ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN VĂN TÙY
HOµN THIÖN CHÕ §ÞNH VÒ NG¦êI
THùC HIÖN TRî GIóP PH¸P Lý ë VIÖT NAM HIÖN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
TRN VN TY
HOàN THIệN CHế ĐịNH Về NGƯờI
THựC HIệN TRợ GIúP PHáP Lý ở VIệT NAM HIệN NAY
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s Nh nc v phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01
LUN VN THC S LUT HC
Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN HONG ANH
H NI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trần Văn Tùy
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH
NGƢỜI THỰC HIỆN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM ....... 8
1.1.
Khái niệm, đặc điểm ngƣời thực hiện TGPL ở Việt Nam .............. 8
1.1.1. Khái niệm người thực hiện TGPL ở Việt Nam .................................... 8
1.1.2. Đặc điểm người thực hiện TGPL ở Việt Nam ................................... 18
1.2.
Khái niệm, đặc điểm và yêu cầu hoàn thiện chế định về ngƣời
thực hiện TGPL ở Việt Nam............................................................ 25
1.2.1. Khái niệm chế định về người thực hiện TGPL ở Việt Nam .............. 25
1.2.2. Đặc điểm chế định về người thực hiện TGPL ở Việt Nam ................ 27
1.2.3. Yêu cầu hoàn thiện chế định về người thực hiện TGPL ở Việt Nam ....... 29
1.3.
Tiêu chí hoàn thiện chế định về ngƣời thực hiện TGPL ở Việt Nam..... 30
1.3.1. Tiêu chí về mặt nội dung .................................................................... 31
1.3.2. Tiêu chí về mặt hình thức ................................................................... 31
1.3.3. Tiêu chí về tính minh bạch, hiệu quả và khả thi của chế định
người thực hiện TGPL ........................................................................ 33
1.4.
Chế định về người thực hiện TGPL của một số nước trên
thế giới ............................................................................................... 34
1.4.1. Chế định người thực hiện TGPL phân loại theo mô hình TGPL ....... 35
1.4.2. Chế định người thực hiện TGPL theo pháp luật của một số nước
trên thế giới ......................................................................................... 38
1.4.3. Một số đặc điểm chung của chế định người thực hiện TGPL theo
pháp luật của một số nước trên thế giới ............................................. 42
Chƣơng 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC
TRẠNG CHẾ ĐỊNH VỀ NGƢỜI THỰC HIỆN TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM ................................................................... 45
2.1.
Khái quát quá trình hình thành và phát triển của chế định về
ngƣời thực hiện TGPL ở Việt Nam................................................. 45
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1987 (trước khi ban hành Pháp
lệnh Luật sư năm 1987) ...................................................................... 45
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1987 đến năm 1997 ............................................... 48
2.1.3. Giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2006 (trước khi Quốc hội khóa X
thông qua Luật Luật sư và Luật TGPL) .............................................. 49
2.1.4. Giai đoạn từ năm 2006 đến nay .......................................................... 52
2.2.
Thực trạng chế định về người thực hiện TGPL ở Việt Nam
hiện nay .............................................................................................. 58
2.2.1. Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến người thực hiện TGPL
hiện nay............................................................................................... 58
2.2.2. Thực trạng các quy định của pháp luật về người thực hiện TGPL.......... 60
2.3.
Thực trạng thực hiện chế định về ngƣời thực hiện TGPL ở
Việt Nam hiện nay ............................................................................ 79
2.4.
Đánh giá chung chế định về ngƣời thực hiện TGPL ở Việt
Nam hiện nay .................................................................................... 82
2.4.1. Những ưu điểm của chế định về người thực hiện TGPL ................... 82
2.4.2. Những điểm hạn chế của chế định về người thực hiện TGPL ........... 83
2.4.3. Nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế ................................................ 88
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ
ĐỊNH VỀ NGƢỜI THỰC HIỆN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................... 90
3.1.
Quan điểm hoàn thiện chế định về ngƣời thực hiện TGPL ở
Việt Nam hiện nay ............................................................................ 90
3.1.1. Hoàn thiện chế định về người thực hiện TGPL trên cơ sở thể chế
hóa chính sách của Đảng và Nhà nước về TGPL, góp phần cải cách
hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam ................................................................................. 90
3.1.2. Hoàn thiện chế định về người thực hiện TGPL phải tạo môi
trường pháp lý xây dựng đội ngũ người thực hiện TGPL, đồng
thời bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật
Việt Nam, phục vụ cho hoạt động cải cách tư pháp ở Việt Nam ....... 91
3.1.3. Hoàn thiện chế định về người thực hiện TGPL phải góp phần thực
hiện chính sách xã hội hóa hoạt động TGPL, huy động mọi nguồn
lực xã hội tham gia thực hiện TGPL, đáp ứng nhu cầu TGPL của
người được TGPL ................................................................................ 92
3.1.4. Hoàn thiện chế định về người thực hiện TGPL phải bảo đảm
chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, nâng cao trình độ, kỹ năng
của đội ngũ người thực hiện TGPL nhằm bảo đảm chất lượng
cung cấp dịch vụ TGPL, lấy người được TGPL làm trung tâm ......... 94
3.1.5. Hoàn thiện chế định về người thực hiện TGPL phải bảo đảm
được tính kế thừa những quy định về người thực hiện TGPL đã
được thực tiễn kiểm nghiệm trong thời gian qua, đồng thời tiếp
thu có chọn lọc chế định về người thực hiện TGPL của các nước
trên thế giới ......................................................................................... 95
3.2.
Giải pháp hoàn thiện chế định về ngƣời thực hiện TGPL ở
Việt Nam hiện nay ............................................................................ 97
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung quy định về Trợ giúp viên pháp lý, chuyên viên
pháp lý theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, nâng
cao trình độ, kỹ năng cho Trợ giúp viên pháp lý, chuyên viên
pháp lý nhằm bảo đảm chất lượng cung cấp dịch vụ TGPL .............. 97
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định về luật sư và Tư vấn viên pháp
luật tham gia TGPL bảo đảm rõ ràng, minh bạch, đồng bộ với
pháp luật về luật sư và tư vấn pháp luật ........................................... 101
3.2.3. Sửa đổi điều kiện, tiêu chuẩn Cộng tác viên TGPL ......................... 102
3.2.4. Sửa đổi pháp luật có liên quan đến chế định về người thực hiện
TGPL bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật ...... 105
3.2.5. Xã hội hóa hoạt động TGPL, huy động mọi nguồn lực xã hội
tham gia thực hiện TGPL, đáp ứng nhu cầu TGPL của người
được TGPL ....................................................................................... 106
KẾT LUẬN .................................................................................................. 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 112
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TGPL: Trợ giúp pháp lý
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Từ sau Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, cùng với
việc đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đổi mới hệ thống chính
trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân và vì Nhân dân nhằm “thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân”, “vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh” 36, tr.129. Để góp phần thực hiện các
mục tiêu này, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm chỉ đạo:
Cần phải mở rộng loại hình tư vấn pháp luật phổ thông, đáp
ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân nhằm góp
phần nâng cao ý thức pháp luật và ứng xử pháp luật của công dân
trong quan hệ đời sống hàng ngày...; cần nghiên cứu lập hệ thống
dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân
sống và làm việc theo pháp luật 72, tr.1; Tổ chức hình thức tư vấn
pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho
người nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí 36.
Thể chế hoá chủ trương của Đảng, xuất phát từ chức năng xã hội của
Nhà nước và nhu cầu hỗ trợ pháp luật của nhân dân trong cuộc sống, ngày
6/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg về việc
thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách.
Quyết định này là cơ sở pháp lý để hình thành hệ thống tổ chức và phát triển
hoạt động trợ giúp pháp lý (TGPL) ở nước ta. Theo đó, hệ thống TGPL đã
được thành lập: ở Trung ương có Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp, ở mỗi tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương có Trung tâm TGPL của nhà nước thuộc Sở
Tư pháp. Cùng với quá trình vừa xây dựng thể chế, hình thành và phát triển tổ
1
chức, thì đội ngũ người thực hiện TGPL (bao gồm: Trợ giúp viên pháp lý,
cộng tác viên của Trung tâm TGPL nhà nước, luật sư, Tư vấn viên pháp luật)
cũng được hình thành. Đội ngũ người thực hiện TGPL ngày càng phát triển cả
về số lượng và chất lượng, khi mới thành lập mỗi Trung tâm TGPL nhà nước
chỉ có một vài người, cho đến trước khi Luật TGPL có hiệu lực thi hành (từ
ngày 01/01/2007), chúng ta vẫn chưa có chức danh Trợ giúp viên pháp lý,
nhưng sau 08 năm thi hành Luật TGPL (2007-2014), tổng số công chức,
viên chức và người lao động khác thuộc hệ thống TGPL của nhà nước là
1.313, trong đó có 572 Trợ giúp viên pháp lý. Bên cạnh đội ngũ Trợ giúp
viên pháp lý, hiện nay, toàn quốc có trên 10.700 cộng tác viên TGPL, trong
đó có 1.136 cộng tác viên TGPL là luật sư và 174 tư vấn viên pháp luật đăng
ký tham gia TGPL [16, tr.4-5].
Thực tiễn hơn 18 năm qua cho thấy, hoạt động TGPL của người thực
hiện TGPL đã đáp ứng một phần cơ bản yêu cầu TGPL của đông đảo quần
chúng nhân dân, trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống pháp
luật của xã hội. Đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý đã từng bước đáp ứng yêu cầu
công việc, tham gia ngày càng nhiều các vụ việc tham gia tố tụng để đại diện,
bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL. Tuy
nhiên, số lượng và chất lượng người thực hiện TGPL chưa đồng đều, trong đó
đội ngũ luật sư vẫn chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn, có tình hình kinh
tế-xã hội phát triển (tính đến ngày 31/3/2015, Hà Nội có 2.472 luật sư, thành
phố Hồ Chí Minh có 4.137 luật sư); còn các tỉnh có điều kiện kinh tế khó
khăn thì có rất ít luật sư hành nghề (tính đến ngày 31/3/2015, Lai Châu có 02
luật sư; Bắc Kạn, Hà Giang, Hà Nam, Kon Tum đều có 06 luật sư)… [14].
Về thể chế, các văn bản pháp luật về lĩnh vực TGPL ngày càng hoàn
thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức và hoạt động TGPL nói chung,
người thực hiện TGPL nói riêng. Tuy nhiên, các chế định về người thực hiện
2
TGPL còn có những bất cập, hạn chế chủ yếu như: các quy định của pháp luật
về người thực hiện TGPL còn thiếu tính thống nhất và đồng bộ, mức chi thù
lao vụ việc TGPL cho đội ngũ cộng tác viên của Trung tâm TGPL nhà nước
còn thấp, chưa có cơ chế thu hút các tổ chức, cá nhân tham gia TGPL và cơ
chế quản lý, kiểm soát hoạt động nghĩa vụ TGPL của luật sư theo Luật Luật
sư, cũng chưa có chế tài nếu luật sư không thực hiện TGPL, …
Như vậy, các chế định về người thực hiện TGPL đang còn nhiều vấn đề
đặt ra cả về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn. Các vấn đề
trên cần được nghiên cứu, hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
mang tính chuyên nghiệp của người thực hiện TGPL, đáp nhu cầu TGPL ngày
càng tăng của người thuộc diện được TGPL.
Xuất phát từ những yêu cầu nêu trên, việc nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện
chế định về người thực hiện TGPL ở Việt Nam hiện nay” là yêu cầu khách quan,
cấp thiết cả về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam, TGPL vẫn được coi là một trong những hoạt động còn
tương đối mới mẻ, nhưng đến nay, đã có nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc
sĩ, đề tài cấp Bộ và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến TGPL cho người nghèo và đối tượng
chính sách nói chung, có thể kể đến như: Luận án Tiến sĩ “Điều chỉnh pháp
luật về TGPL ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới” của Tạ Thị Minh Lý; Luận
văn Thạc sĩ “Hoàn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của người nghèo ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Đỗ Xuân Lân; Luận văn Thạc
sĩ "Phát triển TGPL ở cơ sở" của tác giả Đặng Thị Loan; Luận văn thạc sĩ
“Bảo đảm quyền được TGPL” của tác giả Phan Thị Thu Hà; Luận văn Thạc sĩ
“Hoạt động TGPL trong các chương trình giảm nghèo” của tác giả Lê Thị
Thúy; Luận văn Thạc sĩ “Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL”
3
của tác giả Nguyễn Bích Ngọc; đề tài cấp Bộ: "Mô hình tổ chức và hoạt động
TGPL, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay” và “Luận cứ khoa
học và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh TGPL” do Viện Khoa học pháp lý-Bộ
Tư pháp chủ trì thực hiện, Chủ nhiệm Đề tài: Tạ Thị Minh Lý …
Đối với vấn đề pháp luật về người thực hiện TGPL, lần đầu tiên được
nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ: “Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện
TGPL ở Việt Nam” của tác giả Vũ Hồng Tuyến, nhưng vào thời điểm đó, tác
giả chỉ dừng lại ở mức độ khái quát về khái niệm, đặc điểm, vai trò và thực
trạng pháp luật về người thực hiện TGPL (chủ yếu là chuyên viên công tác ở
Trung tâm TGPL nhà nước) trước khi Luật TGPL ban hành, do vậy giải pháp
của Luận văn chỉ dừng lại kiến nghị xây dựng chức danh người thực hiện
TGPL, xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp TGPL, chế độ chính sách, tiêu
chuẩn cộng tác viên TGPL… để xây dựng pháp luật về người thực hiện TGPL.
Có thể nói, phần lớn các công trình, bài viết của các tác giả mới đề cập
đến một số vấn đề về chế định về người thực hiện TGPL. Vì vậy, với đề tài
"Hoàn thiện chế định về người thực hiện TGPL ở Việt Nam hiện nay", tác
giả luận văn sẽ đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan cả về mặt
lý luận và thực tiễn, góp phần tìm ra giải pháp khoa học nâng cao hiệu quả
hoạt động TGPL của đội ngũ người thực hiện TGPL trong thời gian tới để
người nghèo, người dân tộc thiểu số, người được hưởng chính sách ưu đãi và
người có hoàn cảnh đặc biệt khác được hưởng dịch vụ TGPL có chất lượng
tốt theo nhu cầu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
chế định người thực hiện TGPL ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm,
giải pháp hoàn thiện chế định về người thực hiện TGPL trong thời gian tới.
4
Thực hiện mục đích trên, đề tài có nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Hệ thống hoá, phân tích, khái quát làm sáng tỏ những vấn đề lý luận,
pháp lý về chế định người thực hiện TGPL ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng của chế định về người thực hiện TGPL
ở Việt Nam trong thời gian qua, phát hiện những hạn chế, khó khăn, vướng
mắc, bất cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện.
- Đề xuất, luận chứng các quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện chế
định về người thực hiện TGPL ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
TGPL là một lĩnh vực tương đối rộng, bao gồm cả khái niệm, đối
tượng, phương thức, phạm vi, mô hình tổ chức, quản lý nhà nước… về TGPL,
do đó cần nhiều công trình nghiên cứu với quy mô và thời gian thích hợp. Về
phần mình, đề tài chủ yếu nghiên cứu về người thực hiện TGPL với những
vấn đề liên quan đến tiêu chuẩn, điều kiện của người thực hiện TGPL, cũng
như các quyền, nghĩa vụ của người thực hiện TGPL của tổ chức TGPL nhà
nước và các tổ chức TGPL thuộc các tổ chức chính trị - xã hội. Đề tài không
nghiên cứu những người phục vụ cho việc thực hiện TGPL như: thủ quỹ, kế
toán, văn thư, bảo vệ, lái xe. Phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở cơ sở lý
luận và thực tiễn, thực trạng chế định về người thực hiện TGPL ở Việt Nam
trong thời gian qua, quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện các chế định về
người thực hiện TGPL ở Việt Nam trong thời gian tới, có sự tham khảo pháp
luật về người thực hiện TGPL của một số nước trên thế giới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật và những quan điểm của Đảng
về xây dựng và hoàn thiện nhà nước và pháp luật. Một số văn kiện của Đảng,
Hiến pháp năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật được sử dụng rộng
5
rãi là cơ sở chính trị - pháp lý cho các vấn đề có liên quan đến nội dung của
đề tài. Các báo cáo kết quả hoạt động TGPL, các công trình nghiên cứu trong
và ngoài nước có liên quan cũng được tham khảo và kế thừa có chọn lọc.
Khi nghiên cứu, Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác
- Lê nin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các
phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê... kết hợp với
phương pháp khai thác, sử dụng tư liệu, kết quả khảo sát thực tiễn... để kế
thừa và chọn lọc những tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn về các vấn
đề liên quan phục vụ nội dung nghiên cứu và hoàn chỉnh Luận văn.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Việc hoàn thiện chế định về người thực hiện TGPL có một số đóng góp
mới sau đây:
- Về mặt lý luận, Luận văn đã phân tích, bổ sung và làm rõ các khái niệm
về TGPL, người thực hiện TGPL, chế định về người thực hiện TGPL; đưa ra
một số quan điểm, đặc điểm về người thực hiện TGPL, góp phần bổ sung, làm
phong phú thêm hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật về TGPL.
- Trên cơ sở luận cứ về lý luận cũng như đánh giá thực tiễn hoạt động
TGPL, quan điểm của Đảng, Nhà nước về cải cách hành chính, cải cách tư
pháp nói chung và TGPL nói riêng, Luận văn đưa ra những cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc xác định chức danh, trong đó có nhất thể hóa chức danh
Trợ giúp viên pháp lý và luật sư là một vấn đề mới về người thực hiện TGPL,
góp phần đẩy mạnh hơn nữa nhiệm vụ đại diện, bào chữa trước Tòa của tổ
chức thực hiện TGPL; thống nhất tên gọi, xây dựng tiêu chuẩn, trình độ pháp
luật của đội ngũ người thực hiện TGPL của các tổ chức chính trị - xã hội…
những giải pháp về người thực hiện TGPL phù hợp với điều kiện trước mắt,
đồng thời có thể áp dụng cho hoạt động TGPL trong thời gian tới.
- Những vấn đề làm sáng tỏ trong Luận văn góp phần xây dựng và hoàn
6
thiện chế định về người thực hiện TGPL nói riêng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật về TGPL ở Việt Nam, trong đó có Luật TGPL.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn nghiên cứu, xây dựng, làm phong phú thêm hệ thống cơ sở lý
luận, pháp lý và thực tiễn về chế định người thực hiện TGPL ở Việt Nam.
Trên cơ sở đó đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện chế định về người
thực hiện TGPL trong thời gian tới, phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển
hoạt động TGPL ở Việt Nam hoặc có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, tìm hiểu về người thực hiện TGPL ở Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 10 tiết.
7
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH
NGƢỜI THỰC HIỆN TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm ngƣời thực hiện TGPL ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm người thực hiện TGPL ở Việt Nam
Để xác định nội hàm của khái niệm và những đặc điểm cơ bản của chế
định về người thực hiện TGPL, cần phải hiểu khái niệm TGPL.
1.1.1.1. Khái niệm TGPL ở Việt Nam
Thuật ngữ “TGPL” là một cụm từ ghép “trợ giúp” và “pháp lý”; cụm từ
“trợ giúp” hiện có nhiều cách giải thích khác nhau, theo Đại Từ điển tiếng
Việt, Nguyễn Như Ý, Nxb Văn hoá-Thông tin, 1999 thì "trợ giúp” được hiểu
là “sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem cho ai cái gì đang lúc
khó khăn, đang cần đến” [76]. Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam-Nguyễn
Lân, Nxb.TP Hồ Chí Minh thì “trợ giúp” là “góp sức hoặc góp tiền cho một
người hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền công” [41]. Với
từ điển tiếng Việt của Nxb. Khoa học xã hội, 1994 thì thuật ngữ “trợ giúp”
được hiểu là “giúp đỡ”. Thuật ngữ “giúp đỡ” lại được giải thích là giúp để làm
giảm bớt khó khăn, nghĩa là làm cho ai một việc gì đó hoặc cho ai cái gì đó mà
người ấy đang cần. Cái đang cần ở đây là “pháp lý” theo nghĩa rộng của từ này.
Thuật ngữ "pháp lý” được hiểu là lí lẽ, lẽ phải theo pháp luật [74, tr.606].
Ở Việt Nam, từ năm 1995, thuật ngữ "TGPL” được xuất hiện trên các
tài liệu nghiên cứu, sách, báo. Đến năm 1997, thuật ngữ này chính thức được
sử dụng trong Quyết định 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ
về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và chế độ chính sách. Hiện
nay, có cả một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (trên 32 văn bản quy
phạm pháp luật thuộc lĩnh vực TGPL đang có hiệu lực pháp luật) sử dụng
8
thuật ngữ “TGPL” và thuật ngữ này xuất hiện ngày càng nhiều trong các sách,
báo và tài liệu khoa học pháp lý.
Trong quá trình nghiên cứu khái niệm TGPL của một số nước trên thế
giới, chúng tôi nhận thấy, hầu hết các nhà làm luật trên thế giới điều xuất phát
từ cơ sở lý luận về nhân quyền và bảo đảm nhân quyền, coi TGPL như là một
biện pháp bảo đảm tư pháp dành cho người không có điều kiện tiếp cận và sử
dụng các dịch vụ pháp lý, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Có thể nói, nội dung của khái niệm “TGPL” ở mỗi nước có khác nhau, phụ
thuộc vào chế độ chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội của từng nước, nhưng
đều thể hiện 3 tính chất là: kinh tế, pháp lý và nhân đạo. Tính kinh tế, thể hiện
ở chỗ việc thực hiện pháp luật về TGPL cho những đối tượng không có khả
năng tài chính hoặc khó khăn tài chính để chi trả cho các chi phí khi tiếp cận
với các dịch vụ pháp lý. Điều 2 Đạo luật về đại diện và tư vấn pháp lý năm
1995 của Singapoge cho rằng TGPL là việc giúp đỡ những người không có
khả năng chi trả cho các dịch vụ pháp lý, ngoài ra một số nước như: Thụy
Điển, Đức, Hà Lan… cũng có quan niệm về TGPL theo hướng này. Tính
pháp lý thể hiện ở chỗ, sự giúp đỡ, hỗ trợ các vấn đề liên quan đến pháp luật
như tư vấn, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật quy
định… như Hàn Quốc cho rằng “TGPL” được hiểu là việc một luật sư hoặc
một cán bộ pháp lý của nhà nước cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật, đại diện
hoặc các dịch vụ trợ giúp khác có liên quan đến pháp luật. Tính nhân đạo thể
hiện ở chỗ, tạo cơ hội cho những người nghèo nâng cao hiểu biết pháp luật,
bình đẳng trong việc sử dụng, tiếp cận pháp luật, tham gia xoá đói, giảm
nghèo và huy động được sự tham gia rộng rãi của các lực lượng xã hội. Điều
1001 Đạo luật về Công ty dịch vụ pháp lý được sửa đổi năm 1977 của Mỹ
quy định: TGPL là tạo sự công bằng khi tiếp cận pháp luật của các cá nhân
không thể thuê mướn luật sư, tạo cơ hội cho những người có thu nhập thấp.
9
Ngoài ra, pháp luật về TGPL ở một số nước như: Trung Quốc, Anh, Quebec
(Canada)… cũng thể hiện tính nhân đạo sâu sắc.
Thuật ngữ “TGPL” mới xuất hiện ở nước ta vào những năm cuối thế kỷ
XX, trong quá trình xây dựng Luật TGPL, các nhà khoa học Việt Nam đã
tham khảo các khái niệm TGPL của một số nước trên thế giới và các quan
niệm về TGPL ở Việt Nam để đưa ra một số khái niệm TGPL. Viện Nghiên
cứu khoa học pháp lý-Bộ Tư pháp khi thực hiện đề tài khoa học cấp Bộ "Mô
hình tổ chức và hoạt động TGPL, phương hướng thực hiện trong điều kiện
hiện nay" đã đưa ra khái niệm TGPL như sau:
Theo nghĩa rộng, TGPL hiểu là sự giúp đỡ của nhà nước và xã hội cho
người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận với
các dịch vụ pháp lý (tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa), nhằm bảo đảm
cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và thực hiện công bằng xã
hội. Theo nghĩa hẹp, TGPL là sự giúp đỡ miễn phí của các tổ chức TGPL
của nhà nước cho người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc
thiểu số tiếp cận với các dịch vụ pháp lý (tư vấn pháp luật, đại diện, bào
chữa), nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và
thực hiện công bằng xã hội” [75].
Đồng tình với các khái niệm TGPL theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp trên,
Thạc sỹ Vũ Hồng Tuyến cho rằng:
Khái niệm này đề cập một cách toàn diện, mục đích và ý
nghĩa của hoạt động TGPL (sự giúp đỡ miễn phí, tạo cho mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật và thực hiện công bằng xã hội).
Khái niệm trên cũng bao hàm một cách tương đối đầy đủ về phạm
vi (tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa), chủ thể của hoạt động
TGPL (Nhà nước và xã hội mà chủ yếu là các tổ chức TGPL) và
đối tượng TGPL (người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào
dân tộc thiểu số) [70, tr.13].
10
Tuy nhiên, các quan niệm, khái niệm nêu trên vẫn chưa khái quát toàn
diện về hoạt động TGPL, nhất là khía cạnh bảo đảm quyền con người, quyền
công dân trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Những quan niệm đó đều lấy
người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số làm cơ sở
xây dựng khái niệm, đồng thời mới chỉ nhìn nhận thông qua hình thức biểu
hiện của đối tượng mà hoạt động TGPL hướng tới mà chưa chỉ ra các thuộc
tính bản chất, đặc trưng của TGPL.
Có quan niệm cho rằng: “TGPL là việc cung cấp miễn phí dịch vụ tư
vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng trong lĩnh vực hình
sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính cho người thuộc diện được
TGPL do Nhà nước bảo đảm” [34, tr.2]. Khái niệm này làm rõ hình thức,
lĩnh vực TGPL và trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm cung cấp
dịch vụ pháp lý miễn phí cho người thuộc diện được TGPL (nhà nước trả
tiền cho người thực hiện TGPL cho các đối tượng được TGPL theo quy
định của Luật TGPL). Tuy nhiên, khái niệm này đã thu hẹp lĩnh vực TGPL,
hình thức TGPL so với Luật TGPL năm 2006 là chưa phù hợp với xu
hướng phát triển chung của xã hội.
Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng: TGPL là việc cung ứng các dịch vụ
pháp lý miễn phí hoặc có thu phí nhưng thấp hơn giá trị của dịch vụ thông qua
các hình thức đại diện, bào chữa, tư vấn pháp luật và các hình giúp đỡ pháp
luật khác cho người được TGPL theo quy định của pháp luật. Có thể thấy,
quan niệm này đề cập đến khía cạnh thu phí nhưng thấp hơn giá trị của dịch
vụ, cách tiếp cận này chưa thể hiện hết tính chất nhân đạo và pháp lý của nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trong đó hoạt động TGPL xuất phát từ
chức năng xã hội của nhà nước ta.
Từ những phân tích trên đây, có thể nói các nhà luật học, nhà nghiên
cứu khoa học pháp lý đã xây dựng khái niệm TGPL chủ yếu căn cứ vào đối
11
tượng được hưởng dịch vụ TGPL, chủ thể thực hiện TGPL, tính chất của hoạt
động TGPL hoặc đề cập đến khía cạnh có thu phí.
Ngày 29/6/2006, tại kỳ họp thứ 9, khoá XI, Quốc hội nước cộng hoà
XHCN Việt Nam đã thông qua Luật TGPL, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2007, tại Điều 3 đã đưa ra khái niệm về TGPL:
TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người
được TGPL theo quy định của Luật này, giúp người được TGPL
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp
luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc
phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, đảm bảo công bằng xã
hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [50, tr.2].
Có thể khẳng định, khái niệm TGPL theo Luật TGPL đã thể hiện tương
đối toàn diện những thuộc tính chung, bản chất và mục đích, ý nghĩa của hoạt
động TGPL ở nước ta.
Một là, TGPL ở nước ta có tính chất là dịch vụ pháp lý miễn phí: khoản 1,
Điều 4 của Luật TGPL năm 2006 đưa ra nguyên tắc hoạt động TGPL: "không
thu phí, lệ phí, thù lao từ người được TGPL” [50, tr.2], có thể nói, đây là tính
chất khác biệt của hoạt động TGPL ở Việt Nam so với nhiều nước trên thế
giới (đa số các nước trên thế giới quy định người được TGPL phải trả một
phần lệ phí cho các dịch vụ pháp lý). Tính chất miễn phí này xuất phát từ điều
kiện kinh tế của Việt Nam còn khó khăn, mức độ hiểu biết pháp luật của đông
đảo các tầng lớp nhân dân còn hạn chế. Nhiều công dân được xác định là
người nghèo, họ chưa đủ kinh phí để trang trải cho nhu cầu cuộc sống thiết
yếu hàng ngày, nên họ gặp nhiều khó khăn hoặc không thể chi trả một phần
hay toàn bộ kinh phí cho dịch vụ pháp lý. Vì vậy, TGPL ở nước ta thể hiện rõ
tính chất miễn phí cho người thuộc diện được TGPL nói chung, trong đó
người nghèo chiếm tỷ lệ đa số.
12
Hai là, TGPL ở nước ta mang bản chất Nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam: xuất phát từ chức năng của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam,
để thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình, nhà nước đã ban hành pháp
luật để quản lý, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và giúp cho công dân hiểu
biết pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; người dân thông
qua nhà nước để thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật.
TGPL là một trong những hình thức đưa pháp luật vào cuộc sống, giúp người
dân hiểu biết pháp luật, từ đó họ có thể tự bảo vệ, nhờ luật sư hoặc người khác
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, TGPL là hoạt động thể
hiện rõ bản chất của nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân
dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, khác so với bản chất hoạt động TGPL của
nhiều nước trên thế giới.
Hơn nữa, một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước pháp
quyền XHCN là xoá đói giảm nghèo, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội.
Trong một số chương trình thực hiện mục tiêu là xoá đói, giảm nghèo, Chiến
lược xoá đói, giảm nghèo của Đảng và Nhà nước ta có đề cập về TGPL cho
người nghèo như: Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, tăng cường TGPL và khả
năng tiếp cận pháp lý cho người nghèo. Mở rộng mạng lưới trợ giúp pháp luật
để người nghèo ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa có thể tiếp cận với các dịch
vụ TGPL. Theo đó, Chiến lược xoá đói, giảm nghèo đã ghi nhận hoạt động
TGPL với tính cách là một bộ phận không thể thiếu trong tổng thể chương
trình quốc gia xoá đói, giảm nghèo. TGPL trước hết có mục đích “xoá nghèo”
về mặt pháp luật, nâng cao tri thức hiểu biết pháp luật nhân dân. Do vậy, hoạt
động TGPL luôn mang bản chất Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
Ba là, TGPL mang tính chất nhân đạo xã hội sâu sắc: ngoài việc giúp
đỡ người nghèo và đối tượng chính sách thông qua hoạt động tư vấn pháp
13
luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, thì TGPL ở nước ta còn cho
phép người thực hiện TGPL giúp đỡ người nghèo và đối tượng chính sách hoà
giải, thực hiện những công việc liên quan đến thủ tục hành chính, khiếu nại và
các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Xuất phát từ thực tiễn điều
kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam, người nghèo và đối tượng chính sách của
nước ta còn nhiều, nhận thức pháp luật của đại đa số nhân dân còn hạn chế,
nhu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thuộc diện được TGPL
ngày càng cao. Các hình thức TGPL sẽ trang bị cho người dân những kiến
thức pháp luật cơ bản, giúp họ hiểu quyền và nghĩa vụ thông qua việc tham
gia các quan hệ pháp luật; từ đó có thể giúp họ tự giải quyết một số vấn đề
pháp lý liên quan trong cuộc sống, tự giác thực hiện các nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật, tránh những hành vi vi phạm pháp luật. Vì vậy, TGPL
luôn mang tính chất nhân đạo xã hội sâu sắc bởi tính đa dạng của hình thức
TGPL ở Việt Nam.
Tuy nhiên, để khái niệm TGPL mang tính khái quát cao, thể hiện toàn
diện những thuộc tính chung, bản chất của hoạt động TGPL ở nước ta, tác giả
luận văn đưa ra khái niệm: “TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho
người được TGPL bằng các hình thức tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại
diện ngoài tố tụng và các hình thức TGPL khác theo quy định của pháp luật”.
1.1.1.2. Khái niệm người thực hiện TGPL ở Việt Nam
Để có cơ sở lý luận xác định rõ nội hàm của khái niệm “người thực hiện
TGPL”, cần phải hiểu khái niệm “thực hiện”. Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam
- G.s Nguyễn Lân, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, “thực hiện” nghĩa là
“làm cho sự thật hiển nhiên” [41]. Theo Đại Từ điển tiếng Việt - Nguyễn Như Ý,
Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2013, thì “thực hiện” là “làm
cho trở thành cái có thật bằng hoạt động cụ thể” [77, tr.1555]. Khái niệm “thực
hiện” được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau. Xét ở khía cạnh hành vi thì
14
“thực hiện” là hành vi thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động
của con người. Dưới góc độ pháp lý, thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp,
phù hợp với quy định của pháp luật. Dưới góc độ thực hiện pháp luật, đó là
hành vi biểu hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động của con người
phù hợp với những quy định của pháp luật. Nhìn chung, cho dù xét ở góc độ
nào thì “thực hiện” là hoạt động của con người.
Có thể nói, người thực hiện là người làm cho trở thành cái có thật bằng
hoạt động cụ thể, là người làm cho sự thật hiển nhiên, người đưa ra các hành
vi biểu hiện dưới dạng hành động cụ thể để cho sự việc đi theo một hướng
nhất định. Có thể hiểu theo cách đơn giản và theo nghĩa hẹp thì người thực
hiện TGPL là người làm công tác trong lĩnh vực TGPL, tham gia hoạt động
TGPL, nghĩa là những người làm những công việc có liên quan đến chuyên
môn, nghiệp vụ về TGPL.
Từ những phân tích nêu trên và xem xét toàn diện hoạt động TGPL ở
Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn, tác giả luận văn rút ra khái niệm người
thực hiện TGPL như sau:
“Người thực hiện TGPL là người cung cấp dịch vụ pháp lý cho người
được TGPL theo quy định của pháp luật”.
Theo tác giả luận văn, khái niệm về người thực hiện TGPL trên mang
tính khái quát, thể hiện toàn diện những vấn đề liên quan đến người thực hiện
TGPL theo quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể:
Thứ nhất, người thực hiện TGPL là người cung cấp dịch vụ pháp lý cho
người được TGPL. Theo Luật TGPL năm 2006, người thực hiện TGPL gồm:
Trợ giúp viên pháp lý, cộng tác viên TGPL, luật sư, tư vấn viên pháp luật. Họ
cung cấp dịch vụ pháp lý cho các đối tượng thuộc diện được TGPL thông qua
các hình thức: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và các
hình thức TGPL khác theo quy định của pháp luật; đồng thời, vụ việc TGPL
15
mà họ thực hiện phải liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được
TGPL và không thuộc lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Người thực hiện
TGPL cung cấp dịch vụ TGPL cho người được TGPL theo quy định của pháp
luật về TGPL. Riêng đối với luật sư khi tham gia TGPL thì ngoài việc tham
gia TGPL với tư cách cộng tác viên của Trung tâm TGPL nhà nước theo quy
định của pháp luật về TGPL, họ còn phải thực hiện các quy định của pháp
luật về luật sư.
Thứ hai, người thực hiện TGPL là người có đủ các điều kiện, tiêu
chuẩn theo quy định của pháp luật, như: là công dân Việt Nam thường trú tại
Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, có
kiến thức pháp luật... Người thực hiện TGPL có thể là Trợ giúp viên pháp lý,
cộng tác viên của Trung tâm TGPL nhà nước, luật sư và tư vấn viên pháp luật
làm việc trong tổ chức tư vấn pháp luật, theo quy định họ phải là người có
trình độ pháp luật (tiêu chuẩn chung của Trợ giúp viên pháp lý và cộng tác
viên TGPL: có bằng cử nhân luật). Đối với cộng tác viên TGPL thì có thể có
bằng đại học khác với bằng cử nhân luật, nhưng phải làm việc trong các
ngành, nghề có liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Riêng
ở những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc
thiểu số và miền núi, cộng tác viên được ưu tiên trình độ thấp hơn (chỉ cần có
bằng trung cấp luật hoặc có thời gian làm công tác pháp luật từ 3 năm trở lên
hoặc có kiến thức pháp luật và có uy tín trong cộng đồng).
Thứ ba, người thực hiện TGPL phong phú, đa dạng về đối tượng tham
gia cung cấp dịch vụ TGPL. Người thực hiện TGPL có thể là người được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước, được nhà nước giao nhiệm vụ chuyên
trách thực hiện TGPL cho người dân, như Trợ giúp viên pháp lý là viên chức
nhà nước, làm việc tại Trung tâm TGPL nhà nước, được Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý theo đề nghị của
16
Giám đốc Sở Tư pháp. Người thực hiện TGPL cũng có thể là người có trình
độ hiểu biết pháp luật nhất định tham gia TGPL theo cơ chế cộng tác viên
TGPL. Cộng tác viên thường là những người có trình độ hiểu biết pháp luật
và công tác tại cơ quan nhà nước hay tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính
trị xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội-nghề nghiệp… Tuy nhiên, để trở thành
cộng tác viên họ phải tự nguyện tham gia TGPL mà không thuộc một trong
các trường hợp không được tham gia TGPL theo quy định tại khoản 3, Điều
20 của Luật TGPL năm 2006, đồng thời có hồ sơ đề nghị làm cộng tác viên và
được tổ chức TGPL chấp nhận, ký hợp đồng cộng tác theo quy định. Người
thực hiện TGPL có thể là người làm việc cho một tổ chức nhất định, và được
tổ chức đó giao nhiệm vụ thực hiện TGPL cho thành viên của tổ chức, như tư
vấn viên pháp luật làm việc trong tổ chức tư vấn pháp luật thực hiện tư vấn
pháp luật miễn phí cho hội viên của mình. Ngoài ra, người thực hiện TGPL
còn phải thực hiện nghĩa vụ TGPL, đó là luật sư thực hiện nghĩa vụ TGPL
theo quy định của Luật Luật sư.
Để hiểu rõ đặc điểm người thực hiện TGPL ở Việt Nam, chúng ta cần
phân biệt người thực hiện TGPL với việc áp dụng pháp luật về TGPL. Áp
dụng pháp luật về TGPL là hoạt động thực hiện pháp luật về TGPL của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đó là một trong những cách thức nhà nước
tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật về TGPL. Áp dụng pháp luật về
TGPL là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, chỉ do cơ
quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành như: Trung tâm
TGPL thuộc Sở Tư pháp, Chi nhánh của Trung tâm TGPL… Hoạt động áp
dụng pháp luật về TGPL được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn phương của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không phụ thuộc vào yếu tố của chủ thể bị
áp dụng là đối tượng TGPL. Hoạt động áp dụng pháp luật TGPL có tính chất
bắt buộc với chủ thể bị áp dụng. Còn người thực hiện TGPL là những con
17