tin đại chúng, người ta liên tục nói đến nó với tư cách

một xu thế phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy luật và không thể đảo ngược.
Ngay từ giữa thế kỷ XIX, khi phân tích, luận giải xã hội tư bản với quan điểm
phát triển – quan điểm coi lịch sử thế giới là kết quả của quá trình biến đổi lâu
dài và liên tục của xã hội loài người, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã đưa ra
dự báo về xu thế phát triển tất yếu của toàn cầu hóa, trước hết là toàn cầu hóa
kinh tế. Các ông cho rằng, do “luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu
thụ sản phẩm”, chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản “xâm nhập vào khắp nơi, trụ
lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi”. “Trong quá trình thống
trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ”, chúng đã “tạo ra những lực lượng sản xuất
nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp
lại” nhờ việc chinh phục những lực lượng tự nhiên, sản xuất bằng máy móc và áp
dụng khoa học vào nhiều lĩnh vực sản xuất. Và, “do bóp nặn thị trường thế giới”,
chúng đã làm cho cả quá trình sản xuất lẫn sự tiêu dùng của tất cả các nước
“mang tính chất thế giới”, làm cho nền công nghiệp ở tất cả các nước “mất cơ sở
dân tộc” và bị thay thế bởi những ngành công nghiệp mà việc du nhập chúng
“trở thành một vấn đề sống còn đối với tất cả các dân tộc văn minh”. Bằng cách
này, chúng đã biến tình trạng sản xuất biệt lập, tự cung tự cấp ở các quốc gia, dân
tộc thành quá trình “phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến
giữa các dân tộc”. Chúng đã “lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào
trào lưu văn minh”, buộc tất cả các dân tộc nếu không muốn bị tiêu diệt thì “phải
thực hành phương thức sản xuất tư sản”, “du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là
phải trở thành tư sản” để tạo ra một thế giới theo hình dạng mà chúng mong
muốn.
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 15


Dự báo đó củă các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về xu thế phát triển của
toàn cầu hóa kinh tế đã thực sự trở thành một xu thế phát triển tất yếu, khách

quan vào thập niên 80 của thế kỷ XX với một nội dung mới và những nét đặc thù
mới do sự phát triển với tốc độ vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại và sự xuất hiện của kinh tế tri thức. Song, nhiều nhà nghiên cứu lý
luận và hoạch định chính sách phát triển trên thế giới đã thống nhất quan niệm
cho rằng, toàn cầu hóa kinh tế hiện nay mặc dù mang một nội dung mới và có
những nét đặc thù mới, nhưng về thực chất, nó vẫn là quá trình toàn cầu hóa tư
bản chủ nghĩa. Bởi lẽ, theo họ, quá trình toàn cầu hóa kinh tế hiện nay vẫn đang
diễn ra dưới sự chi phối mạnh mẽ của các nước tư bản, đặc biệt là các nước tư
bản phát triển, bằng cách áp đặt, khống chế và điều khiển những thiết chế bảo
đảm thúc đẩy toàn cầu hóa, như WB, IMF, WTO,... Khi đưa ra dự báo về xu thế
phát triển của thế giới trong thế kỷ XXI này, tại Đại hội IX, Đảng ta đã nhận
định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều
nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế
tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực
vừa có mặt tiêu cực, vừa có sự hợp tác vừa có đấu tranh”.
Gần đây, trong Dự thảo Đề cương các văn kiện trình Đại hội X của Đảng,
khi dự báo bối cảnh tình hình những năm sắp tới, một lần nữa, Đảng ta lại đưa ra
nhận định về xu thế phát triển tiếp theo của toàn cầu hóa kinh tế. Theo nhận định
đó, “trên thế giới: hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế
giới và khu vực có khả năng phục hồi và phát triển nhưng nhịp độ không đều.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được đẩy nhanh, đồng thời
cạnh tranh kinh tế – thương mại cũng sẽ rất gay gắt”.

Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 16


Như vậy, có thể nói, với tư cách một quá trình phát triển tất yếu, khách
quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, cả những nước phát triển lẫn

những nước chậm phát triển, toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đã trở thành xu thế tất
yếu. Đó là một quá trình mà trong đó, sự phát triển của cả lực lượng sản xuất lẫn
quan hệ kinh tế đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, dân tộc, vượt ra khỏi phạm vi
khu vực và đạt tới quy mô toàn thế giới, toàn cầu. Trong quá trình này, hàng hóa,
nguồn vốn, công nghệ sản xuất, thông tin khoa học, lực lượng lao động,... đang
vận động một cách thông thoáng và được chuyển giao một cách liên tục giữa các
quốc gia, dân tộc. Trong quá trình này, sự phân công hợp tác lao động đã mang
tính quốc tế. Không chỉ thế, quá trình này còn tạo ra mối quan hệ kinh tế đan xen
lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc, giữa khu vực này với khu vực khác để hình
thành nên những mạng lưới liên kết kinh tế song phương, đa phương, vận hành
theo những định chế chung, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh giữa các bên tham
gia. Trong xu thế phát triển tất yếu này, mối quan hệ giữa các nền kinh tế quốc
gia, dân tộc ngày càng trở nên gắn bó, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng cũng
theo đó mà ngày càng lớn, tính thẩm thấu giữa chúng cũng ngày một tăng. Chính
xu hướng liên kết kinh tế này giữa các nền kinh tế quốc gia, dân tộc đã dẫn đến
sự hợp nhất và ra đời nhiều tổ chức tài chính, thương mại và kinh tế có quy mô
khu vực và quốc tế, như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ thế
giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh các nước Đông Nam Á
(ASEAN), Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA),... Thông qua các tổ
chức này, lưu thông vốn và tiền tệ quốc tế đã đạt đến quy mô to lớn chưa từng
có, tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế giới đã vượt xa tốc độ tăng trưởng kinh tế,
các lĩnh vực hợp tác nhiều mặt, có quy mô khu vực và quốc tế ngày càng phát
triển.
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 17


Ngoài tốc độ phát triển của sản xuất hàng hóa, của sự giao lưu và hợp tác
kinh tế trên quy mô khu vực và quốc tế, toàn cầu hóa kinh tế hiện nay còn được

quy định bởi bước tiến nhảy vọt của khoa học và công nghệ, nhất là sự bùng nổ
của công nghệ thông tin, của hệ thống Internet toàn cầu từ những thập niên cuối
của thế kỷ XX và bởi “kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nỏi bật trong quá
trình phát triển lực lượng sản xuất”.
Cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ và sự gia tăng kinh tế tri
thức là sự bùng nổ “nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc ngày càng đòi hỏi các quốc
gia phải phối hợp giải quyết như khoảng cách ngày càng lớn giữa các nhóm nước
giàu và nghèo; vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái; sự gia tăng dân số, các luồng
dân di cư; tình trạng khan hiếm năng lượng, cạn kiệt tài nguyên, biến đổi khí hậu
trái đất; phòng chống các dịch bệnh lớn, các tội phạm xuyên quốc gia...”. Thêm
vào đó là xu hướng ngày càng có nhiều quốc gia, dân tộc, kể cả những quốc gia,
dân tộc có nền kinh tế kém phát triển, tham gia hội nhập và liên kết kinh tế toàn
cầu, nhất là sau khi không còn tồn tại hai hệ thống kinh tế, hai khu vực thị trường
vận động theo các quy luật riêng sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông
Âu. Lúc này, bản thân các nước tư bản phát triển cũng không còn khả năng hình
thành các vùng ảnh hưởng rõ rệt, các khu vực thị trường khống chế, mà cùng
đồng thời xâm nhập, khai thác và cạnh tranh với nhau trên nhiều khu vực thị
trường khác nhau. Tất cả những vấn đề này đã mang lại nội dung mới, đặc điểm
mới cho xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay.
Trong xu thế đó, nhờ lợi dụng được ưu thế về khoa học và công nghệ,
nguồn tài chính, sức lao động, thị trường..., một số nước tư bản phát triển ngày
càng phát triển hơn, nhiều tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia xuất hiện và
phát triển với tốc độ, quy mô chưa từng có, địa vị chi phối, khống chế của chúng
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 18


ngày càng tăng. Trong khi đó, quan hệ kinh tế quốc tế và quá trình quốc tế hóa
đời sống kinh tế – xã hội dựa trên tính ưu việt của hệ thống chính trị xã hội chủ

nghĩa đã mất đi ưu thế vốn có của nó sau sự sụp đổ của Liên Xô và sự tan rã của
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Bối cảnh này đã mang lại cho nền kinh tế
toàn cầu hóa hiện nay bản chất của nền kinh tế tư bản toàn cầu, do các tập đoàn
kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, khống chế và do vậy, khiến cho xu thế
toàn cầu hóa kinh tế hiện nay luôn tiềm ẩn những mâu thuẫn sâu sắc, sẵn sàng
bùng nổ, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu
tranh.
Với những nội dung mới, đặc trưng mới đó, toàn cầu hóa kinh tế hiện nay
vừa có khả năng tạo ra những cơ hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế đối với
tất cả các nước, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to lớn mà hậu quả của chúng
là rất khó lường đối với bất cứ quốc gia nào. Những thuận lợi do nó mang lại
trước hết là ở chỗ, thị trường được mở rộng, giao lưu hàng hóa ngày càng thông
thoáng hơn, hàng rào thuế quan và phi thuế quan ngày một giảm và do vậy, sự
trao đổi hàng hóa trong phạm vi khu vực và quốc tế ngày càng tăng, đem lại cơ
hội đẩy mạnh tốc độ sản xuất hàng hóa cho nhiều quốc gia, dân tộc. Cùng với đó
là sự ra đời nhiều hình thức đầu tư, liên kết và hợp tác sản xuất nhờ sự chuyển
giao các khoản vốn đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia và ngày một trở nên thông
thoáng. Các thành tựu khoa học và công nghệ cũng được chuyển giao nhanh
chóng, được phổ biến và áp dụng rộng rãi trong phạm vi khu vực và quốc tế.
Điều này đã đem lại cho nhiều quốc gia, dân tộc khả năng tiếp cận với nhiều
nguồn vốn khác nhau, với những công nghệ sản xuất hiện đại, kinh nghiệm quản
lý từ bên ngoài và qua đó, phát triển nền kinh tế nước mình. Song, toàn cầu hóa
kinh tế hiện nay cũng có thể dẫn đến những nguy cơ khó lường, trong khi nó
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 19


luôn tiềm ẩn khả năng gây chấn động, khủng hoảng cho nền kinh tế của nhiều
quốc gia, dân tộc nếu có sự trục trặc, bế tắc ở một khâu nào đó, nó còn làm gia

tăng sự bất bình đẳng giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, làm
tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các nước và ngay trong một nước. Không chỉ
thế, toàn cầu hóa kinh tế với sự chi phối, khống chế của các nước tư bản phát
triển, các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia còn có thể tạo ra khả năng quốc
tế hóa các hiện tượng tiêu cực của đời sống xã hội, gây nên sự bất ổn định trong
đời sống xã hội không chỉ của mỗi người, mà cả quốc gia, dân tộc.
Sự song hành của những thuận lợi và thách thức đó trong xu thế toàn cầu
hóa kinh tế hiện nay là một thực tế. Vấn đề đặt ra với mỗi quốc gia, dân tộc là
làm thế nào có thể tận dụng được những thuận lợi do nó mang lại để phát triển
nền kinh tế đất nước, đồng thời hạn chế và khắc phục đến mức tối đa những
nguy cơ do nó gây nên. Ý thức một cách sâu sắc vấn đề này, khi thông qua
đường lối và chiến lược phát triển kinh tế đất nước, tại Đại hội IX, Đảng ta đã
đưa ra và khẳng định chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo
đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an
ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. Và, trong
Dự thảo đề cương các văn kiện trình Đại hội X của Đảng, khi một lần nữa khẳng
định chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta còn nhấn mạnh việc
không chỉ chủ động hội nhập, mà còn cần phải tích cực tham gia vào quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, “tạo sự đồng thuận trong xã hội để vượt qua thách thức,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đã trở thành một xu thế
khách quan mà mọi quốc gia, dân tộc đều không thể chống lại nó hay quay lưng
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 20


lại với nó, chúng ta có thể khẳng định, chủ trương “chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế” của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Bởi lẽ, trong xu thế

khách quan này, nếu không chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, chúng
ta sẽ không thể tận dụng được những cơ hội thuận lợi do nó mang lại để phát
triển kinh tế đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; đồng thời, chỉ có trên
cơ sở độc lập tự chủ về kinh tế, chúng ta mới có thể chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế một cách có hiệu quả, bảo vệ lợi ích dân tộc và an ninh quốc
gia một cách bền vững, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp
để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Trong bối cảnh “nước ta chưa ra khỏi tình trạng kém phát triển và vẫn tồn
tại nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới”,
việc chúng ta “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” không chỉ là để tạo
thêm nguồn lực, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, mà còn là để đáp ứng yêu cầu và lợi ích quốc gia trong quá
trình phát triển theo hướng “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” và qua đó, phát huy vai trò và ảnh hưởng của nước ta tới quá trình
hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới, góp phần thiết thực vào cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
“Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” trong bối cảnh toàn cầu
hóa kinh tế hiện nay, chúng ta cần phải xây dựng được một tiềm lực kinh tế vững
chắc, đủ mạnh để trên cơ sở đó, khai thác một cách tối đa và có hiệu qủa các lợi
thế cạnh tranh, đối phó thắng lợi với những thách thức nảy sinh trong quá trình
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 21


này. Điều đó đòi hỏi chúng ta không những phải không ngừng nâng cao mức tích
luỹ từ chính nền kinh tế quốc gia, mà còn phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế

hợp lý, có sức cạnh tranh cao, một kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và ngày
một nâng cao năng lực nội lực nội sinh, phát triển tiềm lực khoa học và công
nghệ. Đồng thời với việc xây dựng tiềm lực kinh tế, chúng ta còn phải chủ động
và tích cực xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý, phù hợp với tiến trình kinh tế – xã
hội của đất nước. Không chỉ thế, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”
trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, chúng ta còn phải lấy việc bảo đảm
nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi trong quan hệ song
phương và đa phương với các đối tác làm phương châm cơ bản; đồng thời phải
giữ vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo
nhằm đạt tới mục tiêu đã xác định và bảo vệ những lợi ích chính đáng của chúng
ta.
Trong Dự thảo Đề cương các văn kiện trình Đại hội X của Đảng, Đảng ta
đã khẳng định, để “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” một cách có
hiệu quả trong xu thế toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, trước hết chúng ta cần phải
xác định rõ những vấn đề có tính nguyên tắc, đồng thời cần linh hoạt, mềm dẻo,
phù hợp với thông lệ quốc tế trong hợp tác, liên kết quốc tế về kinh tế và về các
lĩnh vực khác, lấy phục vụ lợi ích tổng thể đất nước làm mục tiêu cao nhất. Cùng
với đó là xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế và mở rộng hợp tác
quốc tế gắn với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn
đến năm 2020. Một mặt, kết hợp một cách hài hòa quan hệ hợp tác phát triển đa
phương và song phương; đẩy mạnh hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các
nước ASEAN, coi trọng việc củng cố và phát triển các quan hệ hợp tác song
phương tin cậy, nhất là với các đối tác chiến lược; đẩy mạnh việc ký kết hiệp
Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 22


định thương mại tự do (FTA) với các nước, nhất là với các nước có nhiều quan
hệ kinh tế – thương mại với nước ta. Mặt khác, chuẩn bị tốt các điều kiện và tiềm

lực đất nước nhằm khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm đến tối đa những
thách thức, khó khăn khi nước ta tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Không chỉ thế, chúng ta còn phải chủ động đẩy mạnh việc tạo lập khung pháp lý
và thể chế thông qua việc ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương và song
phương; tích cực xây dựng hệ thống pháp luật bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán,
ổn định, minh bạch, tạo hành lang pháp lý để thực hiện những cam kết quốc tế.
Nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”,
Đảng ta còn đồng thời khẳng định việc “mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên
các lĩnh vực khác”; thúc đẩy các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều
sâu, ổn định, lâu dài; mở rộng những điểm tương đồng, thu hẹp những điểm khác
biệt về lợi ích, phấn đấu không để những khác biệt biến thành mâu thuẫn hoặc
xung đột lợi ích”.
Như vậy, có thể nói, trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, “chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” mà Đảng ta đã xác định không chỉ là
một chủ trương đúng đắn, mà còn là đường lối chiến lược để chúng ta nắm bắt
và tận dụng những thuận lợi, cơ hội mới do toàn cầu hóa mang lại, đồng thời
khắc phục, hạn chế những khó khăn, thách thức mới nảy sinh nhằm phát triển
kinh tế nhanh và bền vững, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát
triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.

Tiểu luận môn Đường Lối Cách Mạng Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trang 23


×