Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Giải pháp thúc đẩy tiêu thụ cà phê Việt Nam trên thị trường nội địa.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.59 KB, 45 trang )


Trêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
Khoa th¬ng m¹i vµ kinh tÕ quèc tÕ
  
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
KINH TẾ THƯƠNG MẠI
Đề tài:
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TIÊU THỤ CÀ PHÊ VIỆT NAM
TRÊN THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA
Giáo viên hướng dẫn : Th.S. Nguyễn Thanh Phong
Sinh viên thực hiện : Sầm Thị Ngân
MSSV : CQ493568
Lớp : Thương mại 49B
Khóa : 49
Hệ : Chính quy
HÀ NỘI, 12/2010
LỜI CAM ĐOAN
Sau thời gian tìm hiểu và nghiên cứu thực tế dựa trên những vấn đề lý
luận đã được giảng dạy trên ghế nhà trường, em đã hoàn thành đề án môn học
“Kinh tế Thương mại” với đề tài “Giải pháp thúc đẩy tiêu thụ cà phê Việt
Nam trên thị trường nội địa”
Em xin cam đoan đề án này là công trình nghiên cứu của riêng em dưới
sự hướng dẫn của Th.s. Nguyễn Thanh Phong trong suốt quá trình nghiên
cứu. Nếu có bất cứ sự sao chép nào từ các bài nghiên cứu khác em xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Hà nội, ngày 12 tháng 12 năm 2010
Sinh viên thực hiện

Sầm Thị Ngân
MỤC LỤC
Mở rộng kênh tiếp thị và tiêu thụ nội địa bằng cách phục vụ nhu cầu thưởng thức cà phê hòa


tan hay pha sẵn cũng đang là cách mà một số công ty cà phê đang lựa chọn. Ngoài "chuỗi"
quán cà phê Trung Nguyên, một loạt nhãn hiệu khác như Highland, Phúc Ban Mê, cà phê
Buôn Mê Thuột... lần lượt mở các cửa hiệu cà phê tại các đô thị lớn như TP HCM, Cần Thơ,
Quy Nhơn.... Một số nghiên cứu gần đây được Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra cho thấy
tiềm năng thị trường nội địa của Việt Nam có thể tiêu thụ tới 70.000 tấn/năm. Nghĩa là với
sản lượng cà phê hàng năm thu hoạch được 700.000 - 800.000 tấn thì lượng cà phê tiêu thụ
nội địa của Việt Nam ở mức xấp xỉ 10%. Trong khi đó theo Hiệp hội Cà phê thế giới, tiêu
dùng nội địa của cà phê Việt Nam hiện chỉ đạt gần 3,6%, thấp nhất trong số các nước sản
xuất cà phê. Mức chênh lệch này càng "khập khiễng" nếu so với sản lượng tiêu dùng cà phê
nội địa của các nước thành viên Hiệp hội Cà phê thế giới là 25,16%. .................................... 14
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Mở rộng kênh tiếp thị và tiêu thụ nội địa bằng cách phục vụ nhu cầu thưởng thức cà phê hòa
tan hay pha sẵn cũng đang là cách mà một số công ty cà phê đang lựa chọn. Ngoài "chuỗi"
quán cà phê Trung Nguyên, một loạt nhãn hiệu khác như Highland, Phúc Ban Mê, cà phê
Buôn Mê Thuột... lần lượt mở các cửa hiệu cà phê tại các đô thị lớn như TP HCM, Cần Thơ,
Quy Nhơn.... Một số nghiên cứu gần đây được Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra cho thấy
tiềm năng thị trường nội địa của Việt Nam có thể tiêu thụ tới 70.000 tấn/năm. Nghĩa là với
sản lượng cà phê hàng năm thu hoạch được 700.000 - 800.000 tấn thì lượng cà phê tiêu thụ
nội địa của Việt Nam ở mức xấp xỉ 10%. Trong khi đó theo Hiệp hội Cà phê thế giới, tiêu
dùng nội địa của cà phê Việt Nam hiện chỉ đạt gần 3,6%, thấp nhất trong số các nước sản
xuất cà phê. Mức chênh lệch này càng "khập khiễng" nếu so với sản lượng tiêu dùng cà phê
nội địa của các nước thành viên Hiệp hội Cà phê thế giới là 25,16%. .................................... 14

LỜI MỞ ĐẦU
Cây cà phê ở Việt Nam được thừa hưởng những điều kiện thuận lợi về
khí hậu đất đai đã không ngừng tăng nhanh về sản lượng, diện tích cũng như
chất lượng. Cà phê Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế của mình trên thị
trường, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến để tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu, góp phần thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước. Việc hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cho nước ta nhiều thuận

lợi và cơ hội lớn để phát triển, đồng thời cũng đặt ra những khó khăn và
thách thức không nhỏ. Qua hội nhập, chúng ta có thể mở rộng thị trường tiêu
thụ hàng hóa, thu hút vốn đầu tư, công nghệ hiện đại và kỹ năng quản lý tiên
tiến. Qua đó đẩy mạnh sản xuất, tạo thêm công ăn viêc làm, giải quyết các
vấn đề kinh tế xã hội và phát triển đất nước nói chung, người tiêu dùng trong
nước cũng có điệu kiện rộng rãi hơn trong sự lựa chọn sản phẩm, giá cả và
chất lượng phù hợp. Cà phê là một trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam đã đem lại lượng ngoại tệ lớn và có vị thế trên thị trường quốc
tế cũng như đem lại công ăn việc làm cho rất nhiều người lao động.
Tuy là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới chỉ sau Brazil nhưng
việc tiêu thụ nói riêng và sự phát triển của ngành hàng này nói chung vẫn
chưa ổn định, chịu ảnh hưởng lớn từ các biến đổi của thị trường, nhất là thị
trường xuất khẩu. Sự biến đổi không lường và khủng hoảng của thị trường
quốc tế đã gây nhiều khó khăn và thiệt hại cho các doanh nghiệp cà phê Việt
Nam. Vì thế để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững thì nhà nước và các
doanh nghiệp cần phải lấy nền tảng thị trường trong nước làm tiền đề. Nhà
nước cũng như rất nhiều doanh nghiệp đã chú trọng nhiều hơn tới việc phát
triển thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ ở trong nước trong thời gian qua. Nhưng
làm thế nào để có thể thúc đẩy tiêu thụ cà phê ở trong nước? là vấn đề đang
được đặt ra cho tất cả các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp và nhà nước. Công
1
việc này lại không hoàn toàn thuận lợi khi nhiều doanh nghiệp còn thiếu
thông tin về mức tiêu dùng và thị phần, hoặc không chắc chắn về thị hiếu của
người tiêu dùng Việt Nam, không rõ các nhóm khách hàng cần gì...
Đây là vấn đề mang tính chiến lược và cần được nghiên cứu sâu sắc để
có thể đưa ra những hướng đi, biện pháp giải quyết đúng đắn. Chính vì thế em
đã lựa chọn đề tài “Giải pháp thúc đẩy tiêu thụ cà phê Việt Nam trên thị
trường nội địa” để viết đề án môn học Kinh tế Thương mại. Đề án, ngoài lời
mở đầu và kết luận, gồm 2 chương sau:
CHƯƠNG I.THỰC TRẠNG TIÊU THỤ CÀ PHÊ VIỆT NAM TRÊN

THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA
CHƯƠNG II. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TIÊU THỤ CÀ PHÊ VIỆT
NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA
Do khuôn khổ đề tài và kiến thức còn hạn chế nên đề án không
thể tránh khỏi các thiếu sót, em rất mong nhận đượcnhững ý kiến đóng góp để
bài nghiên cứu hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn cũng
như sự giúp đỡ tận tình từ thầy Nguyễn Thanh Phong cùng các thầy cô, bạn
bè đã giúp em hoàn thành đề tài này.
2
CHƯƠNG I. THỰC TRẠNG TIÊU THỤ CÀ PHÊ VIỆT NAM
TRÊN THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA
1. Đặc điểm tiêu thụ cà phê Việt Nam
1.1. Đặc điểm về thị trường cà phê Việt Nam
Cà phê có nguồn gốc từ phương Tây, theo chân người Pháp du nhập
vào Việt Nam từ thời thuộc địa. Ban đầu thứ thức uống này chỉ dành riêng
cho giới quý tộc, các quan chức Pháp, hay tầng lớp trí thức nơi thành thị. Dần
dần cà phê trở thành thứ thức uống phổ biến trong cuộc sống của người dân.
Ngày nay cà phê Việt không chỉ được biết đến về sản lượng đứng trong top
đầu thế giới mà còn tạo dựng được nét cà phê rất riêng của người Việt. Hai
loại cà phê được sử dụng và trồng phổ biến ở Việt Nam là Arabica và
Robusta. Mỗi loại đều mang lại tên tuổi của nó ở trong nước cũng như ở nước
ngoài về sản lượng, chất lượng, mùi vị. Arabica chỉ trồng được ở độ cao từ
800 mét trở lên so với mặt biển. Tuy nhiên phải ở độ cao từ 1.300-1.500 mét
thì cà phê Arabica mới thực sự có giá trị. Còn những vùng thấp hơn, người ta
trồng giống cà phê Robusta. Giống cà phê Arabica với dòng cà phê Moka
được nhiều người biết đến từ lâu. Cà phê Moka dầu Cầu Đất, Đà Lạt (khu vực
Đơn Dương) thuộc giống Bourbon. Chính chất lượng độc đáo của nó đã làm
nên tên tuổi cà phê Moka ở Việt Nam và cả ở nước ngoài. Cà phê Moka ngon,
ngoài yếu tố giống, thổ nhưỡng, thì cách chế biến cũng quan trọng. Hương vị
cà phê Việt ngày càng bay cao, bay xa với những thương hiệu lớn như Cà phê

Trung Nguyên, Vinacafe, NesCafé…
Trong vòng 30 năm qua, Việt Nam đã đổi thay rất nhiều, từ hạ tầng đô
thị, đến xu hướng tiêu dùng và đời sống thị dân. Cà phê Việt Nam cũng thế.
Người ta đã thấy được nhiều hơn những góc phố Highland, những Trung
Nguyên biệt thự được chuẩn hóa từ bàn ghế, ly tách đến hương vị cà phê. Bây
giờ, hầu như không phố nào ở Việt Nam là không có các quán cà phê, giải
3
khát với đủ kiểu khác nhau. Trong quán cà phê, người ta bán cả trà, bia, Coca
Cola và nhiều thứ khác. Tập quán uống theo kiểu pha từng phin cũng vẫn còn
nhưng không nhiều. Có một số cửa hàng cà phê ở Việt Nam hiện nay được
nhiều khách nước ngoài lui tới. Trong tiệm, người ta mua đủ các loại nhật
báo, tuần báo nước ngoài, lại lắp đặt cả hệ thống thư điện tử (email) mà khách
có thể sử dụng miễn phí. Trong quán cà phê, khách có thể gọi ăn trưa, ăn sáng
theo thực đơn Âu châu. Bàn ghế và trang trí nội thất thì tương tự như những
quán ở châu Âu. Gần đây, loại cà phê tan, cà phê sữa uống liền do các công ty
nước ngoài hay liên doanh sản xuất cũng được bày bán nhiều trong các siêu
thị, sạp hàng ở Hà Nội. Người ta thường chỉ dùng cà phê tan uống liền này
mỗi khi giải lao trong các hội nghị, hội thảo, trong những bữa điểm tâm vội
vã của vài gia đình công chức hay khi đi điền dã, picnic xa nhà mà thôi.
Bình quân người dân Việt Nam tiêu thụ 1,25 ki lô gam cà phê mỗi năm
và số tiền người dân trong nước bỏ ra cho ly cà phê khoảng 9.000
đồng/người/năm, tức chỉ nhỉnh hơn 0,5 đô la Mỹ và chỉ có 19,2% người dân
uống cà phê vào ngày thường, còn ngày lễ Tết thì tăng lên 23%. Điều dễ dàng
nhận thấy là người dân thành thị mua cà phê uống tới 2,4 ki lô gam/năm,
nhiều gấp 2,72 lần so với người dân nông thôn và số tiền mà cư dân đô thị bỏ
ra cho ly cà phê mỗi sáng tới 20.280 đồng/năm, cao gấp 3,5 lần so với nông
thôn. Nếu chia các hộ ra thành năm nhóm dựa vào thu nhập thì nhóm thứ năm
có thu nhập cao nhất uống cà phê nhiều gấp 18 lần so với nhóm hộ gia đình
có thu nhập thấp nhất. Hầu hết các vùng miền ở Việt Nam đều tiêu thụ cà phê
nhưng mức độ chênh lệch rất lớn giữa các vùng. Trong khi duyên hải Nam

Trung bộ và ĐBSCL là những khu vực tiêu thụ cà phê khối lượng lớn thì Tây
Bắc, Đông Bắc và đồng bằng sông Hồng tiêu thụ rất ít, thậm chí vùng Tây
Bắc hầu như tiêu thụ không đáng kể với... 30 gam/người/năm. Nếu đem so
sánh với người Bắc Âu uống 10 ki lô gam cà phê nhân (quy đổi ra cà phê
4
nhân) mỗi năm, Tây Âu 5-6 ki lô gam thì người Việt Nam chỉ tiêu thụ 1,25 ki
lô gam cà phê bột và cà phê uống liền (cà phê hòa tan), quy ra chỉ 0,5 ki lô
gam cà phê nhân.
Biểu đồ 1-1: Chi tiêu của hộ tiêu thụ cà phê (1000 đ)
0
5
10
15
20
25
30
35
40
Nghèo
nhất
Nghèo Trung
bình
Khá Giàu Chung
1998
2002
2004
Nguồn: Bộ công thương
Thói quen uống cà phê cũng liên quan mật thiết tới nghề nghiệp, chẳng
hạn ở Hà Nội thì tầng lớp người về hưu uống cà phê nhiều nhất, tới 19,8%, còn
sinh viên thì ít nhất, chỉ có 8% người uống. Thế nhưng ở TPHCM lại ngược lại,

dân kinh doanh uống nhiều nhất với 26,3%, kế đến là sinh viên học sinh, người
về hưu uống ít nhất. Điều tra cho biết mỗi người dân Hà Nội bỏ ra 48.000 đồng
mỗi năm để mua lượng cà phê 0,752 ki lô gam, trong khi người dân TPHCM bỏ
ra tới 121.000 đồng, cao gấp ba lần so với Hà Nội để mua 1,65 ki lô gam cà phê.
Khách tới nhà thì người Hà Nội hay pha chè mời khách, nhưng ở TPHCM có
khá nhiều gia đình thay nước chè (trà) bằng ly cà phê, và do vậy có tới 78%
người dân Sài Gòn mua cà phê mang về nhà dùng cho việc tiếp khách. Chưa kể
về thói quen uống cà phê thì người Hà Nội uống theo mùa, lễ Tết uống nhiều
hơn, còn ở TPHCM gần như uống quanh năm. Khẩu vị uống cà phê cũng khác
giữa hai đô thị. Người Sài Gòn uống cà phê bột pha phin nhiều nhất với 38%, kế
5
đến là cà phê bột pha phin có thêm sữa với 27% và 20% uống cà phê hòa tan. Hà
Nội thì tới 67% uống cà phê hòa tan.
Biểu đồ 1-2: Tổng mức tiêu thụ cà phê
Nguồn: Bộ công thương
Tỷ lệ người dân vào quán uống cà phê cũng khác nhau. Gần một nửa
người Sài Gòn có vào quán uống cà phê, còn Hà Nội tỷ lệ này thấp hơn nhiều.
Khi vào quán, người tiêu dùng Sài Gòn uống cà phê pha phin tới 61%, nhiều
hơn hẳn so với Hà Nội. Trong khi người dân Sài Gòn tiêu thụ cà phê nhiều
hay ít không do thu nhập của họ cao hay thấp, còn ở Hà Nội, thu nhập càng
cao thì uống càng nhiều.
1.2. Nét văn hóa cà phê của người Việt Nam
Hương vị cà phê đậm đà đã trở nên quen thuộc trong nhịp sống mỗi
ngày của người dân Việt. Sự tinh tế của cà phê Việt thể hiện ở nét văn hóa và
phong cách thưởng thức cà phê khác lạ của người Việt. Người Việt có phong
cách thưởng thức cà phê rất riêng, không coi cà phê là thức uống nhanh, có
tác dụng chống buồn ngủ như người Mỹ mà người Việt thưởng thức cà phê
như một thứ văn hóa: nhâm nhi và suy tưởng. Ngồi bên tách cà phê vừa nhấp
6
0

500
1000
1500
2000
Hà Nội TP HCM
Lượng mua đầu người (gr)
Giá trị mua đầu người (000đ)
từng ngụm nhỏ vừa đọc báo, nghe nhạc, trò chuyện cùng bạn bè, cùng đối tác
làm ăn, hay ngồi làm việc, và còn để suy ngẫm về cuộc sống, về con người,…
Gu thưởng thức của người Việt là: đậm, đắng, thơm mùi hạnh nhân,
mùi đất. Tùy mỗi một loại cà phê mà mang lại cho người thưởng thức cái cảm
nhận về vị chua, độ dầu, và mùi hương của các loại hoa trái khác nhau. Một ly
cà phê ngon là ly cà phê đậm đà hương vị tự nhiên, có độ chua thanh, tươi,
sạch lưỡi; có độ dầu đậm và đặc biệt hơn là tỏa ra mùi hạnh nhân, hoa trái, bơ
dầu và mùi đất. Cà phê phin được coi là thứ thức uống được ưa thích nhất của
người Việt. Cái cảm giác ngồi chờ đợi từng giọt từng giọt cà phê rơi thật là
thú vị. Càng thú vị hơn nữa khi được nhâm nhi thành quả của nó, có thể là
một tách cà phê đen nóng, có thể pha thêm chút sữa, uống nóng hay uống đá
tùy theo sở thích của mỗi người.
Người ta có thể đoán biết được tính cách con người, văn hóa của mỗi
vùng miền qua cách pha cà phê và sở thích uống của mỗi người. Chẳng hạn,
người miền Nam thường bọc cà phê trong tấm vải và nấu trong nồi, họ thích
uống cà phê đá hơn là uống nóng. Còn người miền Bắc, chủ yếu uống cà phê
pha phin, đen hoặc nâu nhưng đều rất đậm đặc. Những người đàn ông có
tuổi, người mang nhiều tâm sự hoặc sống hướng nội không thích những chốn
ồn ào, sôi động. Họ thường tìm đến những góc quán có không gian trầm lắng,
nhẹ nhàng, thông thoáng. Trong ngõ sâu hoặc trên những con phố vắng người
để trải lòng với những tách cà phê, đắm mình trong những bản nhạc dịu êm
hoặc một không gian thiên nhiên thư thái bên giỏ lan, bên con suối nhân tạo
róc rách. Những người này có thể bỏ hàng giờ, hàng buổi thậm chí là cả ngày

để được uống cà phê và quên đi mọi tâm sự của mình. Họ xem đó cũng là một
kiểu giải toả stress "không đắt tiền". Nổi tiếng nhất đối với những quán cà phê
dạng này là cà phê Sỏi Đá, Tuấn Ngọc, Thiên Thai, Tĩnh lặng, Tưởng Niệm,
Niết bàn,... (Sài Gòn) hay Phố Cổ,... (Hà Nội).
7
Riêng những người bạn trẻ là sinh viên, học sinh hoặc những người
mới đi làm thường tìm đến những góc quán vui nhộn, sang trọng và trẻ trung
họ thường đi thành nhóm và nói chuyện rất sôi nổi bên tách cà phê. Quán họ
tìm đến là quán có không gian hiện đại, mang màu sắc Âu và thường nằm ở
những con phố lớn, có tầm nhìn hướng ra đường, hầu hết đều có máy điều hoà
nhiệt độ và màn hình ti vi lớn. Bước vào quán là bước vào một thế giới sôi
động, náo nhiệt với những bản nhạc rock nảy lửa hay những bộ phim hành
động "ác chiến". Giới trẻ tìm đến đây vì những quán dạng này mang đến cho
họ những cảm giác hết sức thoải mái, họ tha hồ nói chuyện cười đùa, ăn uống
mà không sợ gây ảnh hưởng đến những người xung quanh. Papilon, cafe
Nhân... (Hà Nội), Hình Như Là, Viet"s Top, cát Đằng, Bờ Hồ, Grammy... (Sài
Gòn) là những quán dạng này.
Hai chiếc ghế nhựa hoặc gỗ, một ngồi và một để cà phê. Có thể ngồi
trên vỉa hè, trong hẻm nhỏ nào đó vào bất cứ thời điểm nào. Đó là kiểu uống
cà phê bình dân nhất, phổ biến hiện nay nhất ở Việt Nam. Đối tượng uống cà
phê kiểu này đủ mọi thành phần, lứa tuổi. Họ uống cà phê như một nhu cầu
giải khát hay một thói quen thường nhật nên không câu nệ về không gian.
Riêng ở Hà Nội, không biết từ bao giờ uống cà phê dạng này như đã trở
thành một nét văn hoá. Chỉ cần dạo qua con phố Nguyễn Du, Lý Thái Tổ bạn
sẽ dễ dàng bắt gặp cảnh đông đúc người ngồi bên vỉa hè uống cà phê dù vào
mùa hè hay mùa Thu. Những quán dạng này tuy hơi xô bồ, bụi bặm nhưng
trái lại người uống cảm thấy rất thoải mái và tiện lợi, giá cả lại phải chăng. Ở
Sài Gòn, quán Môri trên đường Hồ Văn Huê là quán cà phê vỉa hè lớn nhất và
được dân nghiền cà phê vỉa hè gọi vui bằng cái tên "chốn về bình yên".
Đối với dân văn phòng thì điểm đến quen thuộc và thường xuyên nhất

có lẽ vẫn là cà phê wifi phủ khắp khuôn viên quán cộng với không khí dễ
chịu, thoải mái là điểm thu hút nhất. Thần dân của quán là những người
8
không thích môi trường làm việc gò bó của văn phòng, họ tìm đến đây như
một cách làm việc tự do. Ngồi ở đây, vừa làm việc vừa có thể nhâm nhi cà
phê hay tán gẫu cùng bạn bè. Mà họ vẫn gọi là "vừa làm vừa chơi".
Dạng quán cà phê độc đáo nhất vẫn là dạng quán chuyên về một thú
chơi nào đó. Chẳng hạn, quán nhạc Trịnh là nơi hội tụ của dân mê nhạc Trịnh,
quán xe cổ - là nơi trưng bày nhiều bộ sưu tập về xe máy cổ, Yoko là quán
dành cho các fan nhạc rock, Đồng Quê - quán tái hiện lại không gian của làng
quê thuần Việt với những vật trang trí thân quen như cái cày, bộ quang ghánh,
cái liềm, lợp mái tranh... thậm chí, trong thời gian gần đây, khi thị trường
chứng khoán rộ lên như một cơn sốt, thì xuất hiện những quán cà phê chuyên
cập nhập thông tin chứng khoán để hút khách. Cá tính và độc đáo là "tính
cách" của quán hay cũng chính là tính cách của những người đến đây. Họ tìm
đến quán vì họ nhận thấy "gu" của quán hợp với gu của mình. Do đó quán là
điểm gặp gỡ thường xuyên của những người có cùng sở thích, đam mê. Đây
là kiểu cà phê in đậm dấu ấn cá nhân rõ nét nhất nhưng lại chiếm số lượng
nhiều nhất.
Biểu đồ 1-3: Nơi uống cà phê chính (số người)
Nguồn: Bộ công thương
9
0
100
200
300
400
500
600
Quán cà

phê
Văn
phòng
Nhà bạn Nhà
hàng
Nơi khác
Hà Nội
TP HCM
Đặc điểm tiêu dùng cà phê của người Việt Nam có nhiều nét riêng. Đặc
biệt là ở Hà Nội. Điều làm nên sự hứng thú ngồi cà phê ở Hà Nội là các quán
thường gắn với… hồ. , ở Hà Nội có rất nhiều hồ. Mà ven hồ nào - hồ Gươm,
hồ Tây, hồ Trúc Bạch, hồ Thiền Quang, hồ Giảng Võ, hồ Ngọc Khánh, hồ Xã
Đàn… thì cũng thường có nhiều quán cà phê mọc lên. Ngồi uống cà phê ven
hồ, hẹn nhau ở quán ven hồ nào đó dường như đã thành “nếp” của nhiều
người. Cái “khác biệt” thứ hai của cà phê Hà Nội với những nơi khác đó là
những quán cà phê… chỉ có ở Hà Nội, như cà phê Lâm, cà phê Nhân, cà phê
Giảng, cà phê Đinh... Đó thực sự là những nơi chốn khiến nhiều người nhớ,
dù qua thời gian những quán đó đã có nhiều thay đổi. Người Hà Nội cũ vẫn
giữ cho mình cái thú uống cà phê ở các phố cổ, mặc giới trẻ “nhảy” đủ điệu
theo Capuccino, Espresso, Trung Nguyên. Không hào nhoáng, thay đổi không
ngừng và sang trọng như thế hệ cà phê số, cà phê phố cổ Hà Nội luôn thâm
trầm, ám ảnh. Không gian nhỏ hẹp, bài trí đơn giản, day dứt một thứ cà phê
mang dư vị của một thuở xưa cũ. Người ta đến đây để uống và tận hưởng hết
sự quyến rũ trong từng giọt cà phê, chứ không để khoe hầu bao sự chịu chơi.
Dân sành uống Hà Thành trung thành, sống chết với quán ruột của mình lắm.
Buổi sáng, 6 giờ - 9 giờ và bắt đầu cuối giờ chiều đến 12 giờ đêm, cà phê
Năng (6 Hàng Bạc), cà phê Nhân (39 D1 - Hàng Hành), cà phê Quất (Quán
Thánh), cà phê Quỳnh (Bát Đàn), cà phê Giảng (Hàng Gai), cà phê Lâm (60
và 91 Nguyễn Hữu Huân) luôn chật cứng khách. Cà phê phố lớn lên cùng 36
phố cổ Hà Nội, đi vào tâm thức của người dân thủ đô từ lâu. Đến đây hầu hết

là khách quen. Từ cụ già đến đôi nam nữ đang yêu, chàng nghệ sĩ lãng tử,
nhóm nữ sinh mỹ thuật. Chủ quen “gu” của khách, không cần gọi vẫn phục vụ
đúng ý muốn cho khách. Khách nhẵn mặt nhau, chỉ cần một tuần không đến,
hôm sau sẽ được hỏi thăm ngay
10
2. Thực trạng tiêu thụ cà phê Việt Nam trên thị trường nội địa
2.1. Tổng quan vê thị trường cà phê Việt Nam
Những năm gần đây, ngành công nghiệp cà phê của nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu đáng kể. Chính sách của Bộ NN&PTNN là không mở
rộng diện tích cà phê thêm nhưng tập trung vào tăng năng suất cây cà phê.
Sản lượng cà phê tăng trên 1 triệu tấn. Để đạt được những kết quả đó, ngoài
những nỗ lực của nhân dân, các nhà sản xuất, kinh doanh và nhà chế biến cà
phê, công tác quảng bá thương mại đã đóng vai trò tích cực trong việc mở
rộng thị trường, cả trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, các qui định quốc tế
dành cho sản xuất nông nghiệp như nguyên tắc GAP (thực hành nông nghiệp
tốt), 4C (qui tắc chung cho cộng đồng cà phê), UTZ Certified và tiêu chuẩn
kỹ thuật khác đang được áp dụng rộng rãi tại Việt Nam để sản xuất cà phê
chất lượng cao
Tiêu thụ cà phê ở thị trường nội địa Việt Nam niên vụ 2008/09 đạt 1,06
triệu bao, tương đương 64 nghìn tấn hạt xanh, chiếm chỉ 5,9% tổng sản lượng
của cả nước. Trong niên vụ 2009/10, tiêu thụ dự đoán tăng lên mức 1,1 – 1,2
triệu bao, tương đương 72 nghìn tấn hạt, cao hơn 13% so với vụ trước, và
chiếm 6,7% tổng sản lượng cà phê sản xuất ra. Niên vụ 2010/11 tiêu thụ cà
phê nội địa Việt Nam sẽ đạt 1,26 triệu bao, tức 75,6 nghìn tấn hạt, tăng 5% so
với vụ trước. Tiêu thụ cà phê ở thị trường Việt Nam đang tăng nhờ hiệu quả
của các kế hoạch marketing khi giới kinh doanh bắt đầu chú trọng tới thị
trường nội địa thông qua phương thức mở các chuỗi cửa hàng theo phong
cách phương Tây như Highlands Coffe, Gloria Jean's, The Coffee Bean, Tea
Leaf, và Illy. Hiện tiêu thụ cà phê nội địa vẫn gia tăng ở tầng lớp trung lưu.
Dù vậy, theo Tổ chức Cà phê Quốc tế, hiện tiêu thụ cà phê bình quân đầu

người tại Việt Nam ở mức 0,83 kg, thấp hơn nhiều so với ở các nước như
Braxin 5,72 kg/người, EU 4,83 kg/người và Mỹ 4,13 kg/người
11
Biểu đồ 1-4: Tình hình tiêu thụ cà phê VN theo VLSS
(Lượng cà phê quy bột trung bình cả nước 0,2 kg/ người/năm 2004)
0.00
0.05
0.10
0.15
0.20
0.25
0.30
0.35
0.40
1998 2002 2004
Thành thị
Nông thôn
Nguồn: Bộ công thương
Sự kiện đáng chú ý là năm 2005 lần đầu tiên Buôn Ma Thuột tổ chức
thành công Lễ hội cà phê, thu hút hơn 300.000 du khách trong nước và quốc
đến xem, tìm hiểu về hương vị về cà phê BMT nói riêng và cà phê Việt Nam
nói chung. Năm 2008, tỉnh cũng đã tiếp tục tổ chức thành công Lễ hội cà phê
Buôn Ma Thuột lần thứ 2 - một trong 10 sự kiện xúc tiến thương mại lớn nhất
của Việt Nam trong năm 2008.. Dự kiến tỉnh sẽ tổ chức lễ hội cà phê lần thứ 3
vào đầu năm 2011. Tỉnh đã trình lên Thủ tướng Chính phủ và được chấp
thuận về việc tổ chức Lễ hội cà phê định kì 2 năm/lần ; coi đây là hoạt động
mang tính quốc gia nhằm quảng bá rộng rãi hơn nữa hình ảnh cây cà phê Việt
Nam. Các sự kiện đáng chú ý thứ hai là cà phê Tuần lễ Văn hóa vào năm
2007 tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Sự kiện này cũng thu hút hàng
trăm ngàn du khách.

Diện tích gieo trồng cà phê năm 2010 dự kiến sẽ đạt khoảng 530 nghìn
ha, tăng 0,6% so với năm 2009, trong đó, diện tích thu hoạch được ước tính ở
mức 515 nghìn ha, tăng 1% so với năm 2009. Năng suất cà phê dự báo đạt 21
12
tạ/ha và sản lượng niên vụ 2010 sẽ lên tới gần 1,1 triệu tấn, tăng 6,1% so với
năm 2009, nếu điều kiện thời tiết của vùng Tây Nguyên thuận lợi.
Biểu đồ 1-5: Sản lượng cà phê Việt Nam
Nguồn: Bộ NN&PTNT
Hiện nay, giá cà phê nội địa Việt Nam gắn khá chặt với giá cà phê xuất
khẩu. Do đó, giá thu mua cà phê trong nước trong những tháng còn lại của
năm 2010 sẽ không thể khôi phục như hồi năm 2008. Tuy nhiên, trong vài
tháng tới tình hình có thể sẽ được cải thiện nếu chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp thu mua tạm trữ cà phê của Nhà nước được thực thi hiệu quả cũng như
thị trường thế giới khởi sắc trở lại. Một điều chắc chắn rằng, giá cà phê nội
địa thời gian tới sẽ không thể giảm quá sâu như năm 2009 bởi theo đề án thu
mua tạm trữ cà phê của Chính phủ, mức giá tối thiểu cho cà phê robusta loại 2
là 23.000 đồng/ki lô gam. Do giá cà phê xuất khẩu tăng liên tục, nên giá cà
phê trong nước cũng “nhảy múa” theo. Hiện nay, giá cà phê nhân xô tại Đăk
Lăk là 31.100 VNĐ/kg
13
Biểu đồ 1-6: Giá cà phê Robusta trong nước
Nguồn: Agroinfo
Mở rộng kênh tiếp thị và tiêu thụ nội địa bằng cách phục vụ nhu cầu
thưởng thức cà phê hòa tan hay pha sẵn cũng đang là cách mà một số công ty
cà phê đang lựa chọn. Ngoài "chuỗi" quán cà phê Trung Nguyên, một loạt
nhãn hiệu khác như Highland, Phúc Ban Mê, cà phê Buôn Mê Thuột... lần
lượt mở các cửa hiệu cà phê tại các đô thị lớn như TP HCM, Cần Thơ, Quy
Nhơn.... Một số nghiên cứu gần đây được Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra
cho thấy tiềm năng thị trường nội địa của Việt Nam có thể tiêu thụ tới 70.000
tấn/năm. Nghĩa là với sản lượng cà phê hàng năm thu hoạch được 700.000 -

800.000 tấn thì lượng cà phê tiêu thụ nội địa của Việt Nam ở mức xấp xỉ 10%.
Trong khi đó theo Hiệp hội Cà phê thế giới, tiêu dùng nội địa của cà phê Việt
Nam hiện chỉ đạt gần 3,6%, thấp nhất trong số các nước sản xuất cà phê. Mức
chênh lệch này càng "khập khiễng" nếu so với sản lượng tiêu dùng cà phê nội
địa của các nước thành viên Hiệp hội Cà phê thế giới là 25,16%.
14

×