Tải bản đầy đủ (.doc) (149 trang)

TRUYỀN THÔNG VỀ CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.6 MB, 149 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGŨ VĂN HIỆP

TRUYỀN THÔNG VỀ CUỘC CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0 TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC

Hà Nội - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGŨ VĂN HIỆP

TRUYỀN THÔNG VỀ CUỘC CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0 TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC
MÃ SỐ: 60320101

Chủ tịch Hội đồng:

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Huyền



PGS.TS Nguyễn Thành Lợi

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc
lập của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Nguyễn
Thành Lợi. Tổng biên tập Tạp chí Người Làm Báo, Hội Nhà báo Việt Nam.
Các số liệu, những đánh giá, phân tích, nhận xét, nghiên cứu được trình
bày trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và khách quan, chưa từng
được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của bản thân.
Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2018
Tác giả Luận văn

Ngũ Văn Hiệp

LỜI CẢM ƠN


Qua thời gian học tập và nghiên cứu tại Viện Đào tạo Báo chí, truyền
thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đến nay tôi đã hoàn
thành luận văn thạc sỹ Báo chí học với đề tài “Truyền thông về cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 trên báo điện tử Việt Nam”.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thành Lợi –
người trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Đồng thời, tôi cũng xin được tri ân sự giúp đỡ vô cùng quý báu của cô

Chủ nhiệm, các thầy, cô giảng viên của Viện Đào tạo Báo chí, truyền thông,
Trường Đại học KHXH&NV (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã tận tình truyền
đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Ngoài ra, Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến lãnh đạo, Ban biên tập và
các anh/chị phóng viên, biên tập viên các báo điện tử: VnExpress, Khoa học
Phát triển, VietnamPlus, các đồng nghiệp,… đã nhiệt tình hỗ trợ, tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát, nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã cố gắng hết sức, tuy nhiên, luận văn không thể tránh khỏi
những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự chia sẻ, góp ý, chỉ dẫn
của các thầy giáo, cô giáo, nhà khoa học, các anh chị nhà báo và các bạn đồng
nghiệp,… nhằm tiếp tục hoàn thiện công trình nghiên cứu của mình.
HVCH: Ngũ Văn Hiệp

MỤC LỤC



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CMCN 4.0

: Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN lần thứ tư)

CMS

: Hệ thống quản trị nội dung website

CT

: Chỉ thị


CCVC

Công chức viên chức

ĐH

: Đại học

ĐH KHXH&NV

: Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

KH&CN

: Khoa học và Công nghệ

KH&KT

: Khoa học và Kỹ thuật

Nxb

: Nhà xuất bản

PGS.TS

: Phó giáo sư – Tiến sĩ

Th.S


: Thạc sĩ

TS

: Tiến sĩ

TTĐC

: Truyền thông đại chúng

TW

: Trung ương

TP

: Thành phố


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH
Danh mục bảng
Danh mục biểu đồ
Danh mục hình ảnh


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nói đến cách mạng công nghiệp là nói đến sự thay đổi lớn lao mà nó
mang lại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, và xã hội. Nhìn lại lịch sử,

loài người đã trải qua nhiều cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lớn. Mỗi cuộc
cách mạng đều có đặc trưng bằng sự thay đổi về bản chất của sản xuất và sự
thay đổi này được tạo ra bởi các đột phá của khoa học và công nghệ
(KH&CN).
Năm 2013, một từ khóa mới là “Công nghiệp 4.0” (CMCN 4.0) xuất
phát từ một báo cáo của chính phủ Đức đề cập đến cụm từ này nhằm nói tới
chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa ngành sản xuất mà không cần sự
tham gia của con người. Đây được gọi là cuộc cách mạng số, thông qua các
công nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo (VR),
tương tác thực tại ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động, phân
tích dữ liệu lớn (SMAC),… để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành thế
giới số. Thực tế cho thấy, CMCN 4.0 đang làm thay đổi căn bản nền sản xuất
của thế giới, với sự suy giảm quyền lực của các quốc gia dựa chủ yếu vào
khác thác tài nguyên và sự gia tăng sức mạnh của các quốc gia dựa chủ yếu
vào công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những dự báo, nhận
định về xu hướng của CMCN 4.0 và đề ra các chủ trương, chính sách phát
triển đất nước. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nhận định về bối cảnh quốc
tế và trong nước tác động đến phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020:
“Khoa học, công nghệ phát triển rất nhanh cùng với toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế
- xã hội của các quốc gia”; Nghị quyết số 05/NQ-TW ngày 01/11/2016 của

1


Hội nghị Trung ương Khóa XII đã đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng và thực hiện
chính sách công nghiệp quốc gia, tạo khuôn khổ chính sách đồng bộ, trọng
tâm, đột phá hướng vào tăng năng suất chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh”. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày

4/5/2017 về việc tăng cường năng lực tiếp cận CMCN 4.0.
Để mọi tầng lớp xã hội tiếp cận, hiểu về bản chất CMCN 4.0, công tác
thông tin tuyên truyền luôn đóng vai trò quan trọng. Trong đó, báo điện tử nói
riêng và các phương tiện thông tin đại chúng nói chung phải luôn là lực lượng
“xung kích” trong hoạt động này.
Tuy nhiên, báo chí hiện phần lớn chỉ nêu “phần vỏ” của CMCN 4.0 mà
chưa chỉ ra bản chất, nội hàm của CMCN 4.0; tác động cụ thể của CMCN 4.0
như thế nào đối với Đảng, Nhà nước, doanh nghiệp, người dân, xã hội,….Đặc
biệt, cộng đồng xã hội đã có những thích nghi, ứng phó như thế nào đối với
CMCN 4.0. Ngoài ra, chính các phương tiện truyền thông đại chúng đã có
những thay đổi gì để ứng biến, điều chỉnh trước CMCN 4.0?
Bên cạnh việc báo chí chưa tập trung, chú trọng nhiều đến những ưu
điểm, hạn chế của Việt Nam trước CMCN 4.0. Hiện nay, thông tin về CMCN
4.0 trên các phương tiện truyền thông đại chúng chưa nhiều, đa dạng. Mức độ
thông tin còn khiêm tốn, thông tin với nhiều thuật ngữ khoa học khô khan,
khó hiểu, khó tiếp cận đối với độc giả. Do vậy, phần lớn các cơ quan thông
tấn, báo chí thường chưa mặn mà với việc đưa các tin tức liên quan thay vào
đó là các thông tin thời sự nóng hổi liên quan đến các vấn đề xã hội, kinh tế,
vệ sinh thực phẩm, chứng khoán,… dẫn đến thông tin liên quan đến CMCN
4.0 trên các phương tiện truyền thông chưa được tập trung, chuyên sâu để thu
hút độc giả.

2


Trong hệ thống báo chí Việt Nam, báo điện tử là một trong những loại
hình “xung kích” trên mặt trận truyền thông về CMCN 4.0 với nhiều ưu thế
so với các loại hình báo chí còn lại. Tuy nhiên, thực trạng truyền thông về
CMCN 4.0 trên báo điện tử hiện nay như thế nào? Vấn đề tiếp nhận thông tin
CMCN 4.0 của cộng đồng xã hội? Sự “chuyển mình”, thích ứng của các toà

soạn báo điện tử như thế nào trong bối cảnh CMCN 4.0?. Đặc biệt CMCN 4.0
đã tác động sâu rộng đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và không
ngoại trừ cả công nghệ làm báo lẫn công nghiệp báo chí. Việc truyền tải thông
tin về CMCN 4.0 đến công chúng có những đặc điểm gì nổi bật, tác động đến
công chúng như thế nào ở một loại hình báo chí mới, hiện đại? Việc tiếp cận
cuộc cách mạng CMCN 4.0 đối với các phương tiện truyền thông đại chúng
nói chung và báo điện tử nói riêng đã và đang đi đúng hướng theo tinh thần
chỉ đạo của Đảng, Nhà nước nhằm truyền thông những lợi ích do CMCN 4.0
mang lại? Những hoạt động truyền thông trên các phương tiện truyền thông
đại chúng nói chung và báo điện tử nói riêng liệu đã phù hợp? Đó là những
vấn đề cần được quan tâm, đặc biệt với loại hình báo chí gắn liền với nền tảng
công nghệ như báo điện tử.
Do vậy, tác giả chọn đề tài: “Truyền thông về cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 trên báo điện tử Việt Nam” trong khuôn khổ ngành Báo chí học
làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
CMCN 4.0 đã không còn cụm từ xa lạ ở các nước phát triển. Tuy nhiên,
nghiên cứu về nó mới chỉ được tập trung triển khai trong vài năm gần đây, với
các nghiên cứu tiêu biểu đã được tổng kết và biên soạn thành sách, điển hình
như:

3


- Cuốn: The fourth industrial revolution (Cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ tư) xuất bản tháng 08/2018 của tác giả tác giả Klaus Schwab, một giáo
sư người Đức. Theo Klaus Schwab, nhân loại đang đứng trước một cuộc cách
mạng có thể làm thay đổi cơ bản cách chúng ta sống, làm việc và liên hệ với
nhau. Cuộc cách mạng này là cuộc cách mạng có sự kết hợp của công nghệ

trong lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học, đang tạo ra những khả năng hoàn
toàn mới và có tác động sâu sắc đối với các hệ thống chính trị, xã hội, kinh tế
của thế giới. Ông cũng cho rằng với tốc độ, quy mô và tác động của những
thành tố công nghệ mới, “một cuộc cách mạng không giống như bất kỳ điều
gì mà nhân loại đã trải qua” đang diễn ra mạnh mẽ. Bên cạnh đó, Klaus
Schwab còn tin rằng, cuộc CMCN 4.0 này nằm trong sự kiểm soát của tất cả
các quốc gia nếu như chúng ta biết hợp tác trên quy mô toàn cầu.
Sách được kết cấu với 3 chương: Chương đầu tiên cung cấp một góc
nhìn tổng quan về CMCN 4.0; Chương hai trình bày các biến đổi chính về
công nghệ trong cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra; Chương cuối cùng phân tích
một cách chuyên sâu những tác động cũng như các hàm ý chính sách mà cuộc
cách mạng đặt ra và từ đó tác giả đưa ra những ý tưởng, giải pháp thiết thực,
hữu hiệu để các quốc gia có thể thích ứng và khai khác tiềm năng, hưởng lợi
từ những biển đổi to lớn từ CMCN 4.0.
- Cuốn: Industry 4.0 Data Analytics (Phân tích dữ liệu CMCN 4.0) xuất
bản tháng 07/2016 của tác giả Rajesh Agnihotri và Samuel New. Sách là cẩm
nang hữu ích cung cấp các cách thức tiếp cận và phân tích dữ liệu thời CMCN
4.0, hướng một quy trình theo chuỗi cung ứng và cung cấp một cái nhìn sâu
sắc hơn về phân tích dữ liệu vai trò trong việc hợp lý hóa các mô hình kinh
doanh ngày nay. Các chương có kết cầu logic, liên hoàn thể hiện các ứng
dụng thực tế của phân tích dữ liệu trong thực tế công việc, và cung cấp một
loạt các minh chứng kinh doanh trong thế giới thực.
4


- Cuốn: Industry 4.0: The Industrial Internet of Things xuất bản tháng
06/2016 của tác giả Alasdair Gilchrist. Sách cung cấp những kiến thức cần
thiết về: Khám phá Internet công nghiệp và Internet công nghiệp của sự vật;
Tìm hiểu các công nghệ mới để thích ứng CMCN 4.0; Cung cấp các điển hình
thực tế về triển khai Công nghiệp 4.0; Phương pháp áp dụng một số nghiên

cứu điển hình này,…
Theo đó, việc nghiên cứu, định hướng về CMCN 4.0 hiện đang được
nhiều nước trên thế giới quan tâm, đầu tư trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là
các nước phát triển.
2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, nghiên cứu truyền thông về các vấn đề xã hội trên các
phương tiện truyền thông đại chúng trong đó có báo điện tử không còn xa lạ.
Các lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, thể
thao, y tế, nông nghiệp, môi trường,... đều có các công trình nghiên cứu
chuyên sâu. Tuy nhiên, nghiên cứu truyền thông về CMCN 4.0 còn khá mới
mẻ, đặc biệt chưa có công trình nghiên cứu nào liên quan đến truyền thông về
CMCN 4.0 trên báo điện tử. Do vậy, đây là đề tài nghiên cứu hoàn toàn mới.
Tiêu biểu cho tài liệu nghiên cứu về CMCN 4.0 phải kể đến cuốn:
“Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư – cuộc Cách mạng của sự hội tụ và tiết
kiệm” xuất bản tháng 02/2018 của tác giả TSKH. Phan Xuân Dũng, một trong
những nhà khoa học, nhà quản lý, hoạch định chính sách đầu ngành của Việt
Nam.
Lần đầu tiên ở Việt Nam, một ấn phẩm tóm lược những nét cơ bản nhất
về làn sóng CMCN 4.0 đang diễn ra và thu hút sự quan tâm đặc biệt của đông
đảo công chúng. Theo tác giả, thế giới ngày nay thay đổi như chưa từng có
nhờ cuộc CMCN 4.0, vậy bản chất cuộc CMCN 4.0 là gì? bắt nguồn từ đâu?
5


tác động đến kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của thế giới như thế nào?
Hằng ngày, câu chuyện về cuộc CMCN 4.0 thường xuyên và liên tục được đề
cập trên các phương tiện truyền thông đại chúng, là đề tài nóng trên các diễn
đàn và tọa đàm…
Cuốn “Việt Nam với cuộc CMCN 4.0” do Ban Kinh tế TW chủ trì, chỉ
đạo được xuất bản bởi Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân 11/2017 bởi

nhiều tác giả gồm: TSKH. Nguyễn Văn Bình – Ban Kinh tế TW; TS. Cao Đức
Phát; GS.TS Nguyễn Quang Thuấn – Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt
Nam,… Nội dung đem đến độc gia nhận diện cuộc CMCN 4.0, tác động động
của nó như thế nào so với 3 cuộc cách mạng trước đây. Phân tích công nghệ
và phương thức sản xuất mới mang tính đột phá trong CMCN4.0. Tài liệu còn
chỉ ra chiến lược, chính sách ứng phó của một số nước phát triển trước
CMCN4.0 từ đó liên hệ với Việt Nam những thách thức, thời cơ trước
CMCN4.0.
Ngoài ra, nghiên cứu về truyền thông các vấn đề xã hội trên báo điện tử
đã có một số đề tài, công trình thuộc các luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ,
như đề tài “Báo điện tử với vấn đề xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam hiện nay” của nghiên cứu sinh Nguyễn Sơn Minh, chuyên ngành: Báo
chí học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia
Hà Nội; Đề tài “Truyền thông về khoa học và Công nghệ trên báo điện tử”
của học viên cao học Đào Quang Long, Khoa Báo chí và Truyền thông, ĐH
Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG Hà Nội năm 2017; Đề tài “Hình ảnh
người CSGT trên báo điện tử Việt Nam” của học viên cao học Nguyễn Thị
Hải Anh, Khoa Báo chí và Truyền thông – ĐHQG Hà Nội, năm 2017; Đề tài
“truyền thông khoa học công nghệ trên cổng thông tin điện tử Sở Khoa học
và Công nghệ ở miền Đông Nam Bộ” của học viên cao học Trần Thị Dung,

6


Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà
Nội năm 2015,…
Đặc biệt, tại Diễn đàn Kinh tế thế giới khu vực ASEAN 2018 (WEF
ASEAN 2018) với chủ đề “ASEAN 4.0: Tinh thần doanh nghiệp và CMCN
4.0” diễn ra từ ngày 11 - 13/9/2018 tại Hà Nội. Nhà sáng lập và Chủ tịch điều
hành WEF Klaus Schwab cũng là tác giả cuốn Cách mạng công nghiệp 4.0

mang đến cái nhìn tổng quan, sáng tỏ, thấu đáo và rành mạch về những xu thế
lớn đang diễn ra, cung cấp cho bạn đọc một cách tư duy và phân tích những
thay đổi có tính lịch sử do CMCN 4.0 tạo nên.
Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của tác giả, hiện các đề tài nghiên
cứu về CMCN 4.0 mới chỉ ra sự tác động và những thách thức của CMCN 4.0
ở các lĩnh vực: văn hóa, du lịch, nông nghiệp,… chưa có đề tài nào nghiên
cứu truyền thông về CMCN 4.0 như thế nào; thực trạng; diễn biến truyền
thông về CMCN 4.0 trên báo điện ra sao? Tác động của CMCN 4.0 đến với
cộng đồng xã hội, chính phủ, người dân, doanh nghiệp, làng nghề,… như thế
nào? Đặc biệt là tác động của chính CMCN 4.0 đối với các phương tiện
truyền thông đại chúng nói chung và báo điện tử nói riêng như thế nào trong
thời gian qua hay nói cách khác là báo chí đã bị tác động như thế nào bởi
CMCN 4.0.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài, luận
văn khảo sát thực trạng truyền thông về CMCN 4.0 trên báo điện tử Việt
Nam, luận văn chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của báo điện tử Việt Nam khi
đăng tải thông tin về CMCN 4.0 từ đó đề xuất giải pháp, nâng cao hiệu quả
hơn nữa truyền thông về CMCN 4.0 trên báo điện tử.
7


3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu và làm sáng tỏ các vấn đề sau:
- Làm rõ một số khái niệm công cụ;
- Khảo sát, đánh giá thực trạng truyền thông về CMCN 4.0 trên báo
điện tử Việt Nam qua 3 báo điện tử khảo sát VnExpress, VietNam
Plus, Khoa học Phát triển trong năm 2017;
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông về CMCN

4.0 trên báo điện tử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Truyền thông về cuộc CMCN 4.0 trên báo
điện tử tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian nghiên cứu: Năm 2017.
- Phạm vi khảo sát: 03 báo điện tử, gồm: VnExpress, VietnamPlus và
Khoa học Phát triển.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên sau:
5.1. Phương pháp luận
Tổng hợp nghiên cứu lý thuyết liên quan đến đề tài, cụ thể: Lý thuyết
truyền thông, truyền thông đại chúng; Lý thuyết về báo chí, báo điện tử và
mạng xã hội; Các khái niệm về cách mạng, cách mạng công nghiệp,…
5.2. Phương pháp nghiên cứu công cụ

8


- Nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu các tài liệu, văn bản, sách báo,… tập
hợp các công trình nghiên cứu và tài liệu đánh giá tổng kết liên quan đến đề
tài trong và ngoài nước có liên quan đến CMCN 4.0. Hệ thống hóa những vấn
đề lý luận của thông tin trên báo điện tử làm cơ sở cho đề tài nghiên cứu.
- Khảo sát, thống kê, đánh giá: Tác giả xác định các từ khóa để làm cơ
sở cho việc thống kê, đánh giá về nội dung, hình thức, thông điệp các thông
tin về CMCN 4.0. Từ khóa chính sử dụng để tìm kiếm, khảo sát là: cach
mang 4.0; cach mang cong nghiep; cach mang cong nghiep 4.0”; cach
mang cong nghiep lan thu 4,.... Tác giả tiến hành gõ các từ khóa trên thanh
công cụ tìm kiếm được tích hợp trên các báo điện tử khảo sát. Kết quả tìm

kiếm cho ra các tin, bài có chứa từ khóa liên quan đến CMCN 4.0. Tiếp đó,
tiến hành lựa chọn và nhóm các tin, bài thuộc phạm vi khảo sát (2017) làm cơ
sở cho việc thống kê, đánh giá.
- Phỏng vấn sâu: Thực hiện với các đối tượng là lãnh đạo báo điện tử,
phóng viên, biên tập viên (phụ trách mảng thông tin có liên quan đến CMCN
4.0 tại các cơ quan báo điện tử) và phỏng vấn độc giả báo điện tử để có được
ý kiến của những người trực tiếp thông tin về CMCN 4.0.
Dựa trên kết quả tổng hợp đã thống kê được về kết quả khảo sát, tiến hành
phân tích nội dung để đánh giá thực trạng truyền thông, những yếu tố tác động,
ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động truyền thông về cuộc CMCN 4.0 trên báo
điện tử, từ đó đưa ra những giải pháp giúp nâng cao hiệu quả hoạt động truyền
thông về cuộc CMCN 4.0 trong thời gian tới.
- Nghiên cứu định lượng: Phương pháp này thông qua điều tra xã hội
học bằng bảng hỏi anket. Đề tài sử dụng 200 phiếu hỏi được thiết kế trên biểu
mẫu Google Form và gửi trực tuyến đến các nhóm đối tượng, gồm: nhóm công
chức, viên chức nhà nước; nhóm học sinh, sinh viên; nhóm doanh nghiệp.

9


Mẫu (Form) với 9 câu hỏi và các phương án trả lời. Sau khi hoàn thành
form, tác giả tiến hành gửi đường link (*)1 tới các đối tượng trên.
- Đối với nhóm công chức, viên chức: Tác giả lựa chọn nhóm công
chức, viên chức (CCVC) thuộc các cơ quan của Bộ KH&CN. Tiến hành gửi
đường link phiếu khảo sát qua 60 hòm thư nội bộ của Bộ, 10 Facebook cá
nhân và 10 email cá nhân Số phiếu gửi cho nhóm đối tượng này là 80 phiếu.
- Đối với nhóm sinh viên: Gửi phiếu điều tra cho các đối tượng được
chọn là sinh viên năm thứ 2 trở lên các trường: ĐH Công nghiệp Hà Nội, ĐH
Sao Đỏ, ĐH Vinh, ĐH Tây Nguyên. Gửi 45 đường link qua Facebook cá
nhân, gửi link đến 15 hòm thư email cá nhân của sinh viên. Tổng số 60 phiếu

gửi sinh viên.
- Đối với nhóm doanh nghiệp: Tác giả gửi tổng số 60 phiếu online qua
hòm thư nội bộ cho 04 người là giám đốc doanh nghiệp trực thuộc Bộ
KH&CN, 56 hòm thư cá nhân thông qua danh sách lãnh đạo doanh nghiệp
được đối tác Phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam (VCCI) cung cấp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu hoạt động truyền thông về CMCN 4.0 trên báo
điện tử, để từ đó rút ra một số vấn đề cơ bản trong hoạt động thông tin tuyên
truyền truyền thông, lý thuyết về báo điện tử, lý thuyết về quản trị nguồn tin,
lý thuyết truyền thông về CMCN 4.0; và một số khái niệm khác.
6.2. Giá trị thực tiễn của đề tài
Luận văn có giá trị tham khảo cho các nhà hoạch định chính sách về phát
triển và ứng dụng công nghệ, đặc biệt là các nhà quản lý và triển khai hoạt
1*

/>
10


động truyền thông về công nghệ, ứng dụng công nghệ số vào thực tiễn đời
sống. Luận văn là nguồn tư liệu hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhà báo tác nghiệp
các vấn đề liên quan đến CMCN 4.0, đặc biệt là những người trực tác nghiệp
ở loại hình báo điện tử, để nâng cao hiệu quả thông tin về CMCN 4.0.
Đồng thời, luận văn cũng sẽ cung cấp một cái nhìn khái quát về thực tiễn
về thông tin CMCN 4.0 trong các sản phẩm báo chí điện tử của Việt Nam
cũng như các hoạt động thông tin liên quan trên mạng xã hội.
Nội dung Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ nghiên cứu và
xây dựng các chuyên đề, bài giảng, giáo trình phục vụ cho công tác đào tạo
đội ngũ những người làm báo nói chung, báo điện tử nói riêng và đơn vị, tổ

chức làm nhiệm vụ truyền thông về công nghệ số hóa, KH&CN.
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn gồm 3 chương với nội dung sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận truyền thông về cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 trên báo điện tử Việt Nam
Chương 2: Thực trạng truyền thông về cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 trên báo điện tử qua các báo khảo sát
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông về cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 trên báo điện tử Việt Nam

11


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRUYỀN THÔNG VỀ
CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ VIỆT
NAM
1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1 Khái niệm truyền thông
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về truyền thông, song khái niệm chung
nhất, phổ biến nhất về truyền thông được rút ra như sau:
“Truyền thông là quá trình liên tục trao đổi thông tin tư tưởng, tình
cảm,… chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc nhiều người nhằm tăng
cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và
thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân, của nhóm, của cộng
đồng và xã hội” [1].
Khái niệm trên đã chỉ ra bản chất và mục đích truyền thông. Về bản
chất, truyền thông là quá trình chia sẻ, trao đổi hai chiều, diễn ra liên tục giữa
chủ thể truyền thông và đối tượng truyền thông. Quá trình chia sẻ, trao đổi hai
chiều ấy có thể được hình dung qua nguyên tắc bình thông nhau. Khi có sự
chênh lệch trong nhận thức, hiểu biết giữa chủ thể và đối tượng truyền thông

gắn với nhu cầu chia sẻ, trao đổi thì hoạt động truyền thông diễn ra. Quá trình
truyền thông vì vậy chỉ kết thúc khi đã đạt được sự cân bằng trong nhận thức,
hiểu biết giữa chủ thể và đối tượng truyền thông.
1.1.2 Truyền thông đại chúng
TTĐC (Mass communication) là một dạng thức truyền thông đặc biệt
trong lịch sử loài người – khi mà người truyền thông tin có thể truyền tải
thông điệp cho đông đảo quần chúng về số lượng và rộng khắp về địa lý –
điều mà các cách thức truyền thông trước đó không thể có được. Sự chuyển
tiếp từ hệ thống truyền thông truyền miệng sang hệ thống truyền thông đại

12


chúng chính là một trong những điều kiện và đặc điểm của quá trình chuyển
đổi từ xã hội cổ truyền sang xã hội hiện đại. [2]
Theo PGS.TS Phạm Thành Hưng: “Truyền thông đại chúng là hoạt
động truyền phát và tiếp nhận thông tin có quy mô, tác động xã hội rộng rãi,
đồng loạt và hiệu quả giao tiếp lớn”. [3]
Tác giả Tạ Ngọc Tấn quan niệm: “Truyền thông đại chúng là hoạt
động giao tiếp xã hội rộng rãi, thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng”. [4]
TTĐC ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển của xã hội loài
người, và bị chi phối bởi hai yếu tố là nhu cầu thông tin giao tiếp và kỹ thuật,
công nghệ thông tin. Để thực hiện được hoạt động truyền thông trên phạm vi
và quy mô rộng lớn cần có các phương tiện kỹ thuật tương ứng. Do đó, TTĐC
chỉ phát triển và thực hiện được khi loài người phát minh ra các phương tiện
in ấn, kỹ thuật truyền phát sóng tín hiệu, máy thu thanh, thu hình, máy tính
điện tử, cáp quang, vệ tinh nhân tạo,…
Cũng theo PGS.TS Nguyễn Văn Dững:“Truyền thông đại chúng có thể
được hiểu là hệ thống các phương tiện truyền thông hướng tác động vào

đông đảo công chúng xã hội (nhân dân các vùng miền, cả nước, khu vực hay
cộng đồng quốc tế), nhằm thông tin, chia sẻ, lôi kéo và tập hợp, giáo dục,
thuyết phục và tổ chức đông đảo nhân dân tham gia giải quyết các vấn đề
kinh tế - văn hóa – xã hội đã và đang đặt ra”. [5]
Như vậy, TTĐC là quá trình truyền đạt thông tin một cách rộng rãi đến
mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
1.1.3 Cách mạng công nghiệp 4.0


Cách mạng công nghiệp

Là khái niệm về cuộc cách mạng liên quan chủ yếu đến sản xuất; đi
cùng với nó là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, kỹ
13


thuật và công nghệ. Cuộc cách mạng KH&KT, KH&CN thường bắt nguồn từ
các phát minh vĩ đại và kết quả của cuộc cách mạng công nghiệp phải có cú
“sốc”, có bước đột phá về xã hội, kinh tế. Thông thường, cuộc cách mạng
công nghiệp là hệ quả và là hậu quả của cuộc cách mạng KH&KT, cách mạng
KH&CN.
Phần lớn ý kiến cho rằng, đến nay, lịch sử thế giới đã trải qua ba cuộc
cách mạng công nghiệp, đó là: cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất ra đời
ở nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX được xuất phát từ nước Anh;
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai có thể bắt đầu từ khoảng năm 1850;
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu vào khoảng từ cuối những năm
1969. Còn cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang bắt đầu.


Cách mạng công nghiệp lần thứ 4


Hiện có nhiều ý kiến tranh luận về giai đoạn, thời gian cụ thể diễn ra
CMCN 4.0, thậm chí còn có luồng ý kiến cho rằng, CMCN 4.0 thực sự đã
diễn ra hay chỉ là tiếp nối CMCN 3.0?. TS. Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng
Bộ KH&CN, hiện là Chủ tịch Hiệp hội tự động hóa Việt Nam tại Diễn đàn
Công nghiệp lần thứ I với chủ đề “Nhu cầu công nghệ trong quá trình sản
xuất tự động hóa của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam” diễn ra ngày
29/8/2018 khẳng định: “hiện chưa thể xác định chắc chắn liệu hiện nay đã
bước sang CMCN4.0 hay chỉ là tiếp nối CMCN 3.0”.
Tuy nhiên, tổng hợp từ nhiều nguồn tài liệu tham khảo, phần nhiều ý
kiến đều cho rằng. CMCN 4.0 bắt đầu diễn ra từ những năm 2000, dựa trên
nền tảng số hóa của cuộc CMCN 3.0 nhưng mang một bản chất khác, thông
qua các công nghệ như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo
(VR), tương tác thực tại ảo (AR), mạng xã hội, điện toán đám mây, di động,

14


phân tích dữ liệu lớn (SMAC),... để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực thành
thế giới số.
Nói cách khác, CMCN 4.0 bao gồm: dữ liệu lớn (big data) + (kết hợp)
điện toán đám mây (cloud computing) và Internet kết nối vạn vật (IoT). Sự
kết hợp của dữ liệu lớn – điện toán đám mây – internet kết nối vạn vật tạo ra
một môi trường hoàn toàn mở cho các công nghệ mới như: công nghệ in 3D,
máy móc tự động hóa và tích hợp con người (máy móc là những động lực
chính thúc đẩy tăng năng suất công nghiệp) vào sản xuất hàng các sản phẩm
hàng hóa.
1.1.4 Một số vấn đề về báo chí điện tử
• Quan niệm về báo điện tử
Trên thế giới loại hình này có nhiều tên gọi khác nhau như online

newpaper (báo chí trên mạng/trực tuyến), e-journal (Electronic journal- báo
chí điện tử), e-zine (Electronic magazine- tạp chí điện tử),…
Ở Việt Nam, thuật ngữ báo điện tử được sử dụng khá phổ biến, chẳng
hạn báo Nhân dân điện tử, Lao động điện tử, Thanh niên điện tử,… ngoài ra
còn nhiều tên gọi khác như: báo mạng, báo chí Internet, báo trực tuyến, báo
mạng điện tử,…
Theo Điều 20, Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính
phủ quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên
mạng, báo điện tử là một trong 05 loại của trang tin điện tử gồm: Báo điện tử,
Trang thông tin điện tử tổng hợp; Trang thông tin điện tử nội bộ; Trang thông
tin điện tử cá nhân và Trang thông tin điện tử ứng dụng chuyên ngành.
Ngoài thuật ngữ “online newpaper” được sử dụng rộng rãi trong các
công trình nghiên cứu báo chí học, nhất là lĩnh vực truyền thông mới để chỉ

15


các khái niệm cùng đặc tính như: online publishing (xuất bản trực tuyến),
online media (phuơng tiện truyền thông trực tuyến), online journalist (nhà báo
trực tuyến), online radio (phát thanh trực tuyến), online television (truyền
hình trực tuyến).


Khái niệm báo điện tử

Theo Luật báo chí (sửa đổi năm 2016): “Báo điện tử là loại hình báo
chí sử dụng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được truyền dẫn trên môi trường
mạng, gồm báo điện tử và tạp chí điện tử”. [6]



Đặc trưng của báo điện tử

Mặc dù ra đời muộn nhất so với 3 loại hình truyền thông đại chúng, tuy
nhiên, báo điện tử ngày càng thể thể hiện được những ưu thế về khả năng
thông tin, vị trí của mình trong đời sống báo chí hiện đại. Những ưu thế đó
được thể hiện qua 06 đặc trưng sau:
Thứ nhất, báo điện tử cho phép cập nhật thông tin tức thời, thường
xuyên và liên tục.
Nhờ vào sự phát triển của công nghệ, máy vi tính và đặc biệt là vai trò
của mạng toàn cầu Internet, các nhà báo trực tuyến có thể dễ dàng xâm nhập
sự kiện, nhanh chóng viết bài và gửi về toà soạn thông qua hệ thống thư điện
tử. Với tốc độ đường truyền nhanh, thậm chí các nhà báo có thể đưa tin cùng
lúc với sự kiện. Ví dụ: họp quốc hội, tường thuật một trận bóng đá, cuộc họp
báo, …
Không chỉ tức thời, báo mạng điện tử còn cho phép nhà báo thường
xuyên cập nhật thông tin. Điều này khác với báo giấy hoặc các loại hình báo
chí khác ở chỗ nhà báo có thể đăng tải thêm tin tức bất cứ lúc nào mà không
phải chờ đến giờ lên khuôn hay sắp xếp chương trình như ở các loại hình báo

16


chí truyền thống (báo in). Chính vì thế điện tử có một đặc trưng khác so với 3
loại hình báo chí còn lại là tính phi định kì.
Đặc điểm này giúp cho báo điện tử dễ dàng vượt trội hơn so với các
loại hình báo chí truyền thống về tốc độ thông tin, lượng thông tin, đảm bảo
tính thời sự và tạo ra sự thuận tiện cho độc giả. Nhiều người tìm đến báo
mạng điện tử để cập nhật thông tin cũng là vì lí do này.
Thứ hai, báo điện tử có tính tương tác cao.
Tính tương tác là một trong những đặc trưng quan trọng của báo chí.

Đây có thể được coi là “linh hồn” của báo điện tử, khi mà mọi điều kiện của
con người được nâng cao, nhu cầu được đáp ứng về thông tin, vai trò của độc
giả ngày càng được coi trọng thì tính tương tác của báo điện tử chính là “cầu
nối” giúp độc giả với tòa soạn, nhà báo, phóng viên thu hẹp khoảng cách địa
lý, thời gian.
Ở bất kì loại hình báo chí nào, tính chất này cũng được những người
làm báo lưu tâm. Tuy nhiên, đối với báo điện tử, nhờ có những đặc trưng nổi
trội về công nghệ dẫn đến hoạt động tương tác cao hơn so với báo in, báo nói
và báo hình.
Không dừng lại ở sự tương tác giữa độc giả với toà soạn, ở báo điện tử,
chúng ta còn có thể thấy sự tương tác nhiều chiều giữa độc giả với nhà báo,
độc giả với độc giả, hay độc giả với nhân vật trong tác phẩm báo chí.
Quá trình tương tác trên báo điện tử nhanh chóng và thuận tiện, ngay
sau mỗi tác phẩm báo chí đăng trên trang báo mạng điện tử đều có mục phản
hồi, ngoài ra còn có rất nhiều kênh tương tác khác như: feedback, vote, email,
forum,… tiện cho độc giả dễ dàng đóng góp ý kiến của mình. Điều này khó
có thể tìm thấy trên báo hình, phát thanh hay báo giấy so với trước đây.

17


Thứ ba, báo điện tử là sự kết hợp hình thức đa phương tiện.
Người ta nói báo mạng điện tử là một loại hình báo chí tổng hợp, tích
hợp nhiều công nghệ (multimedia). Trên một tờ báo điện tử, thậm chí ngay
trong một tác phẩm báo điện tử có thể tích hợp cả báo viết, báo phát thanh và
báo hình.
Khi đọc báo điện tử độc giả có thể chủ động xem những tác phẩm mình
quan tâm ở bất kì trang nào giống như báo in. Đồng thời được trực quan
những hình ảnh, video clip, lắng nghe những âm thanh mà không hề bị phụ
thuộc vào các yếu tố thời gian, không gian.

Sự tích hợp này giúp cho báo điện tử có được những yếu tố hấp dẫn của
các loại hình báo chí khác, bởi được tích hợp “4 trong 1” loại hình trên một tờ
báo. Chính vì vì thế mà báo điện tử ngày càng trở nên sinh động hơn, hấp dẫn
hơn đối với người đọc.
Thứ tư, báo điện tử có khả năng liên kết lớn.
Báo mạng điện tử có khả năng liên kết vô cùng lớn nhờ vào các siêu
liên kết (hyperlink), các từ khoá, web link, hồ sơ… Từ một bài báo, độc giả
có thế dễ dàng tìm kiếm những thông tin liên quan thông qua các liên kết để
tìm hiều sâu hơn về vấn đề quan tâm. Hoặc từ một trang báo, có thể dễ dàng
đi đến các trang web liên kết khác chỉ với một thao tác click chuột. Khả năng
liên kết của báo điện tử thật sự mở ra một kho thông tin vô hạn cho độc giả.
Thứ năm, khả năng lưu trữ và tìm kiếm thông tin trên báo điện tử dễ dàng.
Báo điện tử cho phép lưu trữ bài viết theo hệ thống khoa học, với một
lượng khổng lồ thông tin lưu trữ. Đồng thời với đó là khả năng tìm kiếm dễ
dàng nhờ vào các mục tìm kiếm với các từ khoá được đính kèm trên mỗi trang
báo điện tử. Có thể xem theo ngày, xem theo bài, hoặc theo chủ đề… Nếu không

18


×