Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.16 KB, 23 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO
GIÚP ĐỠ HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH MÔN TOÁN LỚP 4

Người thực hiện :
Lê Thị Tuyết
Chức vụ
:
Phó Hiệu trưởng
Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Xuân Bái - Thọ Xuân
SKKN thuộc lĩnh vực(môn): Toán

THANH HÓA NĂM 2017


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong chương trình Giáo dục Tiểu học, các môn học nói chung và môn Toán nói
riêng có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành trí tuệ và nhân cách con
người. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng
trong đời sống; rất cần thiết để học tốt các môn học khác ở Tiểu học và chuẩn bị
cho việc học tốt môn Toán ở bậc trung học. Môn Toán góp phần rất quan trọng
trong việc rèn luyện cho học sinh tính độc lập, linh hoạt, sáng tạo cùng với
phương pháp suy nghĩ, giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh. Ở
bậc học tiểu học được chia thành 5 khối lớp, các kiến thức Toán học được làm
quen và nâng cao dần về độ khó về kiến thức cũng như kĩ năng. Có thể nói,


chương trình Toán ở Tiểu học được chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 ở các khối
lớp 1,2,3 và giai đoạn 2 ở khối lớp 4,5. Trong đó, giai đoạn 1 được xem là giai
đoạn học tập cơ bản, còn giai đoạn 2 là giai đoạn học tập sâu ( so với giai đoạn
trước). Hoạt động chủ đạo của học sinh ở giai đoạn này là hoạt động học. Nếu
như ở các lớp 1,2,3, học sinh chủ yếu nhận biết các khái niệm ban đầu, đơn giản
qua các ví dụ cụ thể với sự hỗ trợ của các vật thật hoặc mô hình, tranh ảnh,...chủ
yếu nhận biết cái riêng lẻ, cái toàn thể . Nhưng đến giai đoạn 2, ở lớp 4,5, các
em được học tập các kiến thức và kĩ năng khái quát hơn, tường minh hơn . Học
sinh học tập thông qua hoạt động thực hành, luyện tập của cá nhân hay nhóm để
từ đó có thể tự mình phát hiện ra các kiến thức, kỹ năng mà giáo viên cần dạy.
Nhận thức của học sinh ở giai đoạn này bắt đầu chuyển sang nhận thức lý tính
trên cơ sở quan sát, phân tích, so sánh các hiện tượng và sự kiện trong học tập và
trong đời sống. Tính trừu tượng, khái quát của nội dung môn Toán ở các lớp 4,5
được nâng lên một bậc.
Đối với chương trình môn Toán lớp 4, học sinh bước vào một giai đoạn
học tập mới. Chương trình có kế thừa và phát huy các kết quả về kiến thức và kĩ
năng môn Toán ở giai đoạn 1, đồng thời cũng khái quát hóa kiến thức và học
những kiến thức mới, những dạng Toán mới.
Trong nhiều năm trực tiếp làm GV dạy lớp 4 và làm công tác quản lí trong
những năm gần đây, tôi nhận ra rằng, chất lượng môn Toán của học sinh lớp 4
bao giờ cũng thấp hơn các khối lớp khác. Cũng đối tượng học sinh đó, ở lớp 2,3,
tỉ lệ học sinh hoàn thành trở lên khá cao, rất ít học sinh chưa hoàn thành. Nhưng
khi lên lớp 4, đặc biệt là kết quả cuổi học kì thì tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành
môn học tăng lên.
Với hơn hai năm học thực hiện thông tư 30 và thông tư 22 sửa đổi bổ
sung của BGD ngày 22/9/2016 với mục đích giúp giáo viên điều chỉnh, đổi mới
phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động dạy học, .... coi trọng việc động viên,
khuyến khích sự cố gắng trong học tập, rèn luyện của học sinh . Bên cạnh đó,
việc thực hiện TT30, TT22 còn giúp học sinh tự học, tự điều chỉnh cách học;
giao tiếp, hợp tác; có hứng thú học tập và rèn luyện để tiến bộ; giúp cán bộ quản

lí giáo dục các cấp kịp thời chỉ đạo các hoạt động giáo dục, đổi mới phương
pháp dạy học, phương pháp đánh giá nhằm đạt hiệu quả giáo dục. Với tinh thần

2


của thông tư và trách nhiệm của người thầy bản thân tôi luôn trăn trở, suy nghĩ
làm sao để nâng cao chất lượng môn Toán cho học sinh Tiểu học nói chung và
học sinh lớp 4 nói riêng. Là một phó Hiệu trưởng phụ trách chuyên môn, tôi đã
tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân vấn đề và đưa ra những giải pháp góp phần
nâng cao chất lượng môn Toán lớp 4, đồng thời giảm tối thiểu học sinh chưa
hoàn thành môn Toán ở khối lớp này với đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp
chỉ đạo giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 4”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu SGK để nắm được nội dung chương trình trên cơ sở lí luận thực
tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Toán lớp 4.
- Từ đó tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân làm cho chất lượng hoàn thành
môn học của học sinh chưa cao.
- Đưa ra một số biện pháp khắc phục những hạn chế khi nắm kiến thức
chuẩn của học sinh khi học môn Toán .
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Đối tượng: Học sinh lớp 4 trường Tiểu học.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Phương pháp chính.
- Nghiên cứu lý luận
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp thực nghiệm.

- Tổng kết và trao đổi kinh nghiệm
2. Phương pháp bổ trợ:
- Phương pháp kiểm tra, đánh giá
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
- Phương pháp đàm thoại

3


PHẦN II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1: CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Dạy toán là dạy hoạt động toán học. Các bài tập Toán ở hầu hết các học phần là
một phương tiện rất có hiệu quả và không thể thay thế được trong việc giúp
người học nắm vững tri thức, phát triển năng lực tư duy, hình thành kĩ năng, kĩ
xảo ứng dụng toán học vào thực tiễn. Việc học toán góp phần quan trọng vào
việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính tốt của người lao
động mới. Khi làm toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực
vì các em cần phân biệt cái gì đã cho và cái gì cần tìm, để các em thiết lập mối
liên hệ giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Để từ đó các em suy
luận, nêu ra những phán đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính
cần thiết để giải quyết vấn đề đặt ra v.v... Hoạt động trí tuệ có trong việc giải
toán góp phần giáo dục cho các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận, làm việc
có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công
việc mình làm sau khi đã hoàn tất, sự độc lập suy nghĩ và sự sáng tạo ... giúp
các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Khi học Toán ở tiểu học, các em
thường gặp nhiều khó khăn khi lĩnh hội các kiến thức toán học, đặc biệt là học
sinh lớp 4, bởi : học sinh thường gặp nhiều khó khăn khi lĩnh hội các kiến thức
toán học, đặc biệt là học sinh lớp 4, bởi: Ở giai đoạn đầu Tiểu học (lớp 1,2,3)
môn Toán chủ yếu gồm các nội dung gần gũi với cuộc sống của trẻ, sử dụng các
kinh nghiệm đời sống của trẻ, nhưng sang giai đoạn cuối Tiểu học (lớp 4, 5) cấu

trúc chương trình môn Toán tập trung vào các nội dung có tính khái quát, tính hệ
thống cao hơn, khá trừu tượng hơn. Đòi hỏi học sinh phải nỗ lực rất nhiều mới
có thể lĩnh hội được kiến thức. Mặt khác, thực tiễn còn cho thấy việc lĩnh hội
kiến thức Toán học của học sinh ở lớp 4 chưa hiệu quả vì đa số học sinh lớp 4
nói riêng và học sinh cuối Tiểu học nói chung chưa thực sự hứng thú với môn
Toán. Hơn nữa việc học Toán chỉ gói gọn trong chương trình học trên lớp, trong
những bài toán cơ bản của sách giáo khoa khiến cho các em thấy môn học này
còn quá gò bó và khô khan,chưa khơi gợi hứng thú học tập và kích thích được
tính sáng tạo của các em.
2.2 THỰC TRẠNG VẪN ĐỀ NGHIÊN CỨU.
Qua quá trình quản lí và theo dõi chất lượng đại trà của toàn trường, tôi nhận
thấy rằng, cũng lứa, đối tượng học sinh đó nhưng chất lượng môn Toán lớp giảm
nhiều so với khi các em học lớp 2, lớp 3. Năm học 2013- 2014, kết quả bài kiểm
tra định kỳ các em ( 96 em) ở khối lớp 3 như sau:
Bài kiểm tra kỳ I( lần 2) khối lớp 3
9-10

7-8

5-6

<5

Bài kiểm tra kỳ II( lần 4) khối lớp 3
9-10

7-8

34 em 31 em
28 em

3em
36 em
29 em
=35,4 % =32,3 % = 29,1 % = 3,2 % =37,6 % =30,2%

5-6

<5

31 em
0 em =
=32,2 %
0 %

4


Năm học 2014 - 2015, tôi đã tổng hợp kết quả bài kiểm tra định kỳ chính
96 em đó lên khối 4 như sau:
Bài kiểm tra kỳ I
Bài kiểm tra kỳ II
9-10

7-8

31 em
26 em
=32,2 % =27 %

5- 6


<5

9-10

35 em
4 em
25 em
= 36,7 % = 4,1 % =26 %

7-8

5- 6

27 em 41 em
=28,1% =42,8 %

<5

3 em
=3,1 %

Qua kết quả đã tổng hợp môn Toán của 96 em học sinh này năm lớp 3 với
lớp 4, tôi nhận thấy rằng tỉ lệ học sinh đạt điểm từ 7 đến điểm 10 giảm xuống
còn học sinh đạt điểm 5- 6 và < 5 lại tăng lên. Cùng với số liệu gần nhất, đồng
thời xem xét lại hồ sơ và kết qủa học tập các năm học trước đó, tôi nhận thấy
rằng, hầu hết chất lượng môn Toán của chính các em lớp 4 đều bị giảm sút so
với kết quả so với cuối năm lớp 3. Tại sao lại như vây? Tôi suy nghĩ và tiếp tục
nghiên cứu, tìm hiều nguyên nhân đồng thời tìm biện pháp chỉ đạo phù hợp.
2.2.1. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG.

a. Về nội dung chương trình:
Khi bắt đầu học môn Toán lớp 4, học sinh bắt đầu chuyển sang giai đoạn
học tập sâu hơn so với các kiến thức và kĩ năng mà các em đã được học ở các
khối lớp 1,2,3. Các nội dung về số, phép tính, đo lường, yếu tố thống kê, giải
toán có lời văn... được dạy nhiều kiến thức mới. Về số học, chương trình đã bổ
sung, hoàn thiện, tổng kết , khái quát hóa ( dù còn đơn giản) về số tự nhiên và
dãy số tự nhiên. Nhân, chia với ( cho) số có nhiều chữ số, các công thức khái
quát hóa các tính chất của phép tính được hình thành. Nhiều đơn vị đo lường
mới, gắn với thực tế được dạy. Mạch kiến thức về giải toán có lời văn cơ bản
của Tiểu học như Tìm hai số khi biết Tổng và hiệu hoặc Tổng và tỉ số hay Hiệu
và tỉ số của hai số....được đưa vào chương trình. .... Mặc dù các kiến thức, kĩ
năng Toán 4 được dạy từ dễ đến khó, từ cụ thể đến trừu tượng, nhưng với nhiều
học sinh, nhất là những học sinh có tư duy và khả năng tiếp thu kém hơn là cả
một vấn đề không đơn giản. Học sinh lớp 4 phải học một khối lượng kiến thức
rộng và khó hơn nhiều so với những gì mà các em đã học ở lớp 3. Để tiếp thu và
vận dụng được khối lượng kiến thức như vậy, đối tương học sinh chưa hoàn
thành tiết học, môn học khá vất vả. Đây chính là một nguyên nhân rất quan
trọng dẫn tới nhiều học sinh lớp 4 có kết quả môn Toán đi xuống.
b. Về phía học sinh:
Đối với học sinh chưa hoàn thành môn Toán, qua nghiên cứu, tôi thấy các
đối tượng học sinh này phần lớn các em ghi nhớ chưa sâu về kiến thức dẫn đến
kĩ năng hoàn thành bài nhiều lần chưa hoàn thành. Qua tìm hiểu và báo cáo của
các giáo viên chủ nhiệm, có khá nhiều lí do dẫn đến học sinh có kết quả môn
Toán hạn chế như: Kiến thức của lớp dưới các em lên lớp trên đã quên như :
quên bảng cửu chương, cộng trừ có nhớ còn chậm... dẫn đến kỹ năng thực hiên
phép chia khá vất vả). Khả năng tiếp thu kiến thức, năng lực tư duy yếu ; khả
năng phân tích tổng hợp, so sánh của một số em còn hạn chế, lười suy nghĩ,

5



chưa chú ý và tập trung vào bài giảng của giáo viên. Một số em thì học vẹt,
không có khả năng vận dụng kiến thức để thực hành tính, kĩ năng giải toán.
Đối tượng các em này thường không thực hiện được kĩ năng tính, nhất là
gặp rất nhiều khó khăn khi nhân ( chia ) với ( cho ) số có nhiều chữ số, hay lẫn
dạng và chưa phân được cách giải các dạng toán có lời văn mới được dạy trong
chương trình (Toán TBC, Toán về Tìm hai số khi biết Tổng và Hiệu , Tổng và tỉ
số, Hiệu và Tỉ số), vệc nhận dạng các hình hình học hay kĩ năng chuyển đổi các
đơn vị đo lường còn chậm...
c. Về phía giáo viên
Với 3GV/3 lớp , BGH đã chọn các đồng chí có trình độ trên chuẩn và đã đạt
giáo viên giỏi cấp huyện trở lên, các giáo viên được phân công dạy lớp 4 đa số
có kiến thức và kĩ năng sư phạm tương đối tốt. Tuy nhiên, về phía giáo viên, tôi
thấy còn một số hạn chế như sau:
+ Do khối lượng kiến thức môn Toán lớp 4 khá nặng bởi nhiều dạng kiến thức
mới được đưa vào chương trình, nên việc hiểu sách và truyền đạt lại cho tất cả
học sinh nắm được kiến thức thì không phải giáo viên nào cũng làm được, đặc
biệt là hình thành cho các em chia cho số có nhiều chữ số, hay giúp các em phân
biệt được các dạng toán có lời văn và giải tốt các dạng toán đó.
+ Có giáo viên với đối tượng học sinh chưa hoàn thành đôi lúc chưa sát
sao và phối hợp với gia đình trong việc hướng dẫn ôn bài cho các em còn hạn
chế.
+ Giải pháp tâm lí cũng như sự động viên, khuyến khích, tuyên dương kịp
thời những học sinh có kết quả môn Toán chưa tốt nên tiết toán trở nên nặng nề
với các em..
d. Về phía phụ huynh học sinh.
Qua tìm hiểu, nghiên cứu, ngoài những học sinh còn chưa hoàn thành
môn Toán lớp 4 có 1 em khiếm khuyết về trí tuệ, còn đa số các em còn lại đều
thuộc vào những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, không quan tâm đến việc học
của con, hoặc những gia đình quan tâm thì bố mẹ lại không có kiến thức để giúp

hoặc hỗ trợ con trong việc học ở nhà. Những phụ huynh có kiến thức muốn giúp
đỡ con lại không nắm được phương pháp giải Toán Tiểu học. Chính vì vậy, có
nâng bậc được học sinh chưa hoàn thành phụ thuộc hầu như hoàn toàn vào cô
giáo dạy trên lớp.
Từ thực trạng và nguyên nhân như vậy, Tôi đã nghiên cứu và thực hiện các
giải pháp chỉ đạo của mình trong hai năm học 2015 - 2016, 2016 - 2107 để nâng
cao chất lượng đại trà nói chung, giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành ở khối lớp 4
như sau:
2.3 CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Thứ nhất: Dựa vào kết quả bàn giao chất lượng cuối năm của GVCN lớp
dưới với GVCN lớp trên,chỉ đạo GVCN phân loại đối tượng học sinh.
Dựa vào đánh giá của GV lớp dưới và kết quả kiểm tra chất lượng cuối
năm. Ngay từ đầu năm tôi chỉ đạo cho giáo viên trong trường nói chung và khối
4 nói riêng phân loại và tìm hiểu về hoàn cảnh những học sinh chưa hoàn thành,

6


lập danh sách các đối tượng cần giúp đỡ vì đầu năm lớp 4 mà chất lượng môn
Toán chưa tốt sẽ rất khó khăn cho cả một giai đoạn học tập sau đó.
Thứ hai: Gợi nhu cầu nhận thức ham tìm hiểu, khám phá kiến thức Toán cho
học sinh:
Nhà tâm lí học Pôlya nói: “… Con người chỉ tư duy tích cực khi có nhu
cầu. Hoạt động nhận thức chỉ có kết quả cao khi chủ thể ham thích, tự giác và
tích cực”.
(Pôlya, Tâm lý học, Tập II, Tr 128)
Do đó trong dạy học môn toán cần khéo léo sử dụng các phương pháp
thích hợp có tác dụng khêu gợi và kích thích sự chú ý, tích cực hoá hoạt động tư
duy của học sinh, làm cho học sinh nhận thức được đầy đủ ý nghĩa thực tiễn của
giờ đang học. Đồng thời xây dựng niềm tin vào khả năng cho học sinh, làm cho

học sinh cảm thấy rằng nếu mình tập trung, chịu khó học tập thì sẽ thu lượm
được những kết quả tốt đẹp có ích cho bản thân, vừa lòng thầy cô, cha mẹ. Đặc
thù của việc học môn toán đòi hỏi có các đức tính cần cù, chịu khó, tỉ mỉ, nhẫn
nại, thẩm mĩ,… nhưng học sinh tiểu học do tâm lý lứa tuổi thường hay phân tán
sự tập trung, chóng chán. Hoạt động gợi nhu cầu nhận thức, gây hứng thú môn
học có thể được sử dụng linh hoạt trong quá trình giảng dạy. Không nhất thiết,
đơn thuần chỉ sử dụng ngay đầu tiết dạy.
Thứ ba: Cá biệt hoá từng đối tượng học sinh cần giúp đỡ :
Nhận thức là hoạt động trí tuệ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà hình
thức thể hiện của nó là khả năng tiếp thu. Khả năng tiếp thu lại phụ thuộc vào
nhiều yếu tố môi trường. Xây dựng môi trường riêng cho mỗi cá nhân trong giờ
học có vai trò quan trọng trong việc giúp các em lĩnh hội các kiến thức bài học.
Ta đã biết học là hoạt động đơn phức của hoạt động trí óc. Do đó giáo viên cần
nắm thật vững, thật cụ thể lực học của từng cá nhân trong tập thể lớp để từ đó
xây dựng môi trường riêng, cách hướng dẫn riêng cho cá nhân trong hoạt động
nhận thức tiếp thu bài.
Ví dụ: + Học sinh K có thị lực yếu, cần bố trí vị trí ngồi hợp lý trong lớp để em
nhìn rõ thuận tiện cho quá trình học tập.
+ Học sinh S ham chơi, khả năng tiếp thu chậm thì cần bố trí chỗ ngồi
gần bảng gần bàn giáo viên ở dãy trong để giáo viên thuận lợi hơn trong việc
kèm cặp, giúp đỡ.
Bên cạnh đó giáo viên phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi phụ nhiều hơn, chi
tiết hơn để gợi ý hướng dẫn các em từng bước khi thực hiện để hoàn thành bài
tập nên những em trong diện được chú ý đặc biệt cần được sắp xếp chỗ ngồi
thuận lợi phù hợp cho cả thầy và trò..
Thứ tư: Nâng cao ý thức trách nhiệm cho giáo viên trong việc nâng bậc học
sinh chưa hoàn thành môn học nói chung và môn Toán 4 nói riêng.
Việc bồi dưỡng học sinh có năng khiếu môn học hay giúp đỡ học sinh
chưa hoàn thành là việc làm thường xuyên của mỗi giáo viên trong trường song
việc bồi dưỡng học sinh năng khiếu nhất là môn Toán lại được giáo viên và gia

đình quan tâm hơn. Nhận thấy được điều đó, trong nhiều năm học gần đây, BGH

7


nhà trường đã sát sao hơn trong việc nâng cao ý thức trách nhiệm của mình
trong việc nâng cao chất lượng đại trà nói chung và nâng bậc học sinh chưa hoàn
thành nói riêng. Các khối lớp đều có kế hoạch giúp đỡ, theo dõi nâng bậc học
sinh chưa hoàn thành. Riêng với các giáo viên trực tiếp dạy khối 4, tôi đã gặp
gỡ, trao đổi cùng phân tích nguyên nhân dẫn đến số lượng học sinh chưa hoàn
thành nhiều hơn các khối lớp khác, giúp GVCN thấy được tầm quan trọng của
chương trình Toán 4 với cả bậc học cũng như trong suốt quá trình học tập của
các em sau này. Từ đó, các giáo viên dạy khối 4 thấy rõ được vai trò của mình
trong việc nâng bậc học sinh chưa hoàn thành. Bên cạnh đó, các giáo viên khối 4
cũng nhận thức được rằng, với những học sinh có kết quả môn Toán chưa tốt
dẫn đến chưa hoàn thành môn học, việc nóng vội sẽ không đem lại kết quả, các
em chậm không chỉ ở kiến thức mà cả kỹ năng rất cần đến sự nhiệt tình, tận tụy
hết lòng với học trò hay sự động viên, khen ngợi, khuyến khích của các cô dù là
những tiến bộ rất nhỏ.
Thứ năm: Định hướng xây dựng bài tâp, hệ thống câu hỏi phụ với các dạng bài
tập cho học sinh chưa hoàn thành.
Một việc làm rất quan trọng để giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành
môn Toán lớp 4 là xây dựng hệ thống câu hỏi gợi mở các dạng bài
tập cho các em rất cần được giáo viên quan tâm chú ý. Trong quá
trình chỉ đạo, tôi đã yêu cầu giáo viên dạy khối 4 quan tâm và rà soát
các dạng bài tập cần định hướng , gợi mở giúp các các em phải hoàn
thành trong quas trình soạn bài trước khi lên lớp:
5.1. Dạng bài tập bù thêm kiến thức, kĩ năng còn thiếu hụt ở các em.
Trong chương trình môn Toán lớp 4, càng về sau, chương trình càng
nặng về kiến thức và kĩ năng. Với những học sinh chưa hoàn thành về

môn Toán, đa số các em quên kiến thức ở lớp dưới . Vì vậy giáo viên
cần quan tâm, phát hiện , phân loại những kiến thức đã mất của các
em. Có học sinh chưa thuộc bảng cửu chương, nhân (chia) chưa
thành thạo với (cho) số có một chữ số, cũng có học sinh kĩ năng trừ
nhẩm chưa tốt, hay có em hay mắc lỗi về giải toán có lời văn, nhất là
bài toán có nhiều lời giải....
Phát hiện những thiếu hụt kiến thức đó, giáo viên tập trung xây dựng
những bài tập phù hợp để cho các em luyện tập thêm trong các buổi
tăng. Các bài tập này cần thiết cho học sinh vì vậy phải kịp thời,
đúng thời điểm và chủ yếu trong thời gian đầu năm học.
Trước khi dạy cho các em kĩ năng nhân (chia) với ( cho ) số có hai, ba
chữ số thì giáo viên cần xem trong lớp những em nào còn chưa thuộc
bảng cửu chương, chưa nhân ( chia ) thành thạo với ( cho ) số có một
chữ số hay chưa trừ nhẩm thành thạo thì cần có bài tập để lấp những
lỗ hổng kiến thức này. Vì vậy với những em chưa hoàn thành giáo
viên chuẩn bị thêm một số bài nhằm ôn lại kiến thức cũ của lớp dưới :
Ví dụ1 :
Bài 1: Tính nhẩm:

8


8 × 8 = ............
6 × 8 = ............
54 : 9 = ...............
56 : 7 = ............
42 : 7 = ...........
64 : 8 = ................
Bài 2: Đặt tính rồi tính
653 + 46

325 - 36
Bài 3: Đặt tính rồi tính:
123 × 5
762 : 6
Để thực hiện tốt kĩ năng tính ở chương trình Toán 4, học sinh cần
phải làm được các bài tập trên, bởi nếu không thuộc bảng cửu
chương, không trừ nhẩm được hay chưa có kĩ năng nhân ( chia ) với (
cho) số có một chữ số thì hậu quả kéo theo là các em sẽ không thể
nhân (chia) với ( cho ) số có hai, ba chữ số. Hay trước khi dạy các em
các dạng toán có lời văn, cần cho các em làm lại một số dạng toán có
lời văn đã học ở các lớp dưới, để học lại cách phân tích đề bài, cách
tóm tắt, nhớ lại cách giải, rèn kĩ năng tư duy với những bài toán đơn
giản, từ đó bắt vào những dạng Toán phức tạp hơn....
Trong những tiết học đồng loạt, việc luyện tập được thực hiện theo trình
độ chung, nhiều khi không phù hợp với khả năng học sinh chưa hoàn thành. Vì
vậy khi làm việc riêng với nhóm học sinh có kết quả học tập chưa tốt môn học
này, cần dành thời gian để các em tăng cường luyện tập vừa sức mình. Riêng đối
với môn Toán của toàn bậc học nói chung và môn Toán lớp 4 nói riêng, ngoài
yêu cầu cần đạt về kiến thức kĩ năng, còn yêu cầu học sinh phải hoàn thiện các
bài tập cụ thể trong mỗi tiết học. Mặc dù chương trình đã giảm tải để giảm áp
lực cho học sinh, để phù hợp với thời lượng một tiết học. Tuy nhiên, với học
sinh gặp khó khăn trong môn Toán lớp 4, số lượng bài bài đó vẫn còn rất nặng,
và nhiều bài, các em còn chưa thể giải quyết ngay được sau khi giáo viên giảng
xong bài mới. Để giải quyết những vướng mắc này, giáo viên cần chủ động,
nghiên cứu từng bài tập để định hướng, giúp đỡ các em từng bước phụ sao cho
các em hoàn thành được bài tập.
Ví dụ 2: Ở tiết Chia một tích cho một sô ( trang 79), học sinh phải thực hiện 3
bài tập, trong đó có bài tập sau:
Tính bằng cách thuận tiện nhất: (25 x 36) : 9 .
Với dạng toán này, học sinh phải áp dụng những tính chất đã học, đồng

thời cần quan sát, linh hoạt trong việc tìm thừa số chia hết cho số chia. Những
học sinh có tư duy tốt, các em sẽ làm rất nhanh dạng này. Nhưng với học sinh
chưa hoàn thành, học sinh sẽ vận dụng cách làm đơn thuần là: nhân hai thừa số
với nhau được kết quả chia cho số chia. Vì vậy giáo viên các em hoàn thành
được bài tập trên sự định hướng ban đầu của giáo viên như sau:
+ Yêu cầu học sinh nêu lại ghi nhớ khi chia một tích hai thừa số cho một số ta làm
thế nào?
+ Giúp học sinh nhận diện thừa số nào chia hết được cho 9.
+ HS lúc này sẽ làm hiểu và làm được :
(25 x 36) : 9 = 25 x (36 : 9) = 25 x 4 = 100

9


* Khi học về phép cộng phân số có vận dụng tính chất kết hợp vào cách tính
thuận tiện của bài 4 trang 132 phần luyện tập.
Bài 4: Tính bằng cách thuận tiện:
12
19
8
+
+
17
17
17
12
8
19
= (
+

)+
17 17
17
20
19
20 + 19
39
=
+
=
=
17
17
17
17

a,

Với học sinh chưa hoàn thành bước đầu còn khó khăn. Giáo viên cần giúp các
em biết khai thác và nhận diện để tìm cách làm nhanh nhất.
+ HS nhớ và nêu được đây là phép cộng các phân số cùng mẫu số.
+ Giúp học sinh nhớ được cách cộng các phân số cùng mẫu số.
+ GV định hướng giúp các em tìm được cách chọn kết hợp cộng hai phân số nào
với nhau để thực hiện nhanh nhất. Qua từng bước nhỏ như vậy các em sẽ nhớ
lâu và từng bước; làm tốt các bài tập tương tự.
* Hay như sau khi học xong cách thực hiện giải bài toán tìm hai số khi bết tổng
và tỉ số của hai số đó, theo yêu cầu, học sinh phải hoàn thành bài tập sau:
Bài 1: ( Trang 148) Tổng của hai số là 333, Tỉ số của hai số là

2

. Tìm hai số đó.
7

Đối với đa số học sinh, chỉ cần dựa vào bài giảng của giáo viên các em có
thể hoàn thành ngay được bài giải. Song thực tế, vì đây là bài thực hành đâu
tiên, nên để học sinh chưa hoàn thành hiểu rõ bản chất và giải luôn được các bài
tập này là việc làm rất khó khăn. Chính vì vậy, để giúp các em hoàn thành được,
giáo viên cần biến đổi thành các bài tập phù hợp vào phiếu như sau:
Bài 1: Tổng của hai số là 333, Tỉ số của hai số là

2
. Tìm hai số đó.
7

Hãy điền vào chỗ trống để hoàn thiện bài giải:
?
Bài giải
Ta có sơ đồ: Số bé:
Số lớn:

?
.......

Tổng số phần bằng nhau là:
..................................................
.................................................
.................................................
..................................................
.................................................
................................................

Những bài tập thực hành đầu tiên, qua các dạng bài tập cụ thể, dưới sự
hướng dẫn thêm của giáo viên, học sinh chưa hoàn thành sẽ dần dần hình thành
được kĩ năng giải toán.

10


Để làm được công việc này, đòi hỏi giáo viên phải thực sự đầu tư về thời
gian, trí tuệ, phải thực sự mong muốn học sinh của mình ngày càng tiến
bộ. Đối với học sinh yếu kém, giáo viên nên coi trọng tính vững chắc của
kiến thức, kĩ năng hơn là chạy theo mục tiêu đề cao, mở rộng kiến thức.
Giáo viên cần dành thời gian để các em thực hành các bài tập vừa sức.
Đối với các tiết ôn luyện ở buổi 2, giáo viên có thể đưa hệ thống các bài
tập nhưng chia bài theo nhóm học sinh, chẳng hạn, nhóm chưa hoàn thành
làm bài 1, bài 2, nhóm hoàn thành làm bài 2, 3 và nhóm hoàn thành Tốt
làm bài 3, 4. Như vậy tất cả các học sinh trong trong đều có bài tập vừa
sức, tạo nên sự hứng thú cho học sinh.
5.2. Xây dựng các bài tập để phân biệt các kiến thức, kĩ năng dễ lẫn.
Học sinh Tiểu học, nhanh nhớ nhưng cũng rất dễ quên. Với học sinh chưa
hoàn thành lại càng nhanh quên. Trong chương trình Toán lớp 4, có một
số kiến thức mà học sinh rất dễ lẫn, như chia một tích cho một số hay chia
một tổng cho một số, hay các em hay lẫn lộn giữa các các dạng toán có lời
văn (Toán về tìm hai số khi biết Tổng và Hiệu, Tổng và tỉ số, Hiệu và Tỉ
số ). Sau mỗi dạng Toán, các em làm có thể đã thành thạo, nhưng sau một
thời gian lại quên dạng và quên mất cách làm. Chính vì vậy, ở các tiết ôn
tập chung, giáo viên cần xây dựng các bài tập sao cho có thể phân biệt
nhiều dạng bài khác nhau để học sinh linh hoạt hơn trong việc xã định
dạng toán, tranh lẫn dạng này với dạng khác. Từ các bài tập đó các em
nhìn ra điểm chung, riêng của từng kiến thức, kĩ năng để ghi nhớ.
* Để phân biệt chia một tích cho một số và chia một tổng cho một số. Với hai kĩ

năng này, học sinh được học chia một tổng cho một số trước, với cách
tính được hướng dẫn như sau: Khi chia một tổng cho một số, nếu các số
hạng của tổng chia hết cho số chia thì ta có thể chia từng số hạng cho số
chia, rồi cộng các kết quả tìm được với nhau.
Ví dụ : Tính: ( 15 + 35 ) : 5
Ngoài cách tính thông thường là trong ngoặc trước, học sinh thực hiện cách thứ
hai như sau:
(15 + 35 ) : 5 = 15 : 5 + 35 : 5 = 3 + 7 = 10
Nhưng đến khi học bài Chia một tích cho một số, nếu học sinh gặp dạng toán :
Tính theo hai cách : ( 15 × 35 ) : 5 thì không chỉ học sinh chưa hoàn thành đã làm
cách thứ hai như sau:
( 15 × 35 ) : 5 = 15 : 5 × 35 : 5 = 3 × 7 = 35 ( sai)
Như vậy, học sinh đã nhầm lẫn hai kiến thức này với nhau, áp dụng sai
kiến thức này cho kiến thức kia. Chính vì vậy, giáo viên cần linh hoạt,
ngoài ôn tập riêng mỗi dạng, giáo viên còn nên ra thêm hai dạng này cùng
một lúc để các em nhận biết, phân biệt rõ hơn hai dạng kiến thức này. Để
giải quyết việc lẫn dạng ba dạng toán quan trọng của chương trình Toán 4
đó Tìm hai số khi biết Tổng và Hiệu, Tổng và tỉ số, Hiệu và Tỉ số, giáo
viên cũng nên đưa ra cả ba dạng bài trong một tiết học (ở các tiết ôn tập
chung, buổi 2). Yêu cầu các em đọc kĩ từng bài, phân biệt từng dạng rồi
mới cho các em giải.

11


5.3. Vận dụng linh hoạt các kiến thức, kĩ năng trong chương trình để
học sinh chưa hoàn thành đạt được yêu cầu tối thiểu.
Trong chương trình Toán 4, các mạch kiến thức thức được mở rộng dần và
ngày càng nâng cao về độ khó. Chính vì vậy, đối với những học sinh chưa
hoàn thành, rất cần sự linh hoạt của giáo viên khi hình thành kiến thức và

kĩ năng cho các em nhất là khi dạy dạng toán có lời văn chính là kết hợp
kiến thức để hoàn thành bài giải vì vậy yêu cầu giáo viên cần quan tâm,
hướng dẫn ký từng bước từ khai thác dữ kiện bài toán đến nắm dạng toán
được học để vận dụng như Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó,
định hướng của SGK, các em thực hiện theo công thức tìm số lớn hoặc số
bé.
Số lớn = ( Tổng + Hiệu) : 2
Số bé = ( Tổng - Hiệu ) : 2.
Ví dụ 1: Tuổi bố và tuổi con công lại được 58 tuổi. Bố hơn con 38 tuổi. Hỏi bố
bao nhiêu tuổi, con bao nhiều tuổi? ((Bài tập 1. Trang 47- Toán lớp 4)
Đối với học sinh khá, giỏi, các em có thể làm ngay ( theo công thức)
Bài giải
Số tuổi của con là: (58 -38) : 2 = 10 ( tuổi)
Số tuổi của bố là: 58 - 10 = 48 ( tuổi )
Đáp số : Con: 10 tuổi
Bố: 48 tuổi
Song với học sinh chưa hoàn thành giáo viên cần giúp các em kỹ từng bước:
Bước 1: Học sinh đọc kĩ để toán và trả lời:
- Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì?
- Để tính được tuổi bố và tuổi con ta dựa vào dữ kiện nào của bài toán ?
Bước 2: Tìm các bước giải của bài toán:
Ngoài việc cho các em quan sát trực tiếp trên sơ đồ giáo viên hướng dẫn giúp
các em làm thêm bước " Tìm hai lần số bé " hoặc "hai lần số lớn".
Cụ thể như sau:
? tuổi
Tóm tắt:
Tuổi con:
38 tuổi
Tuổi bố:
58 tuổi.

...? tuổi
Bài giải
Hai lần tuổi con là: 58 - 38 = 20 ( tuổi)
Số tuổi của con là: 20: 2 = 10 ( tuổi)
Số tuổi của bố là: 58 - 10 = 48 ( tuổi )
Đáp số : Con: 10 tuổi
Bố: 48 tuổi
( Hoặc hs có thể tính 2 lần tuổi bố trước )
Như vậy, so với cách thông thường, ta đã thêm bước giải ( Tính hai lần số
bé hoặc 2 lần số lớn ) để học sinh chưa hoàn thành hình dung rõ ràng từng

12


bước giải. Đến khi các em thành thạo, hiểu vấn đề thì giáo viên mới cho
học sinh làm gọn lại như cách của các bạn học sinh khác.
Với mỗi đối tượng học sinh, giáo viên có những định hướng khác nhau
khi làm bài tập. Nhất là với học sinh chưa hoàn thành, cần chọn hướng
tìm cách giải mà các em dễ hiểu nhất ( dù cách giải có hơi dài dòng), để
các em có thể giải quyết được các bài tập theo yêu cầu của tiết học.
Ví dụ 2: Một mảnh đất hình chữ nhật có tổng độ dài hai cạnh liên tiếp bằng
307m, chiều dài hơn chiều rộng 97m.
a,Tính chu vi mảnh đất đó?
b, Tính diện tích mảnh đất đó? (Bài tập 3 trang 85 Toán lớp 4).
Với dạng này cần hướng dẫn học sinh từng bước như sau:
Bước 1: Học sinh đọc kĩ để toán và trả lời:
- Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì?
- Tính được chu vi và diện tích mảnh đất hình chữ nhật đó ta cần phải biết điều
kiện nào?
Bước 2: Tìm tòi cách giải của bài toán:

- Căn cứ vào dạng toán chúng ta vận dụng cách tóm tắt nào? (ngôn ngữ).
Yêu cầu HS tóm tắt được bài toán như sau:
Tóm tắt:
Dài và rộng : 307m
Dài hơn rộng : 97m
Chu vi
: ....m ?
Diện tích
: ... m2?
* Ta có thể dùng phương pháp phân tích để hướng dẫn học sinh suy luận như
sau:
- Bài tập yêu cầu chúng ta tính gì? (Tính chu vi và diện tích của mảnh đất).
- Để tính được chu vi và diện tích mảnh đất hình chữ nhật đó ta cần phải biết
được gì?
(Biết được chiều rộng và chiều dài của mảnh đất)
- Bài toán cho biết gì về các cạnh của mảnh đất?
(Cho biết tổng độ dài hai cạnh liên tiếp bằng 307m, chiều dài hơn chiều rộng
là 97m.)
- Em hiểu thế nào là tổng độ dài hai cạnh liên tiếp?
(Là tổng của chiều dài và chiều rộng).
- GV vẽ lên bảng một hình chữ nhật và giảng về tổng hai cạnh liên tiếp chính là
tổng của một cạnh chiều dài và một cạnh chiều rộng.
- Ta có thể tính chiều dài và chiều rộng của mảnh đất hình chữ nhật đó không?
( học sinh suy nghĩ trả lời)
- Tính bằng cách nào? (Có thể áp dụng cách tìm hai số khi biết tổng và hiệu của
hai số đó để tính chiều dài và chiều rộng của mảnh đất).
Quá trình phân tích trên GV lần lượt hướng dẫn học sinh lập sơ đồ ghi vắn tắt
cách giải như sau:

13



Diện tích hình chữ nhật
=
chiều dài
× chiều rộng

Chu vi hình chữ nhật
=
(chiều dài + chiều rộng)
×
2

||
||
Cạnh
=
307
(307 - 97) : 2
Sau khi học sinh đã biết cách phân tích bài toán trước lúc giải một bài toán có
lời văn giáo viên yêu cầu mỗi học sinh tự lập sơ đồ cách giải vào giấy nháp rồi
giải bài toán.
Bước 3: Hướng dẫn thực hiện cách giải bài toán:
Hướng dẫn học sinh nhìn sơ đồ để trình bày hoàn chỉnh bài giải: Tìm đủ điều
kiện bài toán rồi mới tìm yêu cầu)
Bài giải:
a, Chiều rộng của mảnh đất là:
(307 – 97) : 2 = 105 (m)
Chiều dài của mảnh đất là:
307 – 105 = 202 (m)

Chu vi mảnh đất hình chữ nhật là:
(202+ 105) × 2 = 614(m)
b, Diện tích mảnh đất hình chữ nhật là:
202 × 105 = 21210 (m2)
Đáp số: a, 614 m;
b, 21210m2.
Bước 4: Kiểm tra kết quả của bài toán:
Giáo viên yêu cầu học sinh tự kiểm tra lại kết quả của bài giải xem đã đúng
hay chưa.
Thứ sáu: Đổi mới phương pháp dạy của Thầy, phương pháp học của Trò.
6.1. Đổi mới phương pháp dạy của giáo viên: Lấy học sinh làm trung
tâm, phát huy tính tự giác, tích cực của học sinh...là quan điểm của việc
đổi mới phương pháp dạy học mà lâu nay chúng ta vẫn làm. Nói riêng với
học sinh chưa hoàn thành - đối tượng học sinh khiến cho những người
quản lí giáo dục, những giáo viên tâm huyết với nghề luôn trăn trở - thì
đổi mới phương pháp dạy học lại quan trọng hơn bao giờ hết.
Với đối tượng học sinh này, nhiều em có thiếu tự tin, không mạnh dạn
phát biểu trước lớp, không dám thể hiện mình. Chính vì vậy, giáo viên cần
quan tâm, dành nhiều thời gian cho các em hơn. Trong các hình thành
kiến thức mới, cần có những câu hỏi, cách gợi ý phù hợp để học sinh chưa
hoàn thành có thể trả lời được tạo điều kiện cho các em được thể hiện
mình. Nhất là với đối tượng học sinh có tư duy kém, giáo viên cần sử
dụng đồ dùng dạy học nhiều hơn, đi từ cụ thể đến trừu tượng. Những tiết
luyện tập thực hành, giáo viên chủ động giúp đỡ học sinh qua hoạt động
cá thể hóa, qua việc thiết kế các bài tập vừa sức. Để giúp các em chưa
hoàn thành nâng bậc quả là một điều khó . Vì vậy rất cần sự kiên trì, vị

14



tha và độ lương nhất là sự bình tĩnh mỗi thầy cô giáo đứng trên bục giảng.
Với đa số học sinh, chỉ cần giảng bài mới, quan sát thầy cô thực
hiện là các em có thể tự độc lập làm bài. Song đối với học sinh này, mất
nhiều thời gian hơn thế. Qua nghiên cứu, tham khảo, rút kinh nghiệm từ
chính quá trình dạy học của mình trước kia, tôi đã trao đổi với giáo viên
dạy khối 4 về các bước, các giai đoạn để một học sinh chưa hoàn thành
nắm bắt dược kiến thức và hình thành các kĩ năng cần phải thực hiện , đó
là:
- Giai đoạn 1: Lắng nghe, quan sát, tiếp thu kiến thức: Đây là giai đoạn quan
trọng, qua ví dụ cụ thể, học sinh rút ra cách tính, cách giải chung. Với học
sinh chưa hoàn thành, việc lắng nghe, quan sát một lần chưa đủ. Các kiến
thức cần chốt, cần hình thành ở tiết học nên cho học sinh chưa hoàn thành
nhắc lại ( thậm chí nhiều lần) để đánh thức ghi nhớ, để áp dụng vào thực
hành luyện tập.
- Giai đoạn 2: Làm theo hướng dẫn của giáo viên hoặc của bạn: Phần này.
học sinh bước đầu vận dụng hiểu biết của mình vào thực hiện tính hoặc
giải toán. Đối với học sinh chưa hoàn thành, các em thường vẫn còn lúng
túng, do học sinh chưa nhớ, chưa hiểu sâu sắc. Chính vì vậy, rất cần sự
tiếp sức của giáo viên hay sự giúp đỡ của bạn cùng nhóm. Hướng dẫn ở
đây không phải là làm thay, mà là gợi ý, định hướng để các em có thể tự
tin làm bài tập. Tùy theo dạng bài tập, sự nắm bắt kiến thức của học sinh
trong tiết học đó mà giáo viên có sự hỗ trợ phù hợp.
- Giai đoạn 3: Tự làm theo mẫu
Các bài tập làm theo mẫu ở Tiểu học nói chung và Môn Toán lớp 4 nói
riêng không phải ít. Những bài tập này, giáo viên tạm đứng ngoài cuộc để quan
sát học sinh độc lập thao tác. Học sinh nào hiểu bài thì có thể hoàn thành được
bài tập, học sinh nào chưa hiểu bài sẽ còn lúng túng. Thông qua giai đoạn này,
giáo viên có thể nắm bắt được việc học tập cũng như mức độ hiểu bài của cả lớp
và từng cá nhân, từ đó đề ra biện pháp thích hợp cho từng đối tượng.
- Giai đoạn 4: Độc lập làm bài tập.

Mục đích hướng đến sau cùng với tất cả học sinh đó là độc lập giải
quyết được các bài tập cần làm trong mỗi tiết học, trong các bài kiểm
tra. Đối với học sinh chưa hoàn thành, tự làm được các bài tập là một
thành công.
* Nắm được các giai đoạn trên, giáo viên sẽ không nóng vội và sốt ruột
khi học sinh của mình chưa thể giải ngay được những bài toán theo yêu
cầu ngay sau khi dạy bài mới. Đó chính là lí do vì sao cần phải dành nhiều
thời gian cho học sinh chưa hoàn thành. Giáo viên cũng cần nắm rõ học
sinh của mình đang ở giai đoạn nào, có thể với kiến thức, kĩ năng này, các
em đang ở giai đoạn làm theo mẫu, nhưng với nhóm bài tập khác, các em
đã đến giai đoạn độc lập làm bài, từ đó, giáo viên ra được các bài tập phù
hợp cho buổi hai. Giáo viên cũng nên đưa bài tập theo từng nhóm kiến

15


thức, tăng dần về độ khó để các em tiếp nhận dần nhưng có tính lô gic và
vững chắc.
Cũng là học sinh chưa hoàn thành, nhưng lí do chưa hoàn thành của mỗi
em mỗi khác. Chính vì vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên cũng cần có
cách ứng xử phù hợp:
- Những học sinh do trí tuệ, tư duy kém, ở các tiết học, các em chậm hiểu, khó
hoàn thiện các bài tập, không theo kịp các bạn trong lớp. Các đối tượng
này, giáo viên cần chú ý nhiều hơn, cho các em ngồi lên phía trên, cần sự
giúp đỡ của thầy, cô, bạn bè một cách thường xuyên để hoàn thiện những
bài tập cơ bản.
- Những học sinh chưa hoàn thành do lười học hay nói chuyện riêng, không tập
trung vào bài giảng, không chịu học bài, giáo viên cần gây hứng thú học
tập cho học sinh bằng việc tăng cường tổ chức các hoạt động nhóm, tổ
chức trò chơi ...

- Những học sinh chưa hoàn thành do gia đình không quan tâm, không có đủ
sách vở, đồ dùng học tập thì lại rất cần đến sự phối hợp giữa nhà trường
và gia đình nhiều hơn, sự hỗ trợ của nhà trường, của giáo viên tạo điều
kiện tốt nhất cho các em học tập.
6.2. Về đổi mới phương pháp học của học sinh.
Một trong những lí do dẫn đến nhiều học sinh hiệu quả học chưa cao là
phương pháp học chưa tốt, chưa khoa học. Với riêng môn Toán lớp 4, qua
tìm hiểu, với những đối tượng học sinh chưa hoàn thành, thường vấp ngay
từ những bước đầu tiên. Ví dụ khi thực hiện cộng , trừ số có nhiều chữ số,
các em đã sai ngay từ bước đặt tính. Hay thực hiện phép nhân, chia thì
ước lượng thương không đúng. Khi thực hành giải toán thì kĩ năng phân
biệt giữa các dạng toán ( Tìm hai số khi biết Tổng và Hiệu, Tổng và tỉ số,
Hiệu và Tỉ số), kĩ năng phân tích đề bài cũng chậm). Đa số học sinh chưa
hoàn thành thường không đọc kỹ yêu cầu cũng như các dữ kiện của bài
toán đã cho, vội vàng làm bài khi chưa xác định được bài toán cần tìm
gì... Số học sinh của đối tượng này lại không chăm học, thiếu ý chí..
Muốn các em tiến bộ, điều đầu tiên, giáo viên phải làm cho các em hứng
thú với môn học. Điều này tùy thuộc vào phương pháp và định hướng của
giáo viên ( như đã trình bày ở các mục trên). Tiếp đến là dạy cho các em
cách học như thế nào cho hiệu quả. Khi chỉ đạo họp tổ chuyên môn với
khối 4, bàn về việc nâng bậc học sinh , tôi đã chỉ đạo cho các giáo viên có
học sinh chưa hoàn thành môn Toán cần dạy cho các em cách học phù
hơp:
- Trước khi thực hành làm bài tập, các em cần nhớ được các bước thực hiện
phép tính, các bước giải từng dạng toán, các công thức tổng quát thể hiện
tính chất giao hoán, tính chất kết hợp...
- Khi thực hành, cần đọc kĩ yêu cầu, nhất là với toán có lời văn, phải phân biệt
được dạng toán, xác định cái gì đã cho, cái gì cần tìm.

16



- Tham gia tích cực vào các hoạt động nhóm, các trò chơi học tập; phần kiến
thức nào chưa hiểu mạnh dạn hỏi thầy, cô hoặc bạn.
6.3 Giáo viên phát động phong trào "Đôi bạn cùng tiến" để hỗ trợ nhau trong
học tập.
- Những học sinh hoàn thành Tốt trong lớp sẽ là những trợ thủ đắc lực cho cô
giáo giúp đỡ các bạn chưa hoàn thành tiến bộ. Chính vì vậy, tôi đã chỉ đạo
các khối lớp trong trường xây dựng, lập những "đôi bạn cùng tiến" mà
mỗi đôi ban, sẽ có một bạn học Tốt để kèm cặp, giúp đỡ một bạn chưa
hoàn thành. Các đôi bạn được chọn phải có tính hợp nhau, bạn học Tốt
hơn luôn có tinh thần giúp đỡ bạn. Với học sinh lớp 4, việc làm này có
hiệu quả thiết thực.
- Để làm tốt việc này, giáo viên cần giao nhiệm vụ cho học sinh hoàn thành Tốt
cùng chơi, cùng học với bạn để giúp bạn tiến bộ bằng cách nhắc bạn mang
đầy đủ sách vở nếu bạn hay quên, hay kiểm tra bảng cửu chương, các kiến
thức cần ghi nhớ ở tiết học trước trong 15 phút đầu giờ. Giúp bạn hiểu
bài, giảng cho bạn những bài bạn chưa hiểu ....Làm được điều này, giáo
viên sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn, vừa khích lệ được tinh thần giúp đỡ lẫn
nhau của các em học sinh, học sinh chưa hoàn thành đã cảm thấy tự tin
hơn khi hỏi bài của bạn hoặc thầy cô.
- Giáo viên cần nêu gương, khen thưởng những đôi bạn tiến bộ, làm tấm gương
trước lớp để các đôi bạn khác noi theo, giúp đỡ các nhóm gặp khó khăn
trong quá trình hợptác.
Thứ bảy: Khuyến khích, khen thưởng kịp thời sự cố gắng, tiến bộ
của học sinh chưa hoàn thành.
- Với Thông tư 30 và TT22 sửa đổi khen thưởng cuối năm học cho học sinh
hoàn thành Tốt về năng lực và phẩm chất, các bài kiểm tra định kỳ cuối
năm các môn học đạt điểm 9 trở lên; học sinh có thành tích vượt trội hay
tiến bộ vượt bậc về ít nhất một môn học hoặc ít nhất một năng lực, phẩm

chất được giáo viên giới thiệu và tập thể công nhận. Đổi mới của thông tư
đã khuyến khích, động viên các em luôn cố gắng học tâp. Đồng thời giúp
các thầy cô mạnh dạn , tự tin, nhiệt huyết hơn trong hành trình giúp các
em chưa hoàn thành khám phá, ghi nhớ tri thức môn Toán nói chung và
Toán lớp 4 nói riêng ngày một tiến bộ nâng bậc.
Thứ tám:Ban giám hiệu thực hiện nghiêm túc việc chỉ đạo, triển khai, kiểm
tra, đánh giá kết quả giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành.
- Đối với học sinh khối 4, là khối mà Ban giám hiêu nhà trường nhìn thấy rõ
chất lượng nói chung và chất lượng môn Toán nói riêng nên luôn giám sát
và quan tâm hơn.Tôi đã dự sinh hoạt chuyên môn cùng với khối, nắm số
lượng học sinh chưa hoàn thành, lập kế hoạch và định hướng cho giáo
viên về việc lập kế hoạch giúp đỡ, xây dựng các bài tập, hệ thống câu hỏi
tìm bước giải phù hợp với đối tượng học sinh này, các giải pháp tâm lí,
phương pháp dạy học phù hợp, việc xây dựng các đôi bạn cùng tiến ... để
giáo viên tiến hành thực hiện giúp đỡ học sinh một cách hiệu quả.

17


- Việc kiểm tra chất lượng học sinh chưa hoàn thành hàng tháng diễn ra thường
xuyên và nhiều hình thức: làm bài kiểm tra kiến thức; dự giờ quan sát các
họat động của các em trong các tiết học Toán. Nhà trường trường cũng
đánh giá sự tiến bộ của các em thông qua các bài kiểm tra định kì. Kết quả
kiểm tra cũng là sự phản hồi, đánh giá sự cố gắng của giáo viên trong
công tác giúp đỡ các em, góp phần hạn chế tối đa học sinh chưa hoàn
thành môn Toán lớp 4.
Thứ chín: Phối hợp với phụ huynh học sinh để cùng kèm cặp, giúp đỡ con
em.
- Sự phối hợp với phụ huynh học sinh trong tất cả các hoạt động của nhà trường
nói chung, giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành nói riêng là việc làm thường

xuyên và quan trọng của nhà trường. Để có sự phối hợp nhịp nhàng, có
hiệu quả giữa gia đình học sinh và nhà trường, BGH và giáo viên có học
sinh cần giúp đỡ ở môn Toán lớp 4 đã mờigặp riêng những phụ huynh này
để trao đổi kĩ về tình hình học tập của con em, cùng bàn thống nhất, tìm
cách phối hợp để giúp các em tiến bộ hơn. Cụ thể:
+ Phụ huynh có thể tự kiểm tra xem các em đã nhớ, thuộc bảng cửu chương
chưa ( vì với đối tượng học sinh này, các em rất dễ quên kiến thức đã
học), nếu chưa, kèm và hướng dẫn cho các em đọc lại, khi nào thuộc mới
thôi.
+ Thường xuyên xem sách vở của con, kiểm tra xem hôm nay con có hoàn thành
bài trên lớp không, cô giáo nhận xét con em mình thế nào để hỗ trợ con
những kiến thức, kĩ năng còn non kém... trong quá trình hướng dẫn cho
con tránh nôn nóng, mất bình tĩnh gây áp lực học cho con.
- Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên cung cấp các thông tin về tình hình học
tập, sai lầm và lỗi hay gặp của học sinh để phụ huynh phối hợp cùng uốn
nắn sửa chữa.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Cuối năm học, học sinh Tiểu học nói chung và học sinh khối 4 trường tôi
nói riêng được kiểm tra định kì cuối năm học. Kết quả điểm kiểm tra của
học sinh khối 3 lên khối 4 cuối năm học 2015 - 2016.
KẾT QUẢ ĐIỂM KIỂM TRA CUỐI NĂM MÔN TOÁN
Ghi
HS KHỐI 3 ( 101 em) HS KHỐI 3 LÊN KHỐI 4( 101 em) chú
Năm học 2014 - 2015
Năm học 2015- 2016
9-10
7-8
5-6
<5
9-10

7-8
5-6
<5
39em
31 em
31em
0
41 em
34 em 26em
0
= 38,8% =30,6%

= 30,6%

= 40,5%

=33,6% = 25,9%

Kết quả bài kiểm tra của học sinh khối 3 lên khối 4 cuối kỳ I : 2016 – 2017
KẾT QUẢ ĐIỂM KIỂM TRA CUỐI NĂM MÔN TOÁN
HS KHỐI 3 ( 95 em)
HS KHỐI 3 LÊN KHỐI 4( 95 em)
Năm học 2015 - 2016
Năm học 2016 - 2017

Ghi
chú

18



9 - 10

7-8

5-6

9-10

7-8

5-6

<5

<5
43em

25 em

27 em

45em

35em

15em

=45,2% =26,3% = 28,5% 0 = 47,3% =40,6% = 15,7% 0
Với gần hai năm cùng các giáo viên thực hiện các giải pháp trên, tôi thấy

học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 4 đã có nhiều tiến bộ. Tất nhiên,
không phải toàn bộ học sinh chưa hoàn thành đều được nâng bậc, nhưng
các em đã nhanh hơn, tự tin hơn các khóa học trước và một điều mừng đó
là chất lượng môn Toán đạt được ở lớp 3 khi lên lớp 4 đã được duy trì và
từng bước được phát huy nâng dần mức độ. Hơn thế nữa, giáo viên dạy
khối 4 cũng đã có một định hướng phù hợp để giúp học sinh chưa hoàn
thành môn Toán 4 nắm được kiến thức của chương trình, giúp các em
hoàn thành môn học một cách thuyết phục. Tôi thiết nghĩ, việc dạy học
nói chung và việc dạy đối tượng học sinh chưa hoàn thành nói riêng, cần
đến cái tâm của người làm thầy hơn bao giờ hết. Bản thân tôi, tuy không
trực tiếp đứng lớp, song tôi đã luôn đồng hành với các giáo viên trong nhà
trường trong các hoạt động dạy học, nhất là trong việc giúp đỡ học sinh
năng khiếu cũng như học sinh chưa hoàn thành môn học. Có thể, các giải
pháp mà tôi đưa ra chưa thực sự tối ưu, nhưng qua quá trình chỉ đạo và
triển khai, các giải pháp trên đã phần nào đã định hướng được cho giáo
viên hướng nâng bậc học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 4 và đã có
những kết quả bước đầu.

PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua quá trình giảng dạy, trao đổi kinh nghiệm, nghiên cứu lý luận và tìm
hiểu thực tiễn. Tôi đã đề xuất một số giải pháp phù hợp với đặc điểm nhận thức
của học sinh Tiểu học để giúp đỡ các em chưa hoàn thành môn toán lớp 4 đạt
hiệu quả môn học. Tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm cho chính bản thân
mình khi chỉ đạo, triển khai các biện pháp giúp học sinh chưa hoàn thành môn
Toán lớp 4, đó là:
+ Mỗi một môn học, mỗi một bài học, mỗi một tiết học đều có một sắc thái, một
đặc điểm riêng, đòi hỏi một phương pháp riêng phù hợp với nó. Vì vậy, ngoài
những phương pháp chung đã được sách in thành chương, thành mục, mỗi thầy
cô cần xây dựng cho mình một phương pháp dạy học riêng.

+ Phương pháp dạy học là “ nghệ thuật ” vì vậy giáo viên cần biết lựa chọn và
vận dụng kiến thức với phương pháp phù hợp, linh hoạt, sáng tạo để đạt được
mục đích dạy học. Cụ thể là phải biết lựa chọn, sắp xếp các hệ thống bài tập từ
dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Với mỗi dạng bài, giáo viên cần phải
hướng dẫn học sinh nhận thức - phân tích - xác định được các dạng toán, câu
hỏi để tìm ra dấu hiệu cơ bản. Sau đó tìm ra mối liên quan giữa các dữ kiện và
câu hỏi trong bài để tìm ra phương pháp làm bài ngắn gọn, dễ hiểu.

19


+ Làm nên thành công trong dạy học của thầy cô phương pháp không chỉ thay
đổi theo từng tiết học mà theo từng nhu cầu tiếp thu của học sinh. Mỗi học sinh
có một khả năng nhận thức khác nhau, mỗi một học sinh có một trình độ khác
nhau nên chúng ta cần phải dựa vào tình hình thực tế để điều chỉnh cách dạy làm
sao cho có hiệu quả nhất thì kết quả mới thể hiện đúng giá trị của nó.
+ Phân loại rõ từng đối tượng học sinh để có phương pháp dạy phù hợp.
+ Xây dựng được hệ thống bài tập phù hợp cho đối tượng học sinh chưa hoàn
thành.
+ Vận dụng linh hoạt các kiến thức, kĩ năng trong chương trình để học sinh chưa
hoàn thành đạt được yêu cầu tối thiểu.
+ Phát huy tốt phong trào " Đôi bạn cùng tiến" trong mỗi lớp.
+ Khuyến khích, khen thưởng từng tiến bộ nhỏ của học sinh chưa hoàn thành.
+ Phối hợp với phụ huynh học sinh để cùng kèm cặp, giúp đỡ con em hoàn
thành tốt môn học.
+ Ban giám hiệu trường phải phối hợp chặt chẽ với tổ chuyên môn và giáo viên
để lập kế hoạch chỉ đạo giúp đỡ học sinh đồng thời phải nắm vững nội dung
chương trình môn họcđể tổ chức, triển khai, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá kết quả
giúp đỡ học sinh gặp khó khăn trong môn học Toán.
2. Kiến nghị:

Để nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên, đồng thời nâng cao chất
lượng học tập của học sinh, giúp các em nắm vững phương pháp giải toán nói
chung và phương pháp giải toán hợp nói riêng, tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
Đối với giáo viên:
+ Người giáo viên phải tìm ra những phương pháp dạy tích cực, phù hợp với
năng lực của học sinh. Giáo viên không nên làm thay, nói thay cho học sinh.
+ Giáo viên phải phân loại được đối tượng học sinh trong lớp, đặc biệt quan tâm
đến học sinh chưa hoàn thành, phải làm cho mọi học sinh trong lớp đạt chuẩn
kiến thức, kĩ năng cơ bản đồng thời chú ý đến đối tượng học sinh thường hoàn
thành Tốt để các em không thấy nhàm chán vì bài học quá dễ. Giáo viên chỉ là
người hướng dẫn, giúp đỡ học sinh tự đi tìm kiến thức và lĩnh hội kiến thức đó
dưới những phương pháp tích cực nhất của mình, có như thế giờ học toán mới
đem lại hiệu quả như mong muốn.
Đối với lãnh đạo:
- Ban giám hiệu nhà trường nên tổ chức cho giáo viên được dự nhiều tiết dạy
Toán, Chuyên đề môn Toán ở những buổi thao giảng, sinh hoạt chuyên môn phát
huy hiệu quả việc học hỏi trao đổi kinh nghiệm trong giảng dạy trong đồng
nghiệp.
- Những sáng kiến kinh nghiệm được đánh giá cao ở các cấp nên được phổ biến,
áp dụng rộng rãi để phát huy tích cực về hiệu quả áp dụng thực tiễn. Qua đó
giúp thầy cô học tập vân dụng vào quá trình giảng dạy, từng bước nâng cao

20


chuyên môn nghiệp vụ cũng như phương pháp dạy học toán Tiểu học nói chung
và môn Toán lớp 4 nói riêng.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã thực hiện thành công chỉ đạo giáo
viên thực hiện trong quá trình giảng dạy môn Toán ở lớp 4. Tôi kính mong được
Hội đồng Khoa học các cấp đánh giá và góp ý để đề tài được hoàn chỉnh hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 25 tháng5 năm
2017

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết
Đỗ Đình Mậu
Lê Thị Tuyết

MỤC LỤC
PHẦN I : MỞ ĐẦU

Trang

1. Lí do chọn đề tài.

1

2. Mục đích nghiên cứu.

2

3. Đối tượng nghiên cứu

2


4. Phương pháp nghiên cứu

2

PHẦN II :
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

2.2 Thực trạng của vấn đề.

3

2.3. Các giải pháp thực hiện

5

2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

17

21


PHẦN III : KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận

18


2. Kiến nghị

19

TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
Tên tài liệu
1 Sách giáo khoa Toán 4
2 Thiết kế bài giảng Toán 4
3

Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 4.

4

Một số nguồn tin qua Internet

Tác giả
Đỗ Đình Hoan - Chủ biên
Nguyễn Tuấn - Chủ biên
Vũ Văn Dương, Ngô Thị
Thanh Hương,...

22


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP
LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI

TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả:
Lê Thị Tuyết
Chức vụ và đơn vị công tác:
Phó hiệu trưởng trường Tiểu học Xuân Bái.

TT
1.
2.
3.
4.

5.

6

Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp giúp HS luyện

Cấp đánh
Kết quả
Năm học
giá xếp loại đánh giá xếp
đánh giá
(Phòng, Sở, loại (A, B,
xếp loại
Tỉnh...)
hoặc C)
PGD huyện

C
2000-2001
Thọ Xuân

đọc đúng tiếng phổ thông
Một số kinh nghiệm giúp HS lớp 2 PGD huyện
Thọ Xuân
giải toán có lời văn
Một số kinh nghiệm giúp HS lớp 2 Sở GD&ĐT
Thanh Hóa
giải toán có lời văn
Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao PGD huyện
Thọ Xuân
chất lượng giáo dục đạo đức cho
HS Tiểu học
Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao PGD huyện
Thọ Xuân
chất lượng giờ dạy thông qua tiết
dự giờ giáo viên tiểu học.
Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao
chất lượng giờ dạy thông qua việc

Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

B

2005- 2006

B


2005- 2006

C

2010- 2011

B

2012- 2013

C

2012- 2013

23


7

dự giờ lên lớp.
Một số biện pháp chỉ đạo giáo
viên hướng dẫn học sinh lớp 2 giải

8

toán bằng sơ đồ đoạn thẳng.
Một số biện pháp chỉ đạo giúp đỡ
học sinh chưa hoàn thành môn


PGD huyện

C

2014 2015

A

2016- 2017

Thọ Xuân
PGD huyện
Thọ Xuân

toán lớp 4.

24



×