Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN giúp học sinh chưa hoàn thành toán lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.04 KB, 14 trang )

BÁO CÁO
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH TOÁN LỚP 2
I.- Sơ lược lý lịch tác giả:
II.- Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:
- Những thuận lợi và khó khăn của đơn vị khi thực hiện nhiệm vụ:
Thuận lợi:
+ Ban giám hiệu luôn quan tâm tới chất lượng giáo dục dạy và học.
+Học sinh có đủ sách giáo khoa và dụng cụ học tập
Khó khăn:
Tôi nhận thấy, học sinh chưa hoàn thành do hoàn cảnh gia đình chủ yếu do các
nguyên nhân như:
- Vì cuộc sống gia đình quá khó khăn, thiếu thốn về kinh tế
- Do gia đình bất ổn như cha mẹ không hòa thuận, li hôn, trẻ phải sống với cha
hoặc mẹ hoặc ông bà, cô bác.
.- Do kinh tế gia đình khá giả, cha mẹ chỉ lo kiếm tiền, ít quan tâm đến việc học
tập của con.
- Tên sáng kiến: Một số biện pháp rèn học sinh chưa hoàn thành Toán lớp 2
- Lĩnh vực: Chuyên môn
III. Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến:
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến
- Hệ thống kiến thức ở tiểu học được xây dựng theo kiểu đồng tâm. Theo đó, các
phép tính cộng, trừ có nhớ cũng theo cấu trúc của phân môn, đi từ các phép tính đơn
giản trong vòng số 10, 100, 1000 và các vòng số cao hơn. Ở lớp 1, các em chỉ thực
hiện phép tính cộng, trừ không nhớ, nên lên đến lớp 2 việc xây dựng, rèn luyện cộng,
trừ có nhớ là hết sức cần thiết. Nó là nền móng vững chắc trong việc học tốt phân
môn. Giáo viên không thấy sự cần thiết này thì số lượng học sinh chưa hoàn thành
môn Toán sẽ nhiều là điiều không thể tránh khỏi.
- Chương trình toán 2, từ tuần 3 đến tuần 18 là rèn luyện kỹ năng cộng, trừ có
nhớ trong phạm vi 100 rồi sau đó rèn luyện kỹ năng cộng, trừ có nhớ trong phạm vi
1



1000. Thời lượng rèn luyện kỹ năng này đối với học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt
là đủ đến thừa nhưng đối với học sinh chưa hoàn thành thì “mới vừa thấm” được món
ăn này chưa kịp nhào trộn để tạo chất bổ dưỡng nuôi cơ thể thì các thức ăn khó tiêu
khác lại tuôn tràn vào cái “ dạ dày” ốm yếu này. Tạo thành một mớ hổn độn biết cần
phải tiêu hoá thứ nào trước đây?
- Từ tuần 19 đến tuần 31 kỹ năng này tạm thời bỏ quên, chỉ dành cho việc hình
thành, làm tính giải toán với phép nhân, chia và các bài toán cơ bản về hình học, đơn
vị đo độ dài lớn hơn mét là ki-lô-mét.
Chính vì trước thực trạng trên mà hiện nay không chỉ ở đơn vị tôi mà hầu hết
ngành giáo dục đang báo động tình trạng học sinh tính toán sai nhiều, khả năng nhạy
bén của các em bị giảm súc, ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học hiện nay.
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
- Học tập phải gắn liền với thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc sống. Trong
các môn học, môn toán là môn học có vị thế rất quan trọng, nó góp phần rèn luyện tư
duy, phương pháp giải quyết vấn đề cho học sinh.
- Việc giúp học sinh chưa hoàn thành môn Toán tưởng chừng đơn giản, nhưng
qua thực tế giảng dạy khối 2, tôi mới thấy rõ tại sao các em luôn “quên” trong khi cần
“nhớ”. Điều hay “quên” này ảnh hưởng rất nhiều trong quá trình học sinh luyện tập,
thực hành.
- Vì vậy, nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Tôi đã nghiên cứu và chọn đề tài
“Một số biện pháp rèn học sinh chưa hoàn thành Toán lớp 2
3. Nội dung sáng kiến
3.1.Tiến trình thực hiện:
- Trong suốt quá trình thực hiện sáng kiến, bản thân tôi thấy rằng để thành công
trong công việc giúp học sinh chưa hoàn thành Toán 2 đạt kết quả cao, đòi hỏi người
giáo viên cần phải thực hiện những việc làm sau:
+ Có tâm với nghề, tận tụy trong việc giảng dạy.
+ Gần gũi, quan tâm với học sinh; động viên, khuyến khích các em hoàn thành các
bài tập đáp ứng chuẩn kiến thức, kĩ năng.

+ Luôn đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm kích thích sự hứng thú cho các em
trong học tập.

2


+ Luôn học hỏi, tìm tòi những cách làm hay mà phù hợp với khả năng tiếp thu của
các em. Điều chỉnh cách dạy kịp thời nếu các em chưa hiểu hoặc còn mơ hồ về kiến
thức Toán.
+ Kiểm tra thời xuyên các bảng công, trừ, nhân, chia trong phạm vi chương trình
lớp 2.
+ Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh trong quá trình rèn luyện các em học.
3.2.Thời gian thực hiện:
- Thời gian thực hiện : Năm học 2016-2017
- Địa điểm nghiên cứu: Lớp 2C, Trường Tiểu học C Vĩnh Xương
3.3.Biện pháp tổ chức
a. Phương pháp trực quan:
Thường vận dụng khi giảng bài mới và hướng dẫn bài tập mẫu, nhằm giúp học
sinh tính nhanh, tính chính xác kết quả của phép tính. Với phương pháp này, giúp học
sinh nhớ lâu, bền vững các bảng cộng, trừ. nhân, chia. Để phục vụ cho việc giảng dạy
này, tôi sử dụng các thẻ chục, que tính rời, bảng chữ số, dấu phép tính có ở bộ đồ dùng
dạy toán lớp 2.
b. Phương pháp đàm thoại:
Đây là phương pháp được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác. Giáo
viên lựa chọn hệ thống câu hỏi gợi mở, đặt vấn đề để học sinh suy nghĩ và tính chính
xác kết quả của từng phép tính.
c. Phương pháp trò chơi:
Đây là hình thức luyện tập được áp dụng nhằm khuyến khích các em học sinh
yếu phấn đấu nắm vững, nắm nhanh bảng cộng, bảng trừ, nhân, chia đã học để tham
gia vào trò chơi ở cuối tiết dạy mà giáo viên đưa ra. Học sinh rất hứng thú với dạng bài

tập này, vì các em vừa học vừa chơi và được thử tài cùng bạn. Các trò chơi thường
được sử dụng là tiếp sức, ghi đúng hoặc sai với kết quả của phép tính….
Chúng ta cần thường xuyên củng cố kỹ năng này vào các tiết luyện tập và gọi
học sinh chưa hoàn thành lên bảng lớp làm các dạng bài tập này. Vì đây là đối tượng
hay quên và thường xuyên làm sai các bài tập này.
d. Gần gũi với học sinh và phối hợp với gia đình:
- Một học sinh chưa hoàn thành thì lúc nào cũng lo lắng, sợ sệt hoặc là không
muốn học mà giáo viên cứ la rầy, trách phạt thì làm cho các em càng chán học hơn.
3


Chính vì thế mà giáo viên cần thường xuyên giúp đỡ, động viên các em làm bài cẩn
thận, học bài tốt và sẵn sàng hướng dẫn lại khi các em làm sai hoặc chưa hiểu cách
làm.
- Ngoài ra giáo viên cũng nên thường xuyên trao đổi với phụ huynh những em
chưa hoàn thành để giúp các em có cách học ở nhà hiệu quả như dành một chút thời
gian rảnh rổi kiểm tra tập vở của các em, các em làm bài như thế nào, có thuộc các
bảng cộng, trừ, nhân, chía… chưa. Nếu có gì có khi không rõ cứ liên hệ với giáo viên
để tạo giúp các em học tốt hơn.
đ. Khảo sát thực tế:
Khi làm dạng bài tập này học sinh chưa hoàn thành thường hay quên nên kết quả
của phép tính sai thật đáng tiếc.


Ví dụ:

27
8

62

7

46

17

82

39

65

53

57



25

Thay vì dưới đây là mới kết quả đúng:


27
8

62
7

46


17

82

39

55

63

43



35

Nguyên nhân các em làm sai là do:
+ Các em quên trong khi làm bài ( mượn thì không trả, nhớ thì không thêm vào
+ Không thuộc bảng cộng, bảng trừ.
+ Không phân biệt được số nào là số bị trừ, số nào là số trừ, chỉ biết lấy số lớn trừ số
nhỏ thôi)
+ Ngoài ra các em còn đưa ra các kết quả mà chúng ta không thể ngờ tới. Do khả năng
tính toán còn hạn chế này, tôi thiết nghĩ cần có các biện pháp thực hiện như sau nhằm
giúp các em củng cố kỹ năng tính chính xác.
e. Ngoài các phương pháp giáo dục trên, tôi mạnh dạn đưa ra các hướng dẫn học
sinh như sau:
Đối với học sinh chưa hoàn thành ở lớp 2, chỉ cần các em thực hiện thành thạo 4
phép tính cộng, trừ , nhân, chia và giải toán ở mức độ đơn giản là các em đã đạt được


4


chuẩn kiến thức kĩ năng của chương trình toán, nên tôi tập trung vào một số việc làm
sau:
Giúp học sinh thuộc bảng cộng, trừ:
Trong tiết dạy có lập bảng cộng hay bảng trừ đều có thời gian rèn luyện cho học
sinh học thuộc bảng cộng, bảng trừ nhưng thời lượng này là không đủ cho học sinh
yếu thuộc mà chủ yếu là các em chỉ đọc theo miệng. Do đó, giáo viên lựa chọn và chỉ
đích danh các em cần học thuộc về nhà học và trả bài vào tiết sau, có như thế thì các
em này mới học đạt kết quả tốt.
- Giáo viên cũng cần thường xuyên kiểm tra lại bảng cộng, bảng trừ đối với đối
tượng này.
-

Giáo viên hướng dẫn cách nhớ bền vững các bảng cộng, bảng trừ.

-

Ví dụ: Bảng 9 cộng với một số: 9 + 5
9 + 2 = 11
9 + 3 = 12
9 + 4 = 13
9 + 5 = 14
9 + 6 = 15
9 + 7 = 16
9 + 8 = 17
9 + 9 = 18

-


Giáo viên dùng phương pháp đàm thoại với hệ thống câu hỏi như sau:

+ Trong bảng cộng, em thấy 9 bắt đầu cộng với mấy?(9 cộng với 2)
+ Kết thúc bảng cộng, em thấy 9 cộng với mấy?(9 cộng với 9)
+ 9 cộng 2 bằng mấy?(11)
+ 9 cộng 3 bằng mấy?(12)
+ Vậy mỗi lần số hạng được cộng lớn hơn 1 thì kết quả của nó như thế nào?(lớn
hơn 1)
+Học sinh thấy rõ đặc điểm này thì việc học thuộc bảng cộng không có gì khó đối
với các em.
Còn đối với bảng: 11 trừ đi một số: 11 – 5
11 – 2 = 9
11 – 3 = 8
5


11 – 4 = 7
11 – 5 = 6
11 – 6 = 5
11 – 7 = 4
11 – 8 = 3
10 – 9 = 2
- Giáo viên cũng cần hướng dẫn tương tự bảng cộng để học sinh nhận ra: Khi
số trừ tăng thêm 1 đơn vị thì hiệu của nó giảm đi 1 đơn vị.
- Tương tự như thế thì học sinh sẽ thuộc bảng cộng, bảng trừ một cách nhanh
chóng và bền vững hơn. Đây là sự hỗ trợ cho học sinh chưa hoàn thành nhớ bài vì khi
trực quan xây dựng bài thì đa số học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt đã nhớ bài
nhưng các em học sinh chưa hoàn thành thì khó mà nhớ bài trong khoảng thời gian
ngắn như thế.

 Hướng dẫn học sinh nhớ khi làm tính có nhớ:
- Khi gọi các em lên bảng làm bài tính có nhớ này thì giáo viên thì giáo viên
lưu ý các em trước: Khi có nhớ các em cần chấm 1 chấm nhẹ vào hàng kế tiếp. Đây là
điểm tựa cho các em.
-

Ví dụ:

+ 48

27

+ 36

-

_ 56
.6

.29

.8

.28
54
19

65
28


- Riêng học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt, các em không cần điểm tựa này
thì vẫn nhớ và làm tính đúng. Học sinh chưa hoàn thành thì điểm tựa này là rất cần
thiết vì các em là đối tượng hay “quên”.
 Hướng dẫn học sinh làm tính khi lỡ quên bảng cộng, bảng trừ:
- Khi đã lỡ quên bảng cộng, bảng trừ thì cách tốt nhất để các em làm bài là “xoè
tay tính”. Phải xoè tay để đếm này thì không thể chấp nhận với học sinh lớp 2, lớp 3,
lớp 4, lớp 5. Nhưng khi đứng lớp mà giáo viên không cho các em hay quên này xòe
tay đếm thì không còn cách gì để các em có thể tính được kết quả của phép tính này.
6


Vậy các em phải xoè tay và đếm như thế nào? mà nhanh gọn (không phải đếm cả ngón
chân) cũng là một thủ thuật cần học hỏi để dạy các em.
Ví dụ:

đối với phép cộng:


48
6

+ Các em không nhớ 8 cộng 6 bằng bao nhiêu thì giáo viên cần hướng dẫn các em:
+ Giáo viên: có 8 rồi xem cần xoè thêm 6 ngón tay và đếm tiếp xem được bao
nhiêu?
+Học sinh: xoè tay đếm tiếp và trả lời 14.
+ Chỉ cần nhẹ nhàng như thế các em đã tính được


48
6


54
- Không hướng dẫn như thế thì đôi khi các em xòe 8 ngón tay, rồi xoè tiếp 6
ngón tay nữa. 6 ngón này ở đâu có đủ? Nên các em lấy cả ngón chân gộp vào mà đếm.
Làm như thế nó vừa lâu, vừa mất thời gian và đôi khi cả tay và chân làm các em lúng
túng mất cả tính chính xác, lại thiếu thẩm mỹ khi đứng trước lớp.
* Còn đối với phép tính trừ:
51

19
Các em lỡ quên 11 trừ 9 không biết bằng bao nhiêu? Các em không cần xoè 11
ngón tay, bỏ 9 để xem còn bao nhiêu? Mà các em hãy xem đã có 9 rồi thêm bao nhiêu
nữa để có 11.
+ Học sinh: đếm thêm 2 nữa thì được 11.
+Giáo viên: Vậy 11 trừ 9 bằng bao nhiêu?(2)
- Học sinh tính được
51
19
32
- Đối học sinh lớp 2, cách này là tốt nhất để các em làm cộng, trừ có nhớ chính xác
ngay cả khi lỡ quên bảng cộng, bảng trừ.
 Rèn kỹ năng cộng trừ có nhớ trong các tuần từ 19 đến 31:
7


- Trong các tuần từ 19 đến 31 này, học sinh học chủ yếu các tính nhân, chia trong
bảng và các bài toán cơ bản về hình học, đơn vị đo độ dài lớn hơn mét là ki-lô-mét và
mi-li-mét. Đây là khoảng thời gian các em phải tạm quên kỹ năng này để tiếp thu cái
mới. Nhưng các bạn hãy nhìn lại xem, nó đâu chiếm thời gian ngắn mà là dài đối với
học sinh lớp 2. Trong khoảng thời gian này, giáo viên cũng lãng quên không ôn lại kỹ

năng cộng, trừ có nhớ cho học sinh thì ngay cả các em hoàn thành tốt cũng làm sai khi
gặp bài toán này. Do đó, tôi luôn đan xen một vài phép tính có nhớ vào các tiết ôn
luyện buổi chiều để gọi các em làm ở bảng lớp, bảng con để kỹ năng này trở thành kỹ
xảo (tính nhẩm) đối với các em khi đối mặt với phép cộng, trừ không nhớ và có nhớ.
Rèn kĩ năng tính nhân và chia:
*Giúp học sinh thuộc bảng nhân, chia từ 2 đến 5
Đây là mức độ cần đạt của học sinh lớp 2, nên việc kiểm tra bảng nhân, chia cho
học sinh là việc làm thường xuyên bằng cách:
+ Lập đôi bạn cùng tiến: kiểm tra bảng nhân, chia vào đầu giờ học
+ Phối hợp với phụ huynh học sinh: nhờ phụ huynh nhắc nhở đôn đốc các em học
thuộc các bảng cộng, trừ, nhân, chia.
+ Tổ chức truy bài đầu giờ bằng cách gọi các em này lên thực hiện các phép tính
mà các em mắc phải, để giúp các em thấy chỗ sai và hướng dẫn các em tính đúng.
*Tổ chức trò chơi: nhằm khắc sâu kiến thức nhân, chia cho các em:
Ví dụ: Trò chơi truyền điện
Cách chơi: Chia lớp làm 2 nhóm, mỗi nhóm 5 em, cả hai đội cùng ghi một bang
nhân hoặc chia
+ Em thứ nhất ghi xong 1 phép tính thì chuyển viên phấn cho bạn thứ hai ghi phép tính
tiếp theo và cứ tiếp tục như thế cho đến hết bảng nhân hoặc chia.
Luật chơi: mỗi phép tính đúng được 1 điểm, nhóm nào ghi nhanh hơn và đúng
nhiều hơn thì thắng.
Rèn kĩ năng giải toán đơn giản:
Đối với những học sinh chưa hoàn thành: việc thực hiện phép tính đã khó mà
bắt các em giải toán có lời văn là một việc làm càng khó thực hiện nên giáo viên chỉ
nên giúp các em tìm hiểu đề và cách giải một bài toán đơn giản để từng bước giúp các
em có thái độ hộc tập tốt hơn.
8


Ví dụ: Bạn Hà có 25 cái bánh, bạn An nhiều hơn bạn Hà 4 cái bánh. Hỏi bạn An có

bao nhiêu cái bánh?
+ Bước 1: Tìm hiểu đề bài toán
Bài toán cho biết gì? ( Bạn Hà có 25 cái bánh, bạn An nhiều hơn bạn Hà 4 cái
bánh).
Vậy: Muốn biết bạn An có bao nhiêu cái bánh, em phải làm sao? (phép cộng: 25
cộng 4)
+Bước 2: Giải bài toán
- Hướng dẫn cách đặt lời giải: Học sinh chưa hoàn thành thường không biết đặt
lời giải như thế nào, nên giáo viên cần hướng dẫn các em đặt lời giải một cách đơn
giản nhất:
+ Bài toán hỏi bạn An có bao nhiêu cái bánh? Thì các em bỏ chữ Hỏi đầu tiên và
chữ bao nhiêu ra thì các em được lời giải của bài toán.
Bài giải:
Bạn An có là : ( hoặc lời giải đầy đủ là : Số cái bánh bạn An có là)
25 + 4 = 29 (cái bánh)
Đáp số: 29 cái bánh
Trên đây chỉ là hướng dẫn các em chưa hoàn thành đặt lời giải cho bài toán đơn
giản, hỏi trực tiếp, còn đối với những bài khó hơn thì ta không thể áp dụng được, vì
tùy theo đề bài và yêu cầu tính của đề bài đómà hướng dẫn khác nhau.
Thực hiện tốt các biện pháp này, tôi tin chắc là đến cuối năm học khi các em tiếp
tục rèn luyện kỹ năng học toán sẽ rất tự tin và mạnh dạn thực hiện phép tính và kết
quả phép tính là chính xác. Cứ nhẹ nhàng đưa một vài phép tính vào một tiết luyện tập
trong mỗi tuần như thế thì không có gì là nặng nề cho giáo viên khi soạn bài và cũng
không có gì là nặng nề đối với học sinh. Nó vừa nhẹ nhàng, vừa đảm bảo được chất
lượng của môn dạy.
IV. Kết quả đạt được:
Sau một năm vận dụng các biện pháp trên, tôi nhận thấy tỉ lệ học sinh chưa
hoàn thành giảm rõ rệt theo từng thời điểm. Điều này khích lệ tôi rất nhiều trong công
tác giảng dạy của mình. Sau đây là một minh chứng cụ thể cho sự chuyển biến đó ở
các lớp do tôi phụ trách:


9


Năm học : 2016– 2017

Giai đoạn
Tổng số HS Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưahoàn thành
Khảo sát đầu năm
25
7
27
4
Kiểm tra cuối HKI
25
9
16
2
Kiểm tra cuối HKII
30
12
13
0
+ Qua quá trình thực hiện sáng kiến, bản thân tôi thấy các em có tiến bộ rõ rệt,
các em ham thích học môn toán, nhất là những em chưa hoàn thành đều có tinh thần
tự học. Cuối năm học, các em này đều hoàn thành chương trình môn Toán nói riêng
và đều đặc biệt là 100 % học sinh của lớp hoàn thành chương trình lớp 2.
- Sau kết quả kiểm tra giữa kỳ I năm học 2016-2017. Tôi đã nhìn lại tổng quan
chương trình toán 2 và đưa ra biện pháp ôn luyện cho các em. Nên cuối năm không
còn học sinh chưa hoàn thành.

* Đối với học sinh
+ Các em thực hiện thành thạo các phép tính
+ Giải được những bài toán ở mức độ đơn giản
+ Học sinh nắm được kiến thức trọng tâm của bài
+ Phát huy được tính chủ động, tích cực trong học tập
*Đối với bản thân:
Bản thân tôi cũng cảm thấy tự tin hơn trong giảng dạy khi thấy học trò của mình
mỗi ngày một tiến bộ. Từ đó, tôi sẽ càng say mê tìm ra nhiều biện pháp hay, sáng kiến
mới phục vụ cho công tác giảng dạy ngày càng hiệu quả hơn.
* Đối với tổ, khối chuyên môn :
Đa số những giáo viên trong trường đều hiểu và xác định được vai trò và sự
cần thiết của việc đổi mới phương pháp dạy học trong quá trình lên lớp. Đặc biệt, đề
tài của tôi đã được triển khai ở Tổ khối và được nhiều lớp trong trường áp dụng đạt
hiệu quả.
V. Mức độ ảnh hưởng
1. Khả năng áp dụng:
- Những biện pháp mà bản thân tôi đã nêu trong đề tài, thực tế không ở đâu xa
mà nó ở ngay trong tầm tay giáo viên. Vì thế có thể nhân rộng và áp dụng trong phạm
vi bất cứ đơn vị nào, từ nông thôn đến thành thị, vùng sâu, vùng biên giới...
2. Điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp:
10


a. Đối với giáo viên:
Để thành công và đạt kết quả như trên không phải là việc làm đơn giản, đòi hỏi
người giáo viên cần phải:
- Phải nắm chắc nội nung chương trình và những yêu cầu cần đạt của chương
trình mình đang dạy.
- Phải nắm được khả năng học tập của từng đối tượng học sinh
- Phải thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học.

- Nếu giáo viên chúng ta vận dụng, cộng với sự nhiệt tình, tâm huyết với nghề,
hết lòng vì thế hệ tương lai, tôi tin rằng chắc chắn các thầy, cô giáo cũng sẽ đạt kết quả
như tôi đã đạt được hoặc cao hơn nữa.
b. Đối với học sinh:
Các em cần phải có ý thức tự học, biết sắp xếp thời gian học tập ở nhà và phải
nhờ sự hỗ trợ của giáo viên và bạn bè nếu như có bài nào mình chưa hiểu hoặc hiểu
chưa rõ.
c. Đối với phụ huynh học sinh:
Cần quan tâm đến con em mình nhiều hơn trong việc học tập và phối hợp
thường xuyên với giáo viên chủ nhiệm để biết tình hình học tập của con em mình. Từ
đó có biện pháp giúp các em học tập ở nhà có hiệu quả hơn.
d. Đối với nhà trường và các cấp quản lí:
Nhà trường cần tạo điều kiện về cơ sở vật chất để giáo viên và học sinh thực
hiện tốt việc dạy và học.
V. Kết luận:
1. Ưu điểm:
Qua quá trình thực hiện sáng kiến, tay nghề giảng dạy của bản thân ngày càng
được nâng cao thông qua việc nghiên cứu, tòi tòi, học hỏi các phương pháp, cách làm
hay từ sách báo, đồng nghiệp và chất lượng dạy và học cũng từng bước nâng cao.
2. Hạn chế:
Một số ít phụ huynh chưa phối hợp chặt chẽ với giáo viên nên việc giáo dục các
em còn khó khăn.
3.Tác dụng của sáng kiến:
* Đối với học sinh:

11


Các em đều có phấn đấu vươn lên học tốt và không còn học sinh chưa hoàn
thành, các em còn biết vận dụng kĩ năng tính toán vào cuộc sống thực tế hàng ngày mà

các em thường gặp.
* Đối với bản thân:
Qua kết quả đạt được, tôi tự thấy đã tìm được hướng đúng, bản thân, giúp tôi
cảm thấy yêu nghề, là động lực để giúp tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học
* Đối với đơn vị:
Qua kinh nghiệm vừa thực hiện sẽ giúp cho người giáo viên thực hiện tốt vai
trò trách nhiệm trong việc phối hợp giữa nhà trường – gia đình và xã hội, góp phần
nâng cao chất lượng và hiệu quả đào đạo.
* Đối với ngành:
Có thể đưa ra các đơn vị khác tham khảo và vân dụng nhằm nâng cao chất lượng
của ngành giáo dục.
4. Bài học kinh nghiệm:
a. Đối với giáo viên:
Như vậy, việc giáo dục học sinh yếu kém luôn là một vấn đề khó khăn và phức
tạp. Muốn làm tốt việc này, mỗi giáo viên cần phải dùng tình thương, lương tâm và
trách nhiệm của một nhà giáo để dạy dỗ các em. Cụ thể:
- Người giáo viên phải có kiến thức vững chắc, có kĩ năng sư phạm, phải hiểu
được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Phải thực sự yêu trẻ, coi các em như chính con em
của mình. Đồng thời phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
- Cẩn trau dồi thêm kiến thức, tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm nâng cao
tay nghề.
- Có tinh thần trách nhiệm cao. Phải nhiệt tình, kể cả kiên nhẫn.
- Lập và lên kế hoạch cụ thể. Hiểu và nắm bắt tình hình học tập của lớp. Cải
tiến phương pháp và hình thức và tổ chức dạy học.
- Thường xuyên theo dõi, nắm bắt hoàn cảnh gia đình của từng em, giúp đỡ
các em có hoàn cảnh khó khăn.
- Ngoài ra còn phải kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, phối hợp với các ban
ngành đoàn thể trong nhà trường, địa phương… nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa gia
đình, nhà trường và xã hội..
b. Đối với học sinh:

12


Tạo điều kiện để giúp các em các em phải hoàn thành các kiến thức, bài tập
mà giáo viên giao, tích cực học tập và rèn luyện.
c. Đối với nhà trường:
Toán học là một bộ môn khoa học rất quan trọng và rất cần thiết đối với học
sinh, đơn vị cần tạo điều kiện để giáo viên và học sinh đạt hiệu quả cao trong việc dạy
và học.
Tóm lại:Trong quá trình dạy học, người giáo viên không nên nhìn nhận từ một
phía của học sinh mà cần phải xem lại bản thân của mình đã làm được những gì và
những gì thực hiện chưa tốt, cần xem phương pháp dạy của mình có phù hợp với khả
năng tiếp thu bài của học sinh hay không? Học sinh dễ hiểu bài không?... Chúng ta cần
phải tìm hiểu nguyên nhân cả chủ quan và khách quan để có phương pháp giảng dạy
một cách hiệu quả nhất. Người giáo viên cần phải kiên trì, bởi vì công việc nào lúc
ban đầu cũng gặp khó khăn, không nên chán nản.
- Cần tạo sự tự tin cho các em, nhất là những em thường xuyên làm sai cần gần
gũi, động viên, hướng dẫn kĩ lại; không nên la rầy để các em cảm thấy sợ sệt rồi chán
nản.
Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật.
Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến

Người

viết sáng kiến

13


cơ sở


14



×