Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.76 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THỊ THU HÀ

PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY HỢP DANH
TRONG LĨNH VỰC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH THỊ THU HÀ

PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY HỢP DANH
TRONG LĨNH VỰC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. VŨ THỊ LAN ANH

Hà Nội - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các dẫn
chứng, số liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

ĐINH THỊ THU HÀ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY HỢP DANH
TRONG LĨNH VỰC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ ............................ 8
1.1. Khái quát chung về công ty hợp danh ............................................... 8
1.2. Khái quát chung về dịch vụ pháp lý ................................................ 21
1.3. Khái niệm, đặc điểm của công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ pháp lý........................................................................................32
1.4. Pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp
lý ở Việt Nam hiện nay…………………………………………….......35
1.5. Những lợi thế của công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ
pháp lý ..................................................................................................... 38
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY HỢP DANH
TRONG LĨNH VỰC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ .......................... 43
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ pháp lý.................................................................. 43
2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực
cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hiện nay ...................................... 49
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO

HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY HỢP DANH
TRONG LĨNH VỰC CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ .......................... 58
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ........ 58
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh trong
lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý .......................................................... 60
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về công ty
hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ................................. 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 69


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Ngày nay, quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng nhanh và
mạnh hơn dưới sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó kinh tế thị trường và
sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ là động lực hàng đầu. Hội
nhập quốc tế đang là một xu thế tất yếu của thế giới hiện đại, tác động sâu sắc
đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia.
Hội nhập quốc tế vừa là cơ hội, đồng thời cũng là những thách thức đối
với các quốc gia nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Hội nhập quốc tế
đòi hỏi các chủ thể phải tham gia vào “sân chơi chung”, tuân thủ những
nguyên tắc, luật lệ nhất định do các chủ thể thống nhất tạo ra. Và để đạt được
mục đích khi tham gia sân chơi chung này, các chủ thể trong đó có các doanh
nghiệp phải không ngừng đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, bên cạnh
đó, các chủ thể cũng cần phải hiểu rõ các quyền và nghĩa vụ của mình trong
sân chơi chung này. Việc hòa nhập, tiếp cận các nền kinh tế khác nhau, đối
tác kinh doanh khác nhau đòi hỏi các doanh nghiệp, doanh nhân cần đầu tư
nghiên cứu, tiếp cận các dịch vụ pháp lý nói chung và đặc biệt là các dịch vụ
pháp lý liên quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh

nghiệp, doanh nhân nói riêng.
Xuất phát từ những nhu cầu trên, dịch vụ pháp lý ra đời nhằm đáp ứng
yêu cầu của quá trình hội nhập. Ở nước ta hiện nay, hoạt động cung cấp dịch
vụ pháp lý tồn tại dưới nhiều hình thức trong đó có loại hình công ty hợp
danh. Công ty hợp danh là một loại hình doanh nghiệp có từ lâu trong lịch sử
loài người. Tuy nhiên, loại hình này mới chỉ được ghi nhận trong pháp luật
của Việt Nam kể từ ngày 01/01/2000 khi Luật Doanh nghiệp năm 1999 có
hiệu lực. Hiện nay các quy định điều chỉnh về loại hình công ty hợp danh tập
trung trong Luật Doanh nghiệp năm 2014.

1


Công ty hợp danh cung cấp dịch vụ pháp lý là một loại hình doanh
nghiệp tiềm năng, có nhiều điểm phù hợp với tính đặc thù của hoạt động cung
cấp dịch vụ pháp lý, tuy nhiên loại hình công ty hợp danh trong lĩnh vực cung
cấp dịch vụ pháp lý hiện chưa thực sự phát triển ở Việt Nam. Vậy nguyên
nhân của tình trạng trên là do quy định của pháp luật chưa phù hợp hay do
quá trình thực thi các quy định pháp luật còn nhiều hạn chế? Việc tìm hiểu
những quy định của pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ pháp lý sẽ giúp chúng ta lý giải được vấn đề trên, giúp các doanh
nhân trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý lựa chọn được loại hình kinh
doanh phù hợp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong giai đoạn phát triển đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, nhu
cầu sử dụng dịch vụ pháp lý ngày càng cao. Việc lựa chọn một mô hình
phù hợp với lĩnh vực kinh doanh, phát huy được tiềm lực của chủ thể thành
lập doanh nghiệp cũng được đặt ra. Đề tài pháp luật Việt Nam về công ty
hợp danh và đề tài liên quan đến những quy định của pháp luật về dịch vụ
pháp lý thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu lý luận

và đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau đề cập đến
vấn đề này, nổi bật là:
- Luận văn thạc sĩ luật học năm 2003 của tác giả Vũ Đặng Hải Yến về
“Một số vấn đề pháp lý về công ty hợp danh” đưa ra những quy định của
pháp luật về công ty hợp danh và một số vấn đề pháp lý đặt ra với loại hình
công ty hợp danh.
- Luận văn thạc sĩ luật học năm 2012 của tác giả Nguyễn Thị Thùy
Giang về “Pháp luật Việt Nam về công ty hợp danh” nghiên cứu quá trình
hình thành và phát triển công ty hợp danh, đánh giá thực trạng của công ty
hợp danh và đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện hơn pháp

2


luật về công ty hợp danh.
- Luận án tiến sĩ luật học năm 2006 của tác giả Phan Thảo Nguyên về
“Hoàn thiện pháp luật về thương mại dịch vụ đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh
tế quốc tế”, xác định nội hàm của thương mại dịch vụ và yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế đối với hoạt động này.
- Luận văn thạc sĩ luật học năm 2011 của tác giả Nguyễn Như Chính về
“Pháp luật về dịch vụ thương mại pháp lý - những vấn đề lý luận và thực tiễn”,
xác định phạm vi và nội dung của các dịch vụ thương mại pháp lý ở Việt Nam.
- Luận án tiến sĩ luật học năm 2014 của tác giả Hoàng Thị Vịnh về
“Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam” xây dựng được hệ thống lý luận về
dịch vụ pháp lý, tạo cái nhìn tổng quan về hợp đồng dịch vụ pháp lý, tổng
hợp được thực trạng các loại hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam.
- Bài viết “Từng bước xây dựng quan niệm về dịch vụ pháp lý phù hợp
tiến trình hội nhập quốc tế” của TS. Phan Trung Hoài trên Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật số 2, năm 2007, nêu ra quan điểm phạm vi của dịch vụ pháp lý
chỉ bao gồm dịch vụ pháp lý của luật sư.

- Bài viết “Dịch vụ pháp lý và nhu cầu trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam” của TS. Nguyễn Văn Tuân trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số chuyên đề Pháp luật về Doanh nghiệp, khẳng định dịch vụ pháp lý là hoạt
động rất đặc thù so với các loại dịch vụ thông thường khác; quan điểm về
phạm vi dịch vụ pháp lý ở Việt Nam bao gồm dịch vụ pháp lý của luật sư và
dịch vụ pháp lý của các tổ chức, đoàn thể xã hội và nhu cầu dịch vụ pháp lý
ngày càng tăng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu, bài viết, tài liệu trên đã nghiên cứu về
loại hình công ty hợp danh, về dịch vụ pháp lý, nội hàm của dịch vụ pháp lý.
Tuy nhiên, đề tài “Pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hiện nay” chưa có công trình nghiên cứu nào
chuyên sâu và đầy đủ về đề tài này.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ sự phân tích, đánh giá quy định của pháp luật về công ty hợp danh
trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở nước ta hiện nay và việc tìm hiểu
đưa ra các số liệu, dẫn chứng về thực tiễn thi hành pháp luật về công ty hợp
danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở nước ta hiện nay, luận văn sẽ
đưa ra các kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch
vụ pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu sự hình thành, khái niệm, đặc điểm của công ty hợp danh
và vai trò của công ty hợp danh đối với sự phát triển kinh tế.
- Nghiên cứu khái niệm, đặc điểm và các chủ thể có thẩm quyền cung
cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hiện nay.

- Chỉ ra các đặc thù của công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch
vụ pháp lý.
- Chỉ ra thực trạng pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung
cấp dịch vụ pháp lý; thực tiễn thực thi pháp luật về công ty hợp danh trong
lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất định hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý
ở nước ta hiện nay.

4


- Các văn bản quy phạm pháp luật về dịch vụ pháp lý và công ty hợp
danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
- Thực tiễn thực hiện pháp luật về công ty hợp danh, dịch vụ pháp lý, công
ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Trên cơ sở lý luận chung về thực hiện pháp luật,
luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về công ty hợp danh, dịch vụ
pháp lý, pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp
lý ở Việt Nam hiện nay. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về công
ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý, đánh giá và kiến nghị
giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ pháp lý ở nước ta hiện nay.
Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và

thực tiễn về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt
Nam hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu tác giả có tham khảo pháp luật và
thực hiện pháp luật của một số quốc gia là thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới WTO.
Phạm vi về thời gian: Việc đánh giá thực trạng pháp luật về công ty hợp
danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là
từ năm 2007 khi Luật Luật sư có hiệu lực.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối luật
pháp của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xem xét quy
định của pháp luật điều chỉnh về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ pháp lý.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:

5


- Phương pháp phân tích, bình luận, so sánh…để tìm hiểu về một số vấn
đề lý luận về thực hiện pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp đánh giá, đối chiếu, diễn giải, quy nạp…để tìm hiểu về
thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh
vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hiện nay, đánh giá về những kết
quả đạt được, một số khó khăn, vướng mắc còn tồn tại.
Ngoài ra, tác giả cũng đã kết hợp lý luận và thực tiễn, đối chiếu các quy
định của pháp luật với thực tế triển khai các quy định đó nhằm đánh giá
những ưu điểm, hạn chế xuất phát từ quy định của pháp luật, và những ưu
điểm hạn chế xuất phát từ quá trình triển khai, thi hành pháp luật.
Việc kết hợp các phương pháp nghiên cứu trên giúp tác giả nhìn nhận,
đánh giá vấn đề một cách toàn diện, khách quan, từ đó đưa ra những kiến

nghị, đề xuất phù hợp, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về phương diện lý luận: Kết quả nghiên cứu mới của luận văn góp
phần làm sáng tỏ, phong phú những vấn đề lý luận và thực tiễn về công ty
hợp danh, về dịch vụ pháp lý, nội hàm của dịch vụ pháp lý, quy định của pháp
luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam
hiện nay.
- Về phương diện thực tiễn: Luận văn là tài liệu tham khảo cho những
người có nhu cầu tìm hiểu về loại hình công ty hợp danh, lĩnh vực cung cấp
dịch vụ pháp lý. Ngoài ra luận văn cùng có thể là một nguồn đề xuất tham
khảo đối với cơ quan có thẩm quyền trong việc hoàn thiện quy định của pháp
luật cũng như kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về
công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở nước ta hiện nay.

6


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp
dịch vụ pháp lý
Chương 2: Thực trạng pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực
cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về công ty hợp danh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý ở Việt
Nam hiện nay.

7



Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY HỢP DANH TRONG LĨNH VỰC
CUNG CẤP DỊCH VỤ PHÁP LÝ
1.1. Khái quát chung về công ty hợp danh
1.1.1. Sự hình thành công ty hợp danh
* Sự hình thành công ty hợp danh trên thế giới
Là một trong những hiện tượng kinh tế, công ty ra đời, tồn tại và phát
triển trong điều kiện nhất định. Kinh tế, xã hội phát triển đòi hỏi các nhà kinh
doanh phải có nhiều vốn, và để có được nhiều vốn các nhà kinh doanh bắt đầu
phải liên kết với nhau. Trên cơ sở vốn và sự tin tưởng lẫn nhau họ đã liên kết
theo hình thức nhất định và tạo ra mô hình tổ chức kinh doanh mới là công ty
kinh doanh. Mặt khác, khi sản xuất hàng hóa phát triển, sự cạnh tranh trên thị
trường khốc liệt hơn, đòi hỏi nguồn vốn lớn hơn, những doanh nghiệp vốn
đầu tư thấp thường không có lợi thế cạnh tranh. Do đó, muốn tạo được chỗ
đứng trên thị trường, người kinh doanh cần liên kết với nhau thông qua hình
thức góp vốn để thành lập một doanh nghiệp có vốn lớn, tạo thế đứng vững
chắc trên thị trường. Ngoài lợi thế trên, việc liên kết giữa những người kinh
doanh còn góp phần chia sẻ những rủi ro có thể gặp phải trong quá trình kinh
doanh. Mô hình liên kết này đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường
và hấp dẫn các nhà đầu tư, với nhiều thành phần tham gia khác nhau. Như
vậy, sự ra đời của công ty là quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường,
là kết quả của việc thực hiện nguyên tắc tự do trong kinh doanh, tự do kết ước
và tự do lập hội.
Vào khoảng thế kỷ thứ XIII, ở các thành phố lớn của một số nước châu
Âu có điều kiện địa lý thuận lợi cho việc giao lưu, buôn bán, đã xuất hiện
công ty thương mại đối nhân đầu tiên. Sang đầu thế kỉ XVII các công ty đối
vốn ra đời.

8



Công ty đối nhân là công ty mà việc thành lập dựa trên sự liên kết chặt
chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành viên, các thành viên quan hệ
gần gũi, có sự tin tưởng lẫn nhau, công ty lập ra với mục đích chủ yếu là để
“góp danh”, việc “góp vốn” là thứ yếu. Trong công ty đối nhân không có sự
tách bạch về tài sản cá nhân các thành viên và tài sản công ty. Các thành viên
liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với mọi khoản nợ của công ty hoặc ít
nhất phải có một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của
công ty. Các thành viên trong công ty đối nhân có tư cách thương gia độc lập
và phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Hầu hết pháp luật các quốc gia không quy
định tư cách pháp nhân cho công ty đối nhân, do đó, bản thân công ty đối
nhân không bị đánh thuế. Các thành viên công ty cùng nhau điều hành hoạt
động của công ty và đều có quyền đại diện theo pháp luật.
Về phương diện kinh tế, các công ty đối nhân do có sự liên đới chịu
trách nhiệm vô hạn của các thành viên nên có nhiều thuận lợi trong quá trình
ngân hàng xem xét cho vay vốn. Mặt khác, do tính liên đới chịu trách nhiệm
vô hạn nên các công ty đối nhân thường không đầu tư vào lĩnh vực có nhiều
rủi ro, trong thực tế, công ty đối nhân thường hoạt động trong lĩnh vực đòi hỏi
độ tin cậy giữa các thành viên, đòi hỏi các thành viên có trình độ chuyên môn
như dịch vụ pháp lý, kiểm toán, kiến trúc, giám định…
Về phương diện pháp lý, công ty đối nhân là loại hình công ty trong đó
các thành viên có quan hệ gắn bó, hiểu biết và tin tưởng nhau, do đó pháp luật
ít quy định điều chỉnh mối quan hệ của các thành viên trong công ty đối nhân.
Công ty đối nhân thường tồn tại dưới hai dạng cơ bản đó là: công ty hợp
danh và công ty hợp vốn đơn giản.
* Sự hình thành công ty hợp danh ở Việt Nam
Ở Việt Nam, với lịch sử phát triển kinh tế mang đặc trưng là kinh tế
nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, hoạt động kinh doanh, thương mại giai đoạn


9


trước kia chưa phát triển. Hoạt động thương mại ở Việt Nam giai đoạn đầu
diễn ra chủ yếu tại các chợ, mua bán nhỏ, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt là chính.
Do đó, các loại hình công ty ra đời muộn hơn so với các quốc gia trên thế
giới. Phải đến thế kỷ thứ XIX, khi thực dân Pháp đô hộ nước ta, công ty hợp
danh được quy định dưới hình thức là “Hội người” trong “Dân luật được thi
hành tại các tòa Nam án - Bắc kỳ” năm 1931, Bộ luật Thương mại Trung
phần năm 1944, Bộ luật Thương mại Việt Nam cộng hòa năm 1972.
Cho đến những năm cuối của thế kỷ XX, sau Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI diễn ra năm 1986, nghị quyết của Đảng định hướng chủ trương
phát triển kinh tế đất nước chuyển từ kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng các thành phần kinh
tế, ghi nhận hình thức sở hữu tư nhân.
Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990 ra đời đánh dấu
sự ghi nhận của Nhà nước ta về hình thức công ty thông qua quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, quy định của pháp luật tại thời điểm đó còn đơn giản và
chưa cụ thể, hình thức công ty hợp danh chưa được quy định trong hai văn
bản quy phạm pháp luật nêu trên.
Sau gần một thập kỷ, phải đến khi có Luật Doanh nghiệp năm 1999 thì
hình thức công ty hợp danh mới lần đầu tiên được quy định. Tuy nhiên, ngoài
một số quy định cho các loại hình công ty, Luật Doanh nghiệp năm 1999
cũng chỉ có 4 điều thuộc Chương 5 (từ Điều 95 đến Điều 98) quy định riêng
về công ty hợp danh. Các quy định này còn khá đơn giản, quy định về khái
niệm, đặc điểm của công ty hợp danh, quyền và nghĩa vụ của các thành viên
hợp danh, việc quản lý công ty hợp danh. Riêng đối với quy định về việc
thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh thì Luật Doanh nghiệp
năm 1999 không quy định cụ thể mà ủy quyền cho Chính phủ quy định cụ thể
nội dung này.


10


Luật Doanh nghiệp năm 1999 có hiệu lực từ ngày 01/01/2000. Chỉ sau
vài năm, những quy định về công ty hợp danh đã bộc lộ nhiều hạn chế và kết
quả là các nhà đầu tư không mặn mà với loại hình doanh nghiệp này.
Ngày 29/11/2005, Luật Doanh nghiệp năm 2005 được ban hành thay thế
cho Luật Doanh nghiệp năm 1999. Luật này có 11 điều quy định riêng về
công ty hợp danh (từ Điều 130 đến Điều 140).
Trong gần 10 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 2005, số lượng
công ty hợp danh vẫn chỉ dừng lại ở con số vài chục, điều đó chứng tỏ loại
hình công ty này vẫn còn chưa hấp dẫn các nhà đầu tư kinh doanh. Luật
Doanh nghiệp năm 2014 được ban hành với 11 điều (từ Điều 172 đến Điều
182) quy định về công ty hợp danh, các quy định này về cơ bản vẫn chưa
khắc phục triệt để những hạn chế của các quy định về loại hình công ty này so
với các văn bản trước đây.
Chúng ta có thể thấy rằng, ở Việt Nam công ty hợp danh được hình
thành trên cở sở quy định của pháp luật và việc hoàn thiện dần quy định của
pháp luật về công ty hợp danh có tác động tích cực đến sự phát triển của loại
hình công ty này trên thực tế.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của công ty hợp danh
* Khái niệm công ty hợp danh
Công ty hợp danh là loại hình công ty trong đó các thành viên cùng
nhau tiến hành hoạt động thương mại dưới một hãng chung và cùng liên đới
chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Công ty hợp danh bao
gồm toàn thành viên hợp danh với chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của các
thành viên hợp danh, là một loại hình công ty mang bản chất đối nhân. Đây là
loại công ty trọng về nhân thân, ít quan tâm tới yếu tố vốn. Công ty hợp danh
ra đời là một yếu tố khách quan phù hợp với điều kiện, môi trường kinh

doanh và tâm lý kinh doanh, đặc biệt ở một số nước châu Á. Đây là những

11


quốc gia có nền tảng kinh tế là nông nghiệp lúa nước, tâm lý kinh doanh nhỏ
lẻ, cá nhân hoặc kinh doanh gia đình đã ăn sâu vào cư dân khu vực này. Vì
vậy, khi giao thương buôn bán xuất hiện và phát triển, những người kinh
doanh này sẽ lựa chọn con đường mở rộng quy mô kinh doanh một cách vừa
an toàn, vừa đơn giản. Như vậy, người kinh doanh chỉ có thể lựa chọn hình
thức liên kết mà họ có thể hiểu rõ về nhân thân của nhau, tin cậy lẫn nhau.
Việc thành lập công ty dựa trên cơ sở hợp đồng giữa các thành viên, tuy
nhiên, luật không bắt buộc hợp đồng thành lập loại hình công ty này phải
bằng văn bản. Các bên có thể thoả thuận miệng, có trường hợp tuy không
tuyên bố rõ thoả thuận nhưng giữa các thành viên có hoạt động thương mại
chung thì công ty cũng được coi là đã thành lập. Đã có nhiều quốc gia trên thế
giới công nhận việc thành lập công ty thực tế (defacto) như trên. Ở Việt Nam
hiện nay chưa công nhận hình thức công ty thực tế này. Về nguyên tắc, hợp
đồng thành lập cần được đăng ký vào danh bạ thương mại. Trong một số
trường hợp, hợp đồng không được đăng ký nhưng được thông báo rộng rãi thì
vẫn có giá trị pháp lý. Trong hợp đồng, thỏa thuận của các thành viên là nội
dung quan trọng. Công ty hợp danh được thành lập nếu có ít nhất hai thành
viên thỏa thuận với nhau cùng chịu trách nhiệm liên đới, vô hạn đối với mọi
khoản nợ của công ty.
Khác với hình thức trên, công ty hợp vốn đơn giản vừa có thành viên
hợp danh, chịu trách nhiệm vô hạn vừa có thành viên góp vốn, chịu trách
nhiệm hữu hạn. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa công ty hợp danh và công
ty hợp vốn đơn giản. Thành viên nhận vốn là người quản lý, sử dụng vốn,
người trực tiếp điều hành các hoạt động của công ty. Thành viên này chịu
trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty, có quyền quản trị công ty.

Thành viên nhận vốn chỉ là cá nhân, họ là thương nhân và có quyền lấy tên
mình đặt tên cho công ty. Thành viên góp vốn là người bỏ vốn cho công ty

12


kinh doanh với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Ở Việt Nam, quy định về công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp năm
2014 có những điểm đặc thù không hoàn toàn giống với các nước. Điều 172
Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định:
“1. Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
a) Phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng
nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh).
Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn;
b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;
c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
2. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
3. Công ty hợp danh không được hành bất kỳ loại chứng khoán nào”.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 không đưa ra một định nghĩa khái quát mà
mô tả công ty hợp danh qua các đặc điểm đặc trưng. Cách xây dựng khái
niệm này đã được áp dụng từ Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh
nghiệp năm 2005 và tiếp tục được thể hiện trong Luật Doanh nghiệp năm
2014. Theo đó, công ty hợp danh được định nghĩa là doanh nghiệp, trong đó:
(i) phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau
kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh); Ngoài thành
viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn; Thành viên hợp
danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các

nghĩa vụ của công ty; Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản
nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty; (ii) Công ty hợp
danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký

13


doanh nghiệp; (iii) Công ty hợp danh không được phát hành bất kì loại chứng
khoán nào.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, công ty hợp danh ở
Việt Nam có hai loại: công ty chỉ bao gồm các thành viên hợp danh và công
ty bao gồm thành viên hợp danh và thành viên góp vốn.
Công ty hợp danh chỉ bao gồm các thành viên hợp danh: Các thành viên
hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và liên đới; có quyền quản lý và đại diện
cho công ty hợp danh. Quy định này giống với quy định của nhiều nước trên
thế giới như Hoa Kỳ, Nhận Bản.
Công ty hợp danh bao gồm thành viên hợp danh và thành viên góp vốn:
Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn, có quyền quản lý và đại diện
cho công ty, thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn, không có quyền
quản lý, và không đại diện cho công ty. Luật các nước có quy định về loại
hình công ty này, tuy nhiên, không quy định đây là công ty hợp danh mà là
công ty hợp vốn đơn giản. Hình thức công ty này cho phép một thương nhân
có ý tưởng kinh doanh nhưng không có vốn được tận dụng phần vốn góp của
thành viên góp vốn.
Có thể nói rằng đây là điểm khá đặc thù của pháp luật Việt Nam, công
ty hợp danh gồm cả hai loại công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản
của công ty đối nhân theo quy định của các nước. Đặc thù này trong quy định
pháp luật Việt Nam tạo sự linh hoạt cho chủ thể lựa chọn thành lập và hoạt
động theo mô hình công ty hợp danh, tuy nhiên việc quy định như vậy cũng
sẽ khiến công ty hợp danh của Việt Nam không hoàn toàn giống công ty hợp

danh của các nước gây khó khăn cho việc nhận diện cũng như hội nhập của
thương nhân Việt Nam khi kinh doanh dưới hình thức công ty hợp danh.
* Đặc điểm công ty hợp danh
Một là, về thành viên công ty hợp danh: Theo quy định của Luật Doanh

14


nghiệp năm 2014, công ty hợp danh có hai loại thành viên là: (1) Thành viên
hợp danh; (2) Thành viên góp vốn.
Thành viên hợp danh: Theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì thành
viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về các nghĩa vụ của công ty. Đây là nòng cốt của công ty hợp danh, nếu
không có thành viên này công ty không thể thành lập và hoạt động. Trong
công ty hợp danh phải có ít nhất hai thành viên hợp danh. Các thành viên hợp
danh liên kết với nhau chủ yếu dựa vào nhân thân, liên kết về vốn chỉ là thứ
yếu. Thực tế, các công ty hợp danh thường được thành lập dựa trên trình độ
chuyên môn và danh tiếng, uy tín của các thành viên hợp danh. Có thể thấy,
sự liên kết giữa các thành viên hợp danh trong công ty là hết sức chặt chẽ,
không phải ai cũng có thể trở thành thành viên hợp danh trong công ty. Do
đặc điểm đặc thù ở trên mà loại hình công ty hợp danh thường thích hợp với
những ngành nghề kinh doanh đòi hỏi trình độ chuyên môn, kinh nghiệm,
danh tiếng…của các thành viên hợp danh. Sự liên kết của các thành viên hợp
danh rất chặt chẽ, gắn với yếu tố nhân thân của từng người. Do vậy, khi thành
viên hợp danh rút khỏi công ty thì hoạt động của công ty hợp danh sẽ chịu
ảnh hưởng rất lớn.
Thành viên góp vốn: Trong công ty hợp danh, thành viên góp vốn có thể
là cá nhân, tổ chức, có thể có hoặc không có trong công ty. Thành viên góp
vốn không buộc phải liên kết về nhân thân với các thành viên khác trong công
ty, không bắt buộc phải là cá nhân. Thành viên góp vốn tuy không có vai trò

quan trọng như thành viên hợp danh nhưng lại có ý nghĩa lớn trong việc huy
động vốn đối với công ty. Việc quy định công ty hợp danh có thể có thành
viên góp vốn là một đặc thù của Việt Nam. Quy định này góp phần tháo gỡ
khó khăn trong việc huy động vốn cho công ty hợp danh nhưng lại có thể gây
ra nhầm lẫn cho các chủ thể khi mở cửa thị trường giao lưu với các quốc gia

15


khác trên thế giới.
Hai là, về chế độ chịu trách nhiệm tài sản của thành viên công ty hợp
danh: Như đã phân tích ở trên, theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm
2014 thì công ty hợp danh có hai loại thành viên và chế độ chịu trách nhiệm
tài sản của hai loại thành viên này khác nhau.
Đối với thành viên hợp danh: Các thành viên hợp danh khi đã liên kết
thành lập công ty hợp danh thì phải cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về
mọi khoản nợ phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của công ty.
Thành viên hợp danh không chỉ chịu trách nhiệm bằng số tài sản bỏ vào kinh
doanh, mà phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của mình
đối với mọi khoản nợ của công ty. Chế độ chịu trách nhiệm vô hạn này tương
tự với chế độ chịu trách nhiệm của chủ doanh nghiệp tư nhân. Công ty hợp
danh có ít nhất hai thành viên hợp danh nên các thành viên hợp danh phải liên
đới chịu trách nhiệm vô hạn. Điều này góp phần ràng buộc các thành viên hợp
danh của công ty hợp danh, khiến các thành viên hợp danh phải thận trọng,
cân nhắc kỹ việc lựa chọn các thành viên hợp danh để cùng thành lập công ty
hợp danh.
Khoản 2 Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định công ty hợp
danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp. Theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 Bộ luật Dân sự năm
2015 thì công ty hợp danh là một pháp nhân thương mại. Và một trong các

đặc điểm của pháp nhân thương mại đó là “Có tài sản độc lập với cá nhân,
pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình”.
Do vậy, trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh sẽ phát sinh sau
trách nhiệm trả nợ của công ty, bởi vì công ty hợp danh theo quy định của
Luật Doanh nghiệp năm 2014 có tư cách pháp nhân và có tài sản độc lập với
tài sản của các thành viên. Điều đó có nghĩa là khi công ty hợp danh có khoản

16


nợ cần thanh toán, công ty phải trả bằng tài sản của công ty. Khi tài sản của
công ty không đủ và đáp ứng các điều kiện để tuyên bố phá sản, công ty phải
phá sản để trả các khoản nợ bằng toàn bộ tài sản còn lại. Và trong trường hợp
tài sản còn lại của công ty lúc này vẫn không đủ để trả nợ thì các thành viên
hợp danh phải trả nợ thay cho công ty bằng tài sản của cá nhân mình.
Đối với thành viên góp vốn: Thành viên góp vốn sẽ chịu trách nhiệm
trong phạm vi số vốn góp vào công ty. Trong quá trình hoạt động kinh doanh,
nếu công ty có làm ăn thua lỗ thì thành viên góp vốn cũng chỉ phải chịu trách
nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Chế độ chịu trách nhiệm hữu
hạn của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh giống chế độ chịu trách
nhiệm của cổ đông công ty cổ phần hay thành viên công ty trách nhiệm hữu
hạn. Giới hạn trách nhiệm của thành viên góp vốn chỉ là số tài sản mà thành
viên này đã góp vào công ty hợp danh. Như vậy, thành viên góp vốn có thể
hạn chế được rủi ro phát sinh từ hoạt động kinh doanh của công ty. Đây chính
là một trong những lựa chọn phù hợp cho các chủ thể muốn kiểm soát và
giảm thiểu được sự rủi ro trong kinh doanh.
Ba là, về vốn của công ty hợp danh: Vốn điều lệ của công ty hợp danh
là tổng giá trị tài sản mà các thành viên đã góp hoặc cam kết góp khi thành
lập công ty. Tài sản góp vốn rất đa dạng, có thể là tiền mặt, vàng, giá trị
quyền sử dụng đất…Tài sản góp vốn có thể góp đủ khi thành lập công ty, có

thể góp theo thời hạn và tiến độ cam kết góp đã được các thành viên nhất trí
thông qua. Điều 173 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về thực hiện góp
vốn như sau:
“1. Thành viên hợp danh và thành viên góp vốn phải góp đủ và đúng hạn
số vốn như đã cam kết.
2. Thành viên hợp danh không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết
gây thiệt hại cho công ty phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho

17


công ty.
3. Trường hợp có thành viên góp vốn không góp đủ và đúng hạn số vốn
đã cam kết thì số vốn chưa góp đủ được coi là khoản nợ của thành viên đó
đối với công ty; trong trường hợp này, thành viên góp vốn có liên quan có thể
bị khai trừ khỏi công ty theo quyết định của Hội đồng thành viên”.
Như vậy, Luật không quy định cụ thể thời hạn thành viên cam kết góp,
do đó thời hạn này sẽ do Điều lệ công ty quy định. Thành viên hợp danh và
thành viên góp vốn có quyền chuyển nhượng phần vốn góp của mình, tuy
nhiên, việc chuyển nhượng này cần tuân theo các quy định khá chặt chẽ vì
tính chất liên kết về nhân thân của các thành viên trong công ty hợp danh.
Bốn là, huy động vốn của công ty hợp danh: Công ty hợp danh không
được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn trong công
chúng (Khoản 3 Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Công ty chỉ có thể
tăng vốn điều lệ bằng cách kết nạp thêm thành viên mới, tăng phần vốn góp
của mỗi thành viên hay ghi tăng giá trị tài sản của công ty. Việc huy động vốn
bằng các hình thức này không hề dễ dàng. Có thể thấy rằng đây chính là điểm
hạn chế của công ty hợp danh so với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty
cổ phần.
Năm là, tư cách pháp lý và trách nhiệm tài sản của công ty hợp danh:

Khoản 2 Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Công ty hợp
danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp”. Theo quy định này, công ty hợp danh có tư cách pháp lý độc
lập khi tham gia giao dịch, có tài sản độc lập với các thành viên và chịu trách
nhiệm độc lập bằng chính tài sản của mình. Quy định này khác với quy định
của Luật Doanh nghiệp năm 1999 và luật của nhiều nước trên thế giới vì
không thừa nhận tư cách pháp nhân của công ty hợp danh. Mặc dù có nhiều
tranh cãi xung quanh quy định này, nhưng Luật Doanh nghiệp năm 2014 vẫn

18


giữ nguyên quy định này như Luật Doanh nghiệp năm 2005. Quy định này
không ảnh hưởng đến tính chịu trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh
nhưng có vai trò giúp công ty hợp danh hoạt động dễ dàng hơn vì có thể nhân
danh chính mình thiết lập giao dịch.
1.1.3. Sự phù hợp của mô hình công ty hợp danh với tình hình phát triển
kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, ngoài công ty hợp
danh còn có các loại hình doanh nghiệp khác như: Công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân…Mỗi loại hình doanh nghiệp
mang đặc trưng riêng, và có những ưu điểm, hạn chế riêng.
Đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên thì hạn
chế đối với công ty này thể hiện, khi số lượng thành viên công ty luôn bị
khống chế (không được vượt quá 50 thành viên trong mọi trường hợp). Điều
này là khó khăn rất lớn vì với nhu cầu phát triển của công ty thì khó có thể
dự đoán trước rằng đến giai đoạn nào, công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên cần phải mở rộng thêm quy mô. Ngoài ra, các hạn chế khác của
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên còn thể hiện khi việc chuyển
nhượng phần vốn của các thành viên luôn bị hạn chế; mặt khác, tính chất

trách nhiệm hữu hạn về tài sản đôi khi có thể làm giảm trách nhiệm của các
thành viên với khách hàng.
Đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên thì điểm chung giữa hai loại hình doanh nghiệp này là luôn bị
bó hẹp trong phạm vi kinh doanh nhỏ, lẻ do cả hai loại hình doanh nghiệp này
chỉ có một chủ sở hữu duy nhất. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp khi
doanh nghiệp phát sinh nhu cầu về nguồn vốn lớn, việc huy động vốn từ các
thành viên khác là không thể. Ngoài ra, khi chủ doanh nghiệp muốn san sẻ rủi
ro trong quá trình kinh doanh của mình thì việc lựa chọn mô hình doanh

19


nghiệp một chủ sở hữu là không khả thi và rất khó cạnh tranh với các loại
hình công ty có nhiều chủ sở hữu.
Công ty cổ phần là loại hình công ty phát huy nhiều ưu điểm như: cổ
đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; việc chuyển
nhượng cổ phần linh hoạt; khả năng huy động vốn cao; không hạn chế số
lượng cổ đông tham gia thành lập công ty....Tuy nhiên, bên cạnh các ưu điểm
trên, loại hình công ty cổ phần cũng có một số hạn chế nhất định như: Việc
thành lập và quản lý công ty cổ phần phức tạp hơn các loại hình công ty khác
do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài
chính, kế toán. Hoạt động điều hành công ty cổ phần cũng có phần khó khăn
hơn do số lượng các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không quen biết
nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ đông đối kháng
nhau về lợi ích.
Công ty hợp danh với các đặc trưng như: Quy mô của doanh nghiệp
không quá lớn nhưng lại có thể dễ dàng mở rộng quy mô trong dài hạn; Các
thành viên của doanh nghiệp luôn có sự tin tưởng lẫn nhau; Tạo được sự tin

tưởng cho khách hàng; Cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành không quá phức
tạp... Loại hình công ty này phù hợp với tâm lý kinh doanh đề cao sự tin cậy,
quen biết của các nhà đầu tư Việt Nam. Có thể khẳng định, yếu tố tin tưởng,
hiểu rõ về đối tác luôn đặt nặng trong suy nghĩ kinh doanh của người Việt.
Khi đối chiếu các điều kiện này với công ty hợp danh thì ưu điểm của công ty
hợp danh chính là kết hợp được uy tín cá nhân của nhiều thành viên. Hơn nữa,
nhờ nghĩa vụ liên đới và trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh, làm
cho công ty hợp danh dễ dàng tạo được sự tin cậy trước các bạn hàng hay các
đối tác kinh doanh.

20


Do đó, có thể nói, công ty hợp danh là loại hình công ty có nhiều ưu
điểm và phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Tuy nhiên, trên thực tế số lượng công ty hợp danh được thành lập so
với các loại hình công ty khác là không lớn. Một trong những nguyên nhân
của tình trạng trên là quy định của pháp luật hiện hành về công ty hợp danh
còn có nhiều điểm chưa thực sự rõ ràng, việc kiểm soát hoạt động của các
thành viên hợp danh còn hạn chế, điều này tạo lý e ngại cho bản thân các
thành viên muốn hợp danh thành lập công ty cũng như tạo sự mơ hồ cho các
đối tác của công ty, làm giảm sự hấp dẫn của loại hình công ty này so với các
loại hình công ty khác.
1.2. Khái quát chung về dịch vụ pháp lý
1.2.1. Khái niệm dịch vụ pháp lý
Để làm rõ khái niệm “dịch vụ pháp lý”, cần phải làm rõ một số thuật ngữ
có liên quan như: dịch vụ, thương mại, pháp lý…Ở mỗi quốc gia lại có cách
hiểu riêng về các thuật ngữ này.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, dịch vụ xuất hiện và
phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, phải đến sau thời kỳ đổi

mới, khái niệm dịch vụ mới dần phổ biến hơn. Từ điển tiếng Việt của trung
tâm Từ điển học (xuất bản năm 2004) định nghĩa “dịch vụ là công việc phục
vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả
công” 1.
Từ điển tiếng Anh định nghĩa về dịch vụ với nội dung khá rộng, theo đó,
dịch vụ là việc thực hiện các nghĩa vụ hoặc làm công việc cho Chính phủ,
công ty…Dịch vụ là công việc được tiến hành bởi các máy móc, phương tiện,
cơ giới; Dịch vụ là công việc được làm cho người khác, là hành vi giúp đỡ
người khác, là nghề kinh doanh cung ứng hàng hóa cho khách hàng mà không
1

Xem: Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, Hà Nội 2004, tr.256

21


×