Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

GIÁ TRỊ CỦA GIÁO LÝ PHẬT GIÁO TRONG VIỆC THỰC HIỆN LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

NGUYỄN THỊ HƢƠNG

GIÁ TRỊ CỦA GIÁO LÝ PHẬT GIÁO TRONG VIỆC THỰC HIỆN
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

HÀ NỘI – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

NGUYỄN THỊ HƢƠNG

GIÁ TRỊ CỦA GIÁO LÝ PHẬT GIÁO TRONG VIỆC THỰC HIỆN
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60 22 03 09
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

Chủ tịch hội đồng

TS. Nguyễn Thị Tố Uyên



PGS. TS. Trần Thị Kim Oanh

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Tố Uyên. Các nhận định nêu ra trong luận
văn là kết quả nghiên cứu nghiêm túc, độc lập của bản thân dựa trên cơ sở tìm
hiểu, nghiên cứu các tài liệu khoa học đã được công bố. Luận văn đảm bảo
tính khách quan, trung thực và khoa học.
Học viên

Nguyễn Thị Hương


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị
Tố Uyên, người đã trực tiếp chỉ bảo tận tình, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy, các Cô và tập thể cán bộ
Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN, đặc biệt các
thầy cô ở Bộ môn Tôn giáo học đã giúp đỡ, dạy bảo, động viên và trao đổi ý
kiến khoa học quý báu trong suốt thời gian học tập để tôi có thể hoàn thành
luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã luôn
ủng hộ và giúp đỡ để tôi có thể thực hiện tốt luận văn này. Tôi xin chân thành
cảm ơn!
Học viên


Nguyễn Thị Hương


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 3
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 5
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu...................................................... 6
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.......................................... 7
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu. ............................................... 7
6. Ý nghĩa của luận văn................................................................................... 8
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 8
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHẬT GIÁO VÀ LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...................................... 9
1.1.Một số khái quát chung về Phật giáo và Phật giáo Việt Nam............... 9
1.1.1.Nguồn gốc ra đời và giáo lý cơ bản của Phật giáo ................................ 9
1.1.2.Khái quát chung về Phật giáo Việt Nam .............................................. 20
1.2.Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay ............................... 27
1.2.1.Khái quát nội dung cơ bản của luật Hôn nhân và Gia đình từ năm
1945 – 1986 ..................................................................................................... 28
1.2.2.Khái quát nội dung cơ bản của luật Hôn nhân và Gia đình từ năm
1986 đến nay. .................................................................................................. 34
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 45
Chƣơng 2. VAI TRÒ CỦA GIÁO LÝ PHẬT GIÁO TRONG VIỆC
THỰC HIỆN LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY ................................................................................................................ 47
2.1.Khái quát quan niệm của Phật giáo về hôn nhân ................................ 47
2.1.1.Quan niệm về nghi thức tổ chức lễ ăn hỏi của Phật giáo................... 47
2.1.2.Quan niệm về nghi thức tổ chức lễ cưới của Phật giáo ...................... 61
2.2.Ảnh hƣởng của giáo lý Phật giáo trong lĩnh vực hôn nhân gia đình

hiện nay .......................................................................................................... 67

1


2.2.1.Ảnh hưởng đối với mối quan hệ giữa vợ và chồng trong gia đình .... 67
2.2.2.Ảnh hưởng đối với mối quan hệ giữa vợ chồng và các thành viên
khác ................................................................................................................. 77
Tiểu kết chƣơng 2:......................................................................................... 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 98

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo là một tôn giáo thế giới, xuất hiện ở Ấn Độ từ thiên niên kỉ
thứ III TCN. Trong quá trình phát triển và truyền bá, Phật giáo đã được lan
rộng đến nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Đến với nước ta bằng con đường hòa bình, đường thủy thông qua con
đường buôn bán với thương gia Ấn Độ và đường bộ là con đường đồng cỏ từ
Trung Á cùng với hệ thống giáo lý, giáo luật gắn sát với thực tế nên Phật giáo
dễ dàng được người dân tiếp nhận. Du nhập vào Việt Nam từ đầu Công
nguyên, Phật giáo đã thực sự có một chỗ đứng vững chắc cùng với các tôn
giáo khác trong lòng dân tộc Việt Nam.
Ngay khi được truyền vào, từ thế kỷ đầu, Ðạo Phật đã nhanh chóng
thích nghi với lối sông của người dân Việt và trong quá trình hình thành và
phát triển trên đất nước này, Ðạo Phật đã không gặp một trở ngại nào trong

việc hòa nhập vào mọi giai tầng của xã hội Việt Nam. Ðạo Phật đã thấm vào
nền văn minh Việt Nam tự nhiên và dễ dàng như nước thấm vào đất. Ðạo
Phật đã lan tỏa khắp hang cùng ngỏ hẻm trên lãnh thổ Việt Nam và đã có một
chỗ đứng nhất định từ cung đình cho đến làng xã Việt Nam. Ðạo lý của Phật
giáo Việt Nam cũng đã ảnh hưởng và ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của
người dân Việt và đã trở thành những giá trị tinh thần vô giá cho người dân
trên xứ sở này. Trong suốt chiều dài lịch sử mười tám thế kỷ qua, Ðạo Phật đã
chứng minh sự hiện hữu của mình trong hầu hết các lãnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, luật pháp... và có những đóng góp, những ảnh hưởng tích
cực vào các mặt nói trên.
Có thể nói, Phật giáo được xem là một trong những nhân tố quan trọng
góp phần định hình nên các quan niệm, chu n mực, hệ giá trị đạo đức trong
xã hội. Trong hệ thống giáo lý Phật giáo, chúng ta có thể tìm thấy những cơ

3


sở lý luận xác thực cho vấn đề đạo đức xã hội, hướng con người tới Chân,
Thiện, M .
Ở Việt Nam từ những năm cuối của thế kỷ XX, đất nước ta đang ngày
càng chịu nhiều tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, của quá trình
công trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá. Theo đó, mặt trái của quá trình này
là các giá trị đạo đức truyền thống đang dần bị băng hoại, nhiều biểu hiện của
lối sống xa lạ, trái với thuần phong m tục trong một bộ phận cộng đồng dân
cư diễn ra ngày càng phổ biến. Thái độ coi thường những giá trị truyền thống
là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội đang ngày càng có chiều hướng gia
tăng, đặc biệt là ở lớp trẻ. Họ có thiên hướng đề cao cá nhân, sống ích kỷ,
lạnh lùng, không tình không nghĩa, ít chú ý đến nghĩa vụ và trách nhiệm, ít
quan tâm đến những người xung quanh,… Hàng loạt những hiện tượng đau
lòng diễn ra thường xuyên trong thời gian gần đây khiến cho chúng ta không

thể làm ngơ. Có thể nói sự xuống cấp về đạo đức đang trở thành một vấn nạn
của toàn xã hội. Trước yêu cầu phát triển của đất nước, sự cần thiết phải xây
dựng một nền tảng đạo đức mới cho xã hội trên cơ sở kế thừa các giá trị đạo
đức truyền thống đã được đặt ra.
Là một trong những thành tố tạo nên nền văn hoá dân tộc trong suốt
hàng nghìn năm, Phật giáo ngày nay vẫn lưu giữ những giá trị tích cực có thể
góp phần xây dựng đạo đức lối sống cho con người Việt Nam. Tính hướng
thiện của Phật giáo là một trong những nguồn gốc của chủ nghĩa nhân đạo; tư
tưởng bình đẳng, hoà bình của Phật giáo phù hợp với xu hướng hoà đồng liên
kết giữa các dân tộc trên thế giới trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay. Tác
động của Phật giáo đến giá trị đạo đức con người Việt Nam thông các phong
tục truyền thống là vô cùng rõ nét, tiêu biểu như trong việc thực hiện luật Hôn
nhân và Gia đình của người Việt.

4


Giáo lý của đạo Phật hướng đến mục đích giải thoát và giác ngộ, xuất
ly thế gian. Tuy nhiên, giáo lý ấy luôn đặt trên nền tảng nhân bản, hướng
đến con người và nhằm giúp cho con người có được hạnh phúc trong cuộc
sống, cho nên những lời dạy của đức Phật không xa rời thực tiễn, không phản
lại hiện thực của xã hội.
Hơn nữa, tín đồ theo đạo Phật phần lớn là những người Phật tử tại gia,
hàng ngũ xuất gia chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ. Chính vì vậy, Đức Phật đã
chỉ dạy những vấn đề về hôn nhân, gia đình, và nêu lên những quan điểm của
Ngài về vấn đề ấy để giúp cho các Phật tử sống theo chánh pháp nhưng vẫn
có được hạnh phúc trong đời sống gia đình.
Xuất phát từ tình hình trên, tôi lựa chọn đề tài “Giá trị của giáo lý Phật
giáo trong việc thực hiện luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay” để
nghiên cứu với mong muốn làm sáng rõ sự tác động của tư tưởng Phật giáo

đến hệ thống pháp luật Việt Nam, cụ thể là luật hôn nhân và gia đình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong luận văn này, tôi xin được góp nhặt cơ sở tư liệu trong các sách,
báo, tạp chí, những công trình chuyên nghiên cứu về Phật giáo, về tư tưởng
nói chung trong đó có Phật giáo, những công trình nghiên cứu liên quan đến
mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo. Tôi xin tạm chia các tài liệu thành hai
khuynh hướng sau:
Thứ nhất, khuynh hướng nghiên cứu về Phật giáo, các nghi lễ tôn giáo.
Trong đó tiêu biểu là các tài liệu như cuốn: Đào Nguyên, Sự gắn bó giữa dân
tộc Việt nam và dân tộc Việt Nam nhìn ở góc độ văn học; Đặng Nghiêm Vạn
(chủ biên) nhiều tác giả (1996), Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội; Đỗ Thuận Khiêm, Hướng đến một Phật giáo
thời đại; Giác Dũng, Phật Việt Nam, dân tộc Việt Nam; Nguyễn Lang, Việt
Nam Phật giáo sử luận; Nguyễn Hồng Dương, Tôn giáo trong mối quan hệ

5


văn hóa và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội; Tạ Chí Hồng, “Ảnh
hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam
hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội, năm 2014; Thích Minh Châu
với “Đạo đức học Phật giáo", Nxb Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 1995 và “Đạo đức Phật giáo và hạnh phúc con người”, Nxb Tôn
giáo, năm 2002,...
Thứ hai, khuynh hướng nghiên cứu về mối quan hệ giữa pháp luật và
tôn giáo cũng như ảnh hưởng của tôn giáo trong việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật: TS. Nguyễn Thị Tố Uyên (2014), Mối quan hệ giữa pháp luật và
tôn giáo ở Việt Nam, tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam; Ðặng Nghiêm Vạn
(2007), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đức Lữ (2011), Tìm hiểu về tôn giáo và chính

sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, Nxb Chính
trị - Hành chính, Hà Nội,…
Trong các bài viết, nghiên cứu của các tác giả chỉ nghiên cứu chung
nhất về mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo mà chưa đi vào cụ thể một tôn
giáo riêng biệt và một phạm vi luật độc lập. Tuy nhiên những thành tựu về các
đề tài nghiên cứu nói trên là những tài liệu quan trọng cho tôi tham khảo khi
thực hiện đề tài này. Trên cơ sở những nghiên cứu trước, tôi xin tổng hợp lại
và phân tích giá trị của giáo lý Phật giáo trong việc thực hiện luật hôn nhân và
gia đình ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
*Mục đích nghiên cứu
Luận văn từ việc tìm hiểu giáo lý của Phật giáo về hôn nhân và gia đình,
luật hôn nhân gia đình hiện hành, trên cơ sở đó, chỉ ra giá trị của giáo lý Phật
giáo trong việc thực hiện luật hôn nhân và gia đình ở Việt Nam hiện nay.

6


*Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung làm rõ những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu khái quát lịch sử, giáo lý Phật giáo và sự du nhập của Phật
giáo vào Việt Nam.
- Tìm hiểu giáo lý Phật giáo về hôn nhân và gia đình
- Tìm hiểu luật hôn nhân và gia đình từ năm 1945 đến nay
- Chỉ ra giá trị của giáo lý Phật giáo trong việc thực hiện luật hôn nhân
và gia đình ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu giáo lý Phật giáo trong lĩnh vực hôn nhân
gia đình, trên cơ sở đó tìm ra giá trị của giáo lý Phật giáo trong việc thực hiện

luật hôn nhân và gia đình ở Việt Nam hiện nay.
*Phạm vi nghiên cứu
- Quan niệm về hôn nhân gia đình của Phật giáo Bắc tông và nghi lễ
Hằng thuận được tổ chức tại các chùa ở miền Bắc.
- Luật hôn nhân và gia đình từ năm 1945 đến nay (Luật hiện hành ban
hành năm 2014)
- Nghiên cứu trên nhóm những người Phật Tử tại gia và tu tại chùa biết,
hiểu về giáo lý Phật giáo và có lối sống thực hành đạo.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo. Đề tài cũng kế thừa những kết quả
của các công trình nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam của các nhà khoa học
trong và ngoài nước.
- Phương pháp nghiên cứu: kết hợp sử dụng một số phương pháp khác
nhau nhằm đảm bảo tính hiệu quả và độ tin cậy của các thông tin thu thập

7


được. Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp xem xét tôn
giáo xuất phát từ nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo, phương pháp chuyên ngành và
liên ngành như triết học, tôn giáo học, phương pháp lịch sử cụ thể, phương
pháp cấu trúc chức năng, phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy
nạp, so sánh, điền dã, phỏng vấn.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Đề tài góp phần làm rõ mối quan hệ giữa pháp luật và tôn giáo cụ thể
là Phật giáo
- Chỉ ra giá trị của giáo lý Phật giáo trong việc thực hiện luật hôn nhân và
gia đình ở Việt Nam hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, mở đầu, kết luận, nội
dung của bài nghiên cứu khoa học gồm 2 chương với 4 tiết và các tiểu kết
chương. Cụ thể.
Chương 1. Khái quát chung về Phật giáo và luật Hôn nhân và Gia đình ở
Việt Nam hiện nay (gồm 2 tiết).
Chương 2.Vai trò của giáo lý Phật giáo trong việc thực hiện luật Hôn
nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay (gồm 2 tiết)

8


Chƣơng 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHẬT GIÁO VÀ LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1.

Một số khái quát chung về Phật giáo và Phật giáo Việt Nam

1.1.1. Nguồn gốc ra đời và giáo lý cơ bản của Phật giáo
Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ VI trước công nguyên, trong
điều kiện xã hội phân chia theo chế độ đẳng cấp bất bình đẳng. Đạo Phật ra
đời là sự kế thừa, tiếp nối các trào lưu tôn giáo, triết học nổi tiếng của Ấn Độ
cổ đại và được coi là một trong những học thuyết xã hội chống lại sự bất công
trong xã hội đương thời.
Người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Tất Đạt Đa (Shidartha) sinh năm
624 trước công nguyên thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyà), con vua Tịnh Phạn
Vương Đầu Đà Na (Sudhodana) trị vì nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavasu) xứ
Trung Ấn Độ lúc đó và hoàng hậu Ma Da (Maya). Dù sống trong cuộc đời
vương giả nhưng Thái tử vẫn nhận ra sự đau khổ của nhân sinh, vô thường
của thế sự nên Thái tử đã quyết tâm xuất gia tìm đạo nhằm tìm ra căn nguyên

của đau khổ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử luân
hồi. Sau nhiều năm tìm thày học đạo, Thái Tử nhận ra rằng phương pháp tu
hành của các vị đó đều không thể giải thoát cho con người hết khổ được. Cuối
cùng, Thái tử đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ đề và thề rằng “Nếu Ta
không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi
chỗ này”. Sau 49 ngày đêm thiền định, Thái tử đã đạt được Đạo vô thượng,
thành bậc “Chánh đẳng chánh giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó là
ngày 08 tháng 12 năm Đức Phật 31 tuổi.
Về văn hóa, thời kỳ này có những phát minh hết sức quan trọng về toán
học (gồm cả số học và hình học), về thiên văn học, về triết học; đã chế tác
được những đồ trang sức, đóng thuyền vượt biển,… Những thành tựu này trực
tiếp hoặc gián tiếp góp phần vào sự ra đời của Phật giáo.

9


Về tín ngưỡng tôn giáo, thời kỳ này ở Ấn Độ đạo Bà la môn giữ địa vị
thống trị. “Xét về mặt tôn giáo đạo Bà la môn đề cao vai trò của đấng tối cao
Phạm Thiên, hạ thấp vai trò của con người đặc biệt là tầng lớp thấp hèn. Xét
về mặt xã hội, đây là tôn giáo đề cao, tuyệt đối hóa sự bất bình đẳng giữa các
đẳng cấp. Đạo Phật ra đời, một mặt nó là sự phản bác lại đạo Bà la môn, mặt
khác nó lại tiếp thu, kế thừa những quan niệm của tôn giáo Bà la môn như:
phản bác sự bất bình đẳng, tiếp thu quan niệm về nghiệp, kiếp, luân hồi” 51;
Tr.84]
Về xã hội, thời kỳ này do có sự phát triển của sản xuất, của sở hữu tư
sản về tư liệu sản xuất đã dẫn đến sự phân hóa và mâu thuẫn giai cấp sâu sắc.
Ở Ấn Độ, do đặc điểm về kết cấu xã hội mà sự phân hóa này gắn chặt chẽ với
sự phân hóa đẳng cấp, làm cho sự phân hóa giai cấp và đẳng cấp thêm khắc
nghiệt. Về đại thể thời kỳ này có bốn đẳng cấp. Đẳng cấp thứ nhất là đẳng cấp
tăng lữ (hay đẳng cấp Bà la môn) – đẳng cấp được coi là có địa vị cao nhất,

thực chất đẳng cấp này vừa thực hiện chức năng thần quyền, vừa thực hiện
một phần chức năng thế quyền. Mặc dù đạo Bà la môn không có tổ chức giáo
hội song sự kết hợp của nó với thế quyền làm cho đẳng cấp này có địa vị cao
nhất. Đẳng cấp thứ hai là đẳng cấp quý tộc. Theo sự phân công xã hội thì
đẳng cấp này thực hiện chức năng thế quyền, song một phần quyền lực bị
đẳng cấp Bà là môn nắm giữ, lấn lướt. Thứ ba là đẳng cấp dân tự do. Là bộ
phận đông đảo nhất, là lực lượng sản xuất chủ yếu và có vai trò xã hội nhất
định; địa vị xã hội của đẳng cấp này thấp hơn đẳng cấp tăng lữ và đẳng cấp
quý tộc. Thứ tư là đẳng cấp nô lệ – đây là đẳng cấp có địa vị thấp nhất.
Song khác với phương Tây, ở đây nô lệ không phải là lực lượng sản
xuất chủ yếu, mà là nô lệ có tính gia đình, làm công việc hầu hạ, phục dịch
cho các đẳng cấp trên. Sự phân hóa đẳng cấp như trên bị đẳng cấp Bà la môn
thần thánh hóa, tuyệt đối hóa làm cho mâu thuẫn càng thêm sâu sắc. Điều này

10


dẫn đến các đẳng cấp thấp đấu tranh chống lại các đẳng cấp cao, nhất là
chống lại đẳng cấp Bà la môn với mong muốn xóa bỏ bất bình đẳng giữa các
đẳng cấp, tuy nhiên điều đó không đạt được kết quả trong hiện thực. Trên cơ
sở ấy Phật giáo đã ra đời với mong muốn đưa lại sự bình đẳng cho con người,
song đó là sự bình đẳng về tinh thần, sự bình đẳng về “tính Phật” về khả năng
“giải thoát” để “thành Phật” và để đạt tới thế giới “Niết bàn”.
Giáo lý cơ bản của đạo Phật:
Phật giáo vừa là một tôn giáo, vừa là một trào lưu triết học, trong đó
triết học Phật giáo là cơ sở cho những giáo lý của tôn giáo Phật giáo.
“Triết học Phật giáo là một hệ thống phức tạp, nó đề cập nhiều vấn đề
của giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong triết học Phật giáo chứa đựng cả
những quan niệm duy vật và quan niệm duy tâm, đặc biệt nó đã xây dựng
được phương pháp biện chứng hết sức sâu sắc” 50. Tr.88]

Coi Phật giáo là một tôn giáo giải thoát và việc giải thoát gắn với vai
trò của con người, thì giáo lý cơ bản của Phật giáo là “Tứ diệu đế” và “Niết
bàn”. Vì “Tứ diệu đế” lý giải vấn đề về khổ và sự diệt khổ, và diệt khổ là để
đến thế giới “Niết bàn”.
Tứ diệu đế được Phật giáo coi là bốn chân lý hay bốn nền tảng: gồm
khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
Khổ đế: Phật giáo coi cuộc đời con người là khổ, theo quan niệm này,
“cái khổ” bao gồm cả cái khổ và cái vui của đời sống trần tục, vì cái vui cũng
chỉ là giả tạm. Cho nên nghĩa chung nhất của chữ khổ ở đây là “vô thường”
(không thường còn). Phật giáo cũng đã cố gắng chỉ ra những cái khổ của đời
sống trần tục và quy nó vào “bát khổ” (8 cái khổ). Đó là sinh khổ, lão khổ,
bệnh khổ, tử khổ, sở cầu bất đắc khổ (muốn mà không đạt được thì khổ), ái
biệt ly khổ (thương yêu nhau mà phải xa nhau thì khổ), oán tăng hội khổ (thù
ghét nhau mà phải sống với nhau thì khổ), ngũ u n xí thịnh khổ (sự thụ b m

11


của yếu tố vật chất, sự tương tác của giác quan với thế giới bên ngoài – khổ).
Tám cái khổ trên thuộc về quy luật sinh tồn và quan hệ thiết thực của con
người, do vậy ở đây, thoát khổ của Phật giáo là thoát khỏ quy luật sinh tồn và
quan hệ hiện thực của họ.
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do
đó, con người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại
nào khác. Ngay cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ
mới. Phật ví sự khổ của con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh
nhiều hơn nước biển”. [33]
Tập đế: Là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là
tụ hợp, kết tập lại. Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn
dục vọng, thoả mãn được trở thành, thoả mãn được hoại diệt… Các loại ham

muốn này là gốc của luân hồi. Phật giáo đã chỉ ra mười nguyên nhân sau: thứ
nhất là tham lam; thứ hai là giận dữ; thứ ba là si mê; thứ tư là khiêu mạn; thứ
năm là nghi ngờ; thứ sáu là biên kiến; thứ bảy là tà kiến; thứ tám là kiến thủ;
thứ chín là thân kiến; thứ mười là giới cấm. Đạo Phật cũng cho rằng nguyên
nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do thập nhị nhân duyên, tức 12 nhân
duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con người. 12 nhân duyên gồm: Vô
minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không sáng suốt.
Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con đường
thoát khổ. Trong 12 nhân duyên, vô minh là căn bản.
Nếu không thấu hiểu Tứ diệu đế cũng được gọi là Vô minh; duyên
hành: là ý muốn thúc đ y hành động; duyên thức: tâm từ trong sáng trở nên u
tối; duyên danh sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ
quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức); duyên lục nhập: là quá
trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác quan cảm giác, lúc đó
thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để thiêu hủy, đón nhận;

12


duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó là sắc,
thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào; duyên thụ: là sự
cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc với lục căn sinh ra cảm
giác; duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác
động của thế giới bên ngoài; duyên thủ: do yêu thích quyến luyến, không chịu
xa lìa, rồi muốn chiếm lấy, giữ lấy không chịu buông ra; duyên hữu: cố để
dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được; duyên sinh: sự ra đời, sinh
thành do phải tồn tại; duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi
mòn, trẻ rồi già, ốm đau rồi chết.
Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn
chung đều cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm

duyên cho cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau.
Cũng có lời giải thích là 12 yếu tố tích lu đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà
yếu tố căn đế là ái và thủ, nghĩa là tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp.
Mười hai nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng l n qu n của
nổi khổ đau nhân loại.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê
không thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh
khởi, đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc
lập ở trong chúng. Chúng ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay
không là do lòng mình. Hay nói cách khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người
đối với cuộc đời mà có khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngã và dục
vọng, vị k hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thì cuộc đời
đầy an lạc hạnh phúc.
Diệt đế: Là chân lý về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có
thể tiêu diệt được để đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham

13


ái được tận diệt thì sự khổ cũng được tận diệt. muốn diệt khổ phải đi ngược
lại 12 nhân duyên, bắt đầu từ diệt trừ vô minh.
Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại,
thực tướng của vũ trụ là con người, không còn tham dục và kéo theo những
hành động tạo nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách
khác diệt trừ được vô minh, tham dục thì hoạt động ngũ u n dừng lại, tu đến
niết bàn, tịch diệt khi ấy mới hết luân hồi sinh tử.
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái,
chấp thủ, thì những nỗi lo âu, sợi hải, bất an giảm dần, thâm tâm trở nên thanh
thản, đầu óc tĩnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng
lượng hơn. Đó là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi

phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung núng bởi các ngọn lửa
phiền muộn, lo lắng sợ hải mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả
năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được
chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với mọi người xung quanh rộng lượng và
bao dung hơn. Tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, vô minh đến mức độ
nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy.
Ðạo đế: Là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con đường
tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập
nhị nhân duyên, và một khi dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể
thoát khỏi vòng sinh tử. Chấm dứt luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc
chứng ngộ niết bàn. Có 8 con đường chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến
niết bàn gọi là Bát chính đạo. Bát chính đạo bao gồm: Chính kiến: hiểu biết
đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu đế và giáo lí vô ngã;
chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của
bốn chân lí một cách không sai lầm; chính ngữ: nói năng phải đúng đắn,
không nói dối hay nói phù phiếm; chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh

14


phạm giới luật, không làm việc xấu, nên làm việc thiện; chính mệnh: giữ ngăn
dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan đến sát sinh; chính tinh
tiến: cố gắng nổ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát triển nghiệp tốt,
diệt trừ nghiệp xấu; chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự
giải thoát, luôn tỉnh giác trên ba phương diện Thân, Kh u, Ý; chính định: kiên
định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế, vô ngã, vô thường, tâm
ý đạt bốn định xuất thế gian .
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô
minh, đạt tới sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh,
sáng suốt, chấm dứt sinh tử luân hồi.

Như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, có yếu tố duy vật
và tư tưởng biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người suy nghĨ
thiện và làm việc thiện nhằm góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên
trong triết lý nhân sinh và con đường giải phóng của phật giáo vẫn mang nặng
tính chất bi quan không tưởng và duy tâm về xã hội. Và những tư tưởng xã
hội phật giáo đã phản ánh thực trạng xã hội đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội
Ấn Độ cổ – trung đại và nêu lên ước vọng giải thoát nổi bi kịch cho con người
lúc đó. Phật giáo cũng nói lên được tự do bình đẳng trong xã hội nhưng triết
lý nhân sinh vẫn còn mang nặng tính chất bi quan không tưởng và duy tâm về
xã hội.
Niết bàn: Niết bàn được Phật giáo coi là một trang thái vắng lặng, tịch
diệt, nếu con người đạt tới thì sẽ sống an nhiên, tự tại, vô ngã vị tha. Đây là
một trạng thái lý tưởng. “Về cơ bản có hai cách giải thích về sự tồn tại của
Niết bàn: Cách thứ nhất cho rằng Niết bàn tồn tại ở nơi mà sau khi con người
ta chết, nếu tu hành đắc đạo, linh hồn sẽ được siêu thoát về thế giới Niết bàn,
Niết bàn ở đây cũng có nhiều bậc khác nha. Các giải thích thứ hai cho rằng
Niết bàn có thể tồn tại ngay trong thế giới trần tục (sinh tử là Niết bàn, Niết

15


bàn là sinh tử), con người có thể đạt tới trạng thái Niết bàn này khi con người
đã loại bỏ được “tham, sân, si”, khi con người đã thoát khỏi vô minh và sống
an nhiên tự tại, vô ngã vị tha” 50. Tr.91]
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo thể hiện tập trung ở nội dung
của 3 phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên.
Vô ngã: Trái với quan điểm của kinh Vêđa, đạo Bàlamôn và đa số các
môn phái triết học tôn giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể
siêu nhiên tối cao, sáng tạo và chi phối vũ trụ, Phật giáo cho rằng thế giới
xung quanh ta và cả con người không phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà

được cấu thành bởi sự kết hợp của 2 yếu tố là “Sắc” và “Danh”. Trong đó,
Sắc là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm nhận được, nó bao gồm đất, nước, lửa
và không khí; Danh là yếu tố tinh thần, không có hình chất mà chỉ có tên gọi.
Nó bao gồm: thụ (cảm thụ), tưởng (suy nghĩ), hành (ý muốn để hành động) và
thức (sự nhận thức).
Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là “Ngũ u n”. Ngũ u n
bao gồm sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và
thức (ý thức), chúng tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật và con người.
Nhưng sự tồn tại của sự vật chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng
biệt nào tồn tại mãi mãi. Do đó, không có “Bản ngã” hay cái tôi chân thực.
Vô thường: Đạo Phật cho rằng “Vô thường” là không cố định, luôn
biến đổi. Các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn
biến đổi không ngừng, không nghỉ theo chu trình bất tận là sinh – trụ – dị –
diệt. Nghĩa là sinh ra, tồn tại, biến dạng và mất đi.
Do đó, không có gì trường tồn, bất định, chỉ có sự vận động biến đổi
không ngừng. Vì vậy mọi sự vật không mãi ở yên trong một trạng thái nhất
định, luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến biến dị rồi
tan rã. Sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vât, hiện

16


tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Đức Phật cũng dạy rằng không
phải là sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay chết đi) mới gọi là
diệt, mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết, không phải là hết
khổ mà chết là điều kiện của một sinh thành mới.
Duyên: Bà la môn Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện tượng trong vũ
trụ từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên.
Trong đó duyên là điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả
ấy lại nhờ có duyên mà trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà

trở thành kết quả mới. Cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của
các sự vật, tuân theo quy luật Nhân – Quả, nhân là cái hạt, quả là cái trái, cái
trái do mầm ấy phát sinh. Nhân và quả là hai trạng thái nối tiếp nhau, nương
vào nhau mà có. Nếu không có nhân thì không thể có quả, nếu không có quả
thì không thể có nhân, nhân thế nào thì quả thế ấy.
Như vậy, thông qua các phạm trù Vô ngã, Vô thường và Duyên, triết
học Phật giáo đã bác bỏ quan điểm duy tâm lúc bấy giờ cho rằng thần
Brahman sáng tạo ra con người và thế giới. Phật giáo cho rằng sự vật và con
người được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần. Các sự vật hiện
tượng thế giới nằm trong quá trình liên hệ, vận động, biến đồi không ngừng.
Nguyên nhân của sự vận động , biến đồi nằm trong các sự vật. Đó là quan
điểm biện chứng về thế giới tuy còn mộc mạc chất phác nhưng rất đáng trân
trọng. Và đó cũng là quan điểm duy vật biện chứng về thế giới.
- Giới luật căn bản của Phật giáo
Giới là điều răn, luật là quy luật thi hành giới. Luật bao hàm cả giới còn
giới chỉ là một bộ phận của luật. Tuy gọi khác nhau như thế nhưng tính chất
vốn đồng nên có tên ghép là giới luật.
Giới luật gồm có nhiều loại:

17


+ Giới Thanh văn : Đây là giới của hàng xuất gia, có công năng giúp
giữ gìn bản thể thanh tịnh Tỳ kheo và phát triển sự hòa hợp Tăng đoàn.
+ Giới Bồ tát : Giới này còn gọi là thông giới, tức gồm cả xuất gia và
tại gia cùng ứng dụng tu tập để thành tựu tâm Bồ đề.
+ Giới tại gia: Theo nguyên tắc của Phật giáo, để trở thành một Phật tử,
yêu cầu mọi người phải phát tâm thọ nhận ba pháp quy y (Quy y Tam Bảo là
Phật, Pháp và Tăng) và hành trì năm giới. Đây chính là giới dành của các Phật
tử tu tại gia, chính là lực lượng người chủ yêu sẽ làm lễ cưới tại chùa.

Năm giới : Đây là bước đầu của sự tu học Phật pháp mà cả xuất gia và
tại gia đều phải chấp hành. Bởi vì Năm giới là căn bản đạo đức làm người, là
đức tính cơ bản của luân lý, là chiếc cầu nối đưa đến an lạc Niết Bàn. Đó cũng
là yếu tố để xây dựng nền tảng cho hạnh phúc cá nhân, gia đình và xã hội.
Năm giới đó là: Không được sát sanh; Không được trộm cắp; Không được tà
dâm; Không được nói dối; Không được uống rượu.
Mười giới: Trên nền tảng căn bản của năm giới, cũng y cứ nơi hành vi
(thân), ngôn ngữ (kh u), tâm lý (ý) mà đức Phật đã thiết lập pháp tu Thập
thiện ( 10 giới) để nâng cao đời sống tâm linh, ý thức đạo đức cho hàng Phật
tử tại gia. Thập thiện là:
+ Thân : Có 3 : Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm.
+ Kh u : Có 4 : Không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời
độc ác, không nói lời phù phiếm.
+ Ý : Có 3 : Không tham lam, không sân hận, không si mê.
Bát quan trai giới : Để tạo điện kiện cho hàng Phật tử tại gia tập tu hạnh
xuất gia trong một ngày một đêm 24 giờ, đức Phật đã dạy thọ trì 8 giới. Trong
đó, 5 giới đầu là của hàng tại gia, chỉ trừ giới thứ 3 là đổi lại thành không dâm
dục; 3 giới sau tương đương với giới Sa di (của hàng xuất gia) là không được

18


nằm giường cao rộng lớn đẹp đẽ, không được trang điểm, thoa dầu thơm và
múa hát hay xem múa hát, không được ăn phi thời.
Nói chung, Đức Phật chế giới không ngoài việc đem lại an lạc trong đời
sống hiện tại và tương lai cho những ai có ứng dụng hành trì. Không phân biệt là
xuất gia hay tại gia, nếu khéo nghiêm trì giới luật thì sẽ được những lợi ích sau:
+ Người có giới đức sẽ hưởng được gia tài pháp bảo nhờ tinh tấn.
+ Người có giới đức được tiếng tốt đồn xa
+ Người có giới đức không sợ hãi rụt rè khi đến các hội chúng đông đúc.

+ Người có giới đức khi chết tâm không rối loạn
+ Người có giới đức sau khi mạng chung được sinh về thiện thú, thiên giới.
Ở các bộ Quảng luật (chỉ cho tất cả các bộ Luật trong Luật tạng) có nói
đến 10 lợi ích của giới là:
1. Nhiếp phục Tăng chúng
2. Triệt để nhiếp phục Tăng chúng.
3. Khiến cho Tăng chúng an lạc.
4. Nhiếp phục những người không biết hổ thẹn
5. Khiến những người biết hổ thẹn cư trú yên ổn.
6. Khiến những người không tin khiến họ tin tưởng.
7. Khiến những người đã tin tăng thêm lòng tin.
8. Khiến dứt hết pháp lậu hoặc ngay trong hiện tại
9. Giúp những lậu hoặc chưa sinh không thể sinh khởi.
10.Giúp cho chánh pháp được tồn tại lâu dài.
Như vậy, giới luật là nền tảng để hành giả hoàn thiện nhân cách, trong
sạch thân tâm, hóa giải phiền não, xây dựng Tăng đoàn, tận trừ mọi lậu hoặc.
Người nào tha thiết chấp trì giới luật thì chính là giữ gìn sự an lạc hạnh phúc
cho mình và tha nhân ngay trong hiện tại và tương lai. Ngược lại, người nào

19


không nghiêm túc vâng giữ giới luật là tự mình gây tổn hại đến nguồn an lạc
hạnh phúc ấy.
Nói tóm lại, để bảo hộ sự thanh tịnh trang nghiêm của Tăng đoàn, để
gìn giữ bản thể của các Tỳ kheo cũng như để thiết lập một đời sống an ninh
cho nhân loại, đức Phật đã tuyên bày giới luật. Giới luật có công năng là dứt
đi nghiệp duyên, nghiệp nhân trong đường sinh tử. Không chỉ ở vị lai mà
ngay trong đời sống hiện tại, nếu chúng ta vâng giữ giới pháp nghiêm c n thì
cuộc sống sẽ an lành, thân tâm luôn thanh thản.

Tuy nhiên cũng nên hiểu cho đúng nghĩa của giới luật là không chỉ
ngăn ngừa đều xấu ác mà còn thể hiện ở việc năng làm điều thiện. Tức là bên
cạnh việc “chỉ ác”, mặt tích cực của giới luật phải là “tác thiện”.
Cho nên, là đệ tử Phật chúng ta phải thể hiện đúng vai trò của mình.
Đối với hàng xuất gia thì phải “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”, giữ
gìn gia tài pháp bảo để hoằng dương chánh pháp. Đối với Phật tử tại gia thì
song song với việc hộ trì Tam bảo, người phật tử còn phải thể hiện nếp sống
mô phạm của hàng tại gia, góp phần xây dựng một gia đình hạnh phúc và một
xã hội văn minh.
Các giáo lý, giáo luật cơ bản của Phật giáo đều hướng trực tiếp vào con
người, vào mối quan hệ giữa người với người cũng như làm sao để có một
cuộc sống viên mãn, an lạc. Những giáo lý này, đặc biệt là phạm trù “Duyên”,
và Giới tại gia sẽ được người viết khai thác, vận dụng để lảm rõ trong quan
niệm về hôn nhân trong Phật giáo ở chương 2.
1.1.2. Khái quát chung về Phật giáo Việt Nam
Xét về mặt địa lý, Việt Nam nằm ở bán đảo Đông Dương, là nơi có
nhiều điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu tiếp xúc với các nước trong khu
vực. Ấn Độ và Trung Hoa là hai nước có nền văn minh lớn cổ xưa. Việt Nam
nằm cạnh hai nước, cho nên chịu nhiều ảnh hưởng của hai nền văn minh này.

20


Về kinh tế: Chủ yếu là phát triển nông nghiệp, công cụ bằng sắt ra đời
ra đời và phổ biến nên diện tích trồng trọt được mở rộng, các công trình thủy
lợi được xây dựng nên năng suất lúa cao hơn trước. Về thủ công nghiệp thì
khai thác vàng, bạc được đ y mạnh, các nghề truyền thống phát triển hơn
trước và nhân dân đã tiếp thu một số nghề mới từ Trung Quốc như làm giấy,
thủy tinh. Thương mại thời kì này cực kì phát triển, việc giao lưu buôn bán
cũng được mở rộng hơn.

Về văn hóa: một mặt nhân dân ta đã tiếp thu những yếu tố tích cực của
văn hóa Trung Hoa nhưng mặt khác ta vẫn bảo tồn được nền văn hóa truyền
thống dân tộc, không bị hòa tan.
Về xã hội: do những chính sách cai trị tàn bạo, vơ vét nặng nề của các
triều đại phương Bắc đã làm xuất hiện mâu thuẫn mới giữa nhân dân ta với
chính quyền đô hộ.
Trong sự nhiễu nhương của xã hội lúc bấy giờ, nhân dân vô cùng đau
khổ, lầm than. Họ bị chính quyền đô hộ đàn áp, bóc lột vô cùng nặng nề.
Thóc gạo làm ra bị mất trắng. Thực dân phương Bắc quyết tâm đồng hóa dân
ta với những chính sách tàn bạo, khắp nơi đều là cướp bóc. Trước tình cảnh
đó, sự xuất hiện của một tôn giáo mới mà những giáo lý vô cùng gần gũi với
văn hóa truyền thống Việt Nam, giúp nhân dân thoát khỏi khổ ải về tinh thần,
xoa dịu những nỗi đau hiện thực. Đây là điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự
du nhập của Phật giáo vào Việt Nam, hòa cùng văn hóa, tín ngưỡng bản địa.
Đạo Phật được truyền bá vào Việt Nam bằng hai con đường; đường
thủy thông qua con đường buôn bán với thương gia Ấn Độ và đường bộ là
con đường đồng cỏ từ Trung Á.
Cho đến nay, Phật giáo vẫn tiếp tục phát huy giá trị tốt đẹp, cao cả của
mình trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Có thể khẳng định rằng từ chỗ là
tôn giáo được du nhập từ ngoài vào, Phật giáo đã sớm khẳng định mình để trở

21


×