Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Luận văn tội cướp GIẬT tài sản THEO PHÁP LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM từ THỰC TIỄN QUẬN 1, THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.52 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ MINH NHẬT

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ MINH NHẬT

TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHAN ANH TUẤN

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Phan Anh Tuấn. Các thông tin và kết
quả nghiên cứu trong luận văn là do tôi tự thu thập, phân tích một cách khách
quan, trung thực, phù hợp với thực tế. Các dữ liệu sử dụng trong Luận văn có
nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng theo đúng quy định. Đây là kết quả tôi
đạt được trong quá trình nghiên cứu.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực của số liệu và các nội
dung viết trong luận văn
Tp.HCM, tháng 8 năm 2019
Học viên

Lê Minh Nhật


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới Học viện Khoa
học xã hội, Khoa Luật, cùng các thầy cô giáo tham gia giảng dạy đã giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt tôi xin cảm ơn Tiến sĩ Phan Anh Tuấn – Người thầy trực tiếp hướng
dẫn khoa học, cảm ơn tập thể lãnh đạo cơ quan, cảm ơn bạn bè đồng nghiệp, người
thân đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.
Tuy có nhiều cố gắng, nhưng trong Luận văn này không tránh khỏi những
thiếu sót. Tôi kính mong Quý thầy cô, các chuyên gia, những người quan tâm đến
đề tài, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè tiếp tục có những ý kiến đóng góp, giúp đỡ
để đề tài được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Tp.HCM, tháng 8 năm 2019

Học viên

Lê Minh Nhật


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN................................................. 10
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản ............... 10
1.2. Phân biệt tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam với một số
tội phạm khác ............................................................................................... 24
1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản từ
năm 1945 đến nay ........................................................................................ 26
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI
CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH ............................................................................................................. 34
2.1. Khái quát tình hình xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây .................................. 34
2.2. Định tội danh tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ
Chí Minh ...................................................................................................... 37
2.3. Thực tiễn áp dụng các tình tiết định khung hình phạt đối tội cướp giật
tài sản ........................................................................................................... 41
2.4. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản................ 44
2.5. Nhận xét chung về thực tiễn xét xử về tội “Cướp giật tài sản” tại Tòa
án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh............................................ 49
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN ............ 52
3.1. Những nhu cầu và yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự khi xét xử
các vụ án cướp giật tài sản ........................................................................... 52

3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cướp giật


tài sản ........................................................................................................... 55
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê số vụ phạm tội và các nhóm tội phạm trên địa bàn Quận
1, Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2013- 2018 ............................................ 34
Bảng 2.2. Thống kê số vụ phạm tội và số người phạm tội cướp giật tài sản so
với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh, giai đoạn 2013- 2018 ............................................................................ 35
Bảng 2.3. Thống kê số vụ phạm tội và số người phạm tội cướp giật tài sản so
với tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ
Chí Minh, giai đoạn 2013- 2018 ..................................................................... 36


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền sở hữu tài sản là quyền cơ bản và quan trọng của mỗi con người,
vì thế, pháp luật của quốc gia nào cũng đều có chế định bảo đảm quyền bất
khả xâm phạm về tài sản cho công dân và có các chế tài, hình phạt đối với cá
nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của người khác. Đây là quyền hiến
định và được nêu tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013 như sau: “1. Mọi người có
quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt,
tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức
kinh tế khác; 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo
hộ.”

Để cụ thể hóa quy định trên, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định các nội
dung của quyền sở hữu để chủ sở hữu thực hiện các quyền của mình và sự tôn
trọng của xã hội đối với quyền sở hữu của các cá nhân khác. Bộ luật Hình sự
năm 2015, quy định các chế tài đối với hành vi xâm phạm sở hữu tài sản quy
định tại Chương XVI (các tội xâm phạm sở hữu) trong đó có tội cướp giật tài
sản. Những quy định này là sự bảo vệ của Nhà nước đối với quyền sở hữu của
nhà nước, tổ chức, cá nhân đã được Hiến pháp năm 2013 quy định và thể hiện
thái độ của Nhà nước đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu của nhà
nước, tổ chức, cá nhân.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những đô thị lớn nhất nước, đặc
biệt là Quận 1, nơi tập trung các cơ quan hành chính của Thành phố Hồ Chí
Minh, có nhiều danh lam, công trình kiến trúc là nơi thu hút tham quan, vui
chơi giải trí của nhân dân thành phố, nhân dân Quận 1 và du khách trong và
ngoài nước. Những năm gần đây, các vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn
Quận 1 không ngừng gia tăng gây ra ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu
đến trật tự, an toàn xã hội, tác động không tốt đến cuộc sống của người dân.
1


Thực tiễn xét xử các vụ án cướp giật tài sản tại Tòa án nhân dân Quận
1, Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tội cướp giật tài sản rất đa dạng về: nhân
thân người phạm tội, độ tuổi và giới tính của người phạm tội, thủ đoạn và
phương tiện phạm tội, có những vụ án có đồng phạm và sử dụng thủ đoạn
nguy hiểm. Quá trình xét xử, là việc Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật hình
sự để xác định đúng tội danh, xem xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự để quyết định hình phạt. Hình phạt vừa thể hiện thái độ nghiêm
khắc của xã hội đối với hành vi nguy hiểm của tội phạm vừa thể hiện tính
khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện để người phạm tội sớm tái hòa nhập
cộng đồng và làm người có ích cho xã hội. Trong quá trình xét xử các vụ án
cướp giật tài sản cho thấy những khó khăn, bất cập trong việc xác định tội

danh và lượng hình, nhất là việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự.
Trong khi đó, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với các tội xâm
phạm sở hữu nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng chưa thống nhất; đặc
biệt cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn mới về các tội này theo quy định của
Bộ Luật hình sự năm 2015 dẫn đến thực tế áp dụng quy định về các tội này
còn lúng túng. Hiện nay, vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn về các tội xâm
phạm sở hữu nói chung và tội cướp giật nói riêng, và các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới mà Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định.
Học viên đã chọn đề tài “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài Luận văn
Thạc sĩ Luật học của mình để nghiên cứu lý luận và thực tiễn xét xử các vụ án
về tội này tại Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh để rút ra
những đặc điểm chung của các vụ án này, tổng kết đánh giá thực tiễn xét xử
và đưa ra những giải pháp để khắc phục những khó khăn, bất cập khi xét xử
loại án này.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để thực hiện đề tài được giao, học viên tham khảo khá nhiều công trình
về hoặc liên quan đến đề tài, trong số đó có thể kể đến:
- Nhóm thứ nhất: Các Giáo trình Luật hình sự, sách về Định tội danh
của các cơ sở đào tạo như: (1) Lê Cảm (Chủ biên) (2007), Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam- Phần chung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; (2) Lê Cảm –
Trịnh Quốc Toản (2012), Định tội danh – Lý luận, lời giải mẫu và 500 bài
tập, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; (3) Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm- Quyển
1, Nxb Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam; (4) Võ Khánh Vinh (Chủ biên)
(2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb Công an

nhân dân; (5) Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội; (7) Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016),
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm- Quyển 2, Nxb Hồng
Đức- Hội Luật gia Việt Nam; (8) Trường Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân; (9) Học viện Tòa án
(2012), Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử - Phần kỹ năng giải quyết vụ
án hình sự, Nxb Công an nhân dân.
Những tài liệu và giáo trình nêu trên là những tài liệu nghiên cứu bắt
buộc trong việc học tập và nghiên cứu luật hình sự. Nội dung chính của các
tác phẩm này là trình bày lý luận chung về tội phạm, định tội danh và quyết
định hình phạt, phân tích từng đặc trưng pháp lý cơ bản của mỗi tội danh nói
chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Những tài liệu này là tài liệu tham
khảo cho tác giả nghiên cứu về các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
trong luận văn.
- Nhóm thứ hai: Các bài viết liên quan đến tội cướp giật tài sản có thể
kể đến:
3


(1) Bài viết “Về các tội xâm phạm sở hữu” của tác giả Nguyễn Mai Bộ,
Tạp chí Tòa án nhân dân – Số 7, 8 và 9/2018. Bài viết phân tích các dấu hiệu
pháp lý của 13 tội trong chương XVI Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội
xâm phạm sở hữu và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
(2) Bài viết “Một số góp ý về các tội xâm phạm sở hữu trong dự thảo
Bộ luật Hình sự sửa đổi" của tác giả Nguyễn Văn Trương – Trần Giang Nam,
Tạp chí Tòa án nhân dân - 10/2005, Số 20. Bài viết đưa ra các ý kiến về việc
sửa đổi quy định pháp luật về các tội xâm phạm sở hữu cụ thể: mô tả hành vi
cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, tình tiết định khung “có tính
chất chuyên nghiệp” trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
(3) Bài viết “Tội cướp giật tài sản và vấn đề chuyển hóa tội phạm theo

pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Minh Tuyên, Tạp chí Tòa án
nhân dân tháng 10/2007, Số 19. Bài viết tập trung phân tích tình tiết định
khung trách nhiệm tăng nặng hình sự là “dùng thủ đoạn nguy hiểm” và “hành
hung khi tẩu thoát” và vấn đề chuyển hóa tội phạm từ tội cướp giật tài sản
thành cướp tài sản.
(4) Bài viết “Một số sai lầm phổ biến trong định tội danh đối với tội
cướp tài sản dưới hình thức có tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh" của tác
giả Đoàn Trọng Chỉnh, Tạp chí Kiểm sát, tháng 8/2015, Số 16. Bài viết nêu
các trường hợp có thể nhầm lẫn khi định tội danh giữa cướp tài sản với công
nhiên chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản và trộm cắp tài sản.
Các bài viết trên có ý nghĩa quan trọng trong việc làm rõ các dấu hiệu
pháp lý của tội cướp giật tài sản trong luận văn.
- Nhóm thứ ba: Các luận văn thạc sĩ liên quan đến tội cướp giật tài sản
như: (1) Luận văn thạc sĩ “Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà
Nội: Một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học” của tác giả Trần Anh
Tuấn, Học viện Khoa học xã hội, 2010. Luận văn phân tích đặc điểm các vụ
4


án cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội và đưa ra các giải pháp về
xã hội, phát triển kinh tế để phòng chống và giảm thiểu các vụ án cướp giật
diễn ra trên địa bàn thành phố Hà Nội.
(2) Luận văn thạc sĩ “Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên
địa bàn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Văn
Tùng, Học viện Khoa học xã hội, 2018. Luận văn nghiên cứu các đặc điểm về
nhân thân của người phạm tội, hiểu rõ các động cơ và mục đích của người
phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Phú và từ đó đưa ra các giải
pháp phòng ngừa hữu hiệu.
(3) Luận văn thạc sĩ “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trên
địa bàn tỉnh Kiên Giang” của tác giả Hồ Thanh Lam, Học viện Khoa học xã

hội, 2018. Luận văn nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội xâm phạm
sở hữu nhằm xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm và đề
ra các biện pháp phòng ngừa các tội phạm xâm phạm sở hữu và giúp cho việc
định tội danh, định khung hình phạt chính xác.
Những luận văn nêu trên đã nghiên cứu nhiều góc độ khác nhau về tội
cướp giật tài sản trên các địa bàn cụ thể. Từ đó đề ra nhiều giải pháp hoàn
thiện pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản. Đây cũng là nguồn tài liệu
tham khảo quan trọng cho đề tài luận văn.
Qua nghiên cứu các công trình nêu trên, chúng tôi có một vài nhận xét
sau: Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích, trình bày những vấn đề pháp
lý của tội cướp giật tài sản, về cấu thành tội phạm, về nhân thân người phạm
tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng, và trên các
địa bàn khác nhau. Các công trình trên cũng đưa ra các giải pháp phòng ngừa
các vụ án cướp giật tài sản ở các biện pháp khác nhau trong đó có biện pháp
pháp luật hình sự. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài, các công
trình nêu trên chưa nghiên cứu quá trình phát triển các quy định pháp luật về
5


tội cướp giật tài sản theo các Bộ luật Hình sự năm 1989, năm 1999 và năm
2015; cũng chưa phân tích những dấu hiệu pháp lý và tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự năm 2015 và không nghiên cứu thực tiễn
các vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Qua
nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án cướp giật tài sản tại Tòa án nhân dân
Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, luận văn đưa ra những đánh giá chung về
loại tội phạm này, các đưa ra các giải pháp để áp dụng đúng pháp luật khi xét
xử các vụ án cướp giật tài sản.
Do đó, đề tài “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” được tác giả sử dụng làm Luận
văn Thạc sỹ Luật học.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận, quy định và thực
tiễn áp dụng quy định về tội cướp giật tài sản theo Bộ luật Hình sự năm 2015
khi xét xử tại Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, luận văn sẽ
đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về các dấu
hiệu định tội, định khung hình phạt đối với tội cướp giật tài sản và đề xuất
những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về loại tội phạm
này và áp dụng thống nhất trên toàn quốc.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về tội cướp giật tài sản theo
luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích nội dung các quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật
tài sản.
6


- Đề xuất các kiến nghị hoàn thiện các quy định về tội cướp giật tài sản
trong Bộ luật hình sự và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của
pháp luật về tội này trên cả nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản và thực tiễn xét xử tội cướp giật tài sản
tại Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy
định, áp dụng về tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ

luật hình sự.
- Phạm vi về thời gian: Khảo sát thực tiễn áp dụng quy định về tội cướp
giật tài sản từ năm 2013 đến năm 2018.
- Về địa bàn nghiên cứu: Khảo sát, nghiên cứu thông qua các bản án tại
Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin với phép duy vật biện chứng, các quan
điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm, hình phạt, về cải cách tư pháp, về
đấu tranh phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: để nghiên cứu Luận văn, tác giả đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp lịch sử: phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự
hình thành và phát triển của tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam
từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay.

7


- Phương pháp thống kê: phương pháp này được sử dụng để làm rõ tình
hình xử lý hình sự đối với tội cướp giật tài sản.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để làm rõ
những vấn đề chung và những hạn chế, vướng mắc về tội cướp giật tài sản.
- Phương pháp so sánh: được tác giả sử dụng để làm rõ những điểm
giống và khác nhau giữa tội cướp giật tài sản với các tội phạm khác có liên
quan và đối chiếu quy định về tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt
Nam với luật hình sự của một số quốc gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận :
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực

tiễn về tội cướp giật tài sản, từ đó, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn :
Các kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là tài liệu tham khảo có
giá trị cho các cơ quan nhà nước thực hiện việc hoàn thiện hơn quy định về
tội cướp giật tài sản, và góp phần giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn
áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội phạm này tại Tòa án nhân dân
Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Những kết quả nghiên cứu của Luận văn đạt được còn có thể làm tài
liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu tiếp theo của chính học viên và
cho những người quan tâm trong quá trình công tác, học tập và nghiên cứu.
7. Cơ cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội
cướp giật tài sản.
8


Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp
giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật
hình sự về tội cướp giật tài sản.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
1.1.1. Khái niệm tội cướp giật tài sản
Hiện nay chưa có văn bản pháp luật đưa ra khái niệm chung về tội cướp
giật tài sản. Qua nghiên cứu, chúng tôi tìm thấy một số tài liệu đề cập đến
khái niệm cướp giật tài sản như sau:
- Theo Từ điển tiếng Việt , “cướp giật” là cướp một cách ngang nhiên
và trắng trợn [59, tr.302]. Khái niệm này hành vi cướp giật giống với hành vi
cướp và không có sự khác nhau giữa hành động cướp và cướp giật.
- Theo từ điển Luật học, cướp giật tài sản là “hành vi công khai chiếm
đoạt tài sản một cách nhanh chóng để tránh sự phản kháng của chủ tài sản …
là một trong bốn tội phạm của nhóm tội chiếm đoạt có tính công khai về hành
vi khách quan cũng như về ý thức chủ quan của chủ thể …, là hành vi lợi
dụng sơ hở của chủ tài sản nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng
lẩn tránh”. [9, tr.264]. Khái niệm này, nêu được những đặc trưng của hành vi
cướp giật tài sản và là một loại tội phạm do luật hình sự quy định. Theo đó,
người thực hiện tội phạm cướp giật tài sản là người có mục đích chiếm đoạt
tài sản từ trước và thủ đoạn chiếm đoạt tài sản là bằng cách nhanh chóng giật,
giằng lấy tài sản và nhanh chóng tẩu thoát. Việc giật, giằng lấy tài sản diễn ra
một cách công khai, người phạm tội không có ý định che giấu hành vi của
mình đối với chủ sở hữu cũng những nguời xung quanh. Người bị hại biết
hành vi phạm tội nhưng do diễn ra quá nhanh nên chưa kịp thời phản ứng.
Trên cơ sở đó có thể định nghĩa tội cướp giật tài sản như sau: Tội cướp
giật tài sản là hành vi công khai chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thoát
của chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý.
10


1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
Bộ luật hình sự năm 2015 quy định tội cướp giật tại Điều 171 BLHS
[35]. Từ định nghĩa về tội cướp giật tài sản nêu trên và quy định tại Điều 171

BLHS chúng ta thấy tội cướp giật tài sản có những dấu hiệu pháp lý như sau:
1.1.2.1. Khách thể của tội cướp giật tài sản
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại (gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại) [33, tr.62].
Khách thể của tội phạm bao gồm khách thể chung, khách thể loại và khách
thể trực tiếp của tội phạm. Tội cướp giật tài sản được quy định tại Chương
XVI của BLHS năm 2015 có tên là “Các tội xâm phạm sở hữu” vì thế có
khách thể loại là quan hệ sở hữu tài sản. Quan hệ sở hữu tài sản là mối quan
hệ giữa chủ sở hữu đối với tài sản, bao gồm các quyền chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt đối với tài sản. Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm
2015, thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Nhưng
chỉ có tài sản là tiền, vật, giấy tờ có giá (vô danh) mới có thể là đối tượng tác
động của các tội xâm phạm sở hữu.
Do đặc thù của tội cướp giật tài sản là nhanh chóng chiếm đoạt và tẩu
thoát nên đối tượng tác động của tội này thường là những tài sản dưới dạng
vật chất, gọn nhẹ, dễ di chuyển và đồng thời đang nằm trong sự quản lý,
chiếm hữu của chủ tài sản, nhưng đối tượng phạm tội lợi dụng sự sơ hở của
chủ sở hữu trong quá trình quản lý để chiếm đoạt.
Như vậy, khách thể trực tiếp của tội cướp giật tài sản là quan hệ sở hữu
và đối tượng bị tác động trực tiếp là tiền, vật, giấy tờ có giá (vô danh) nêu
trên.
1.2.2.2. Chủ thể của tội cướp giật tài sản
Theo Bộ luật hình sự năm 2015, chủ thể của tội phạm không chỉ là con
người cụ thể mà còn pháp nhân thương mại. Đối với tội cướp giật tài sản, chủ
11


thể của tội phạm chỉ có thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định và thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm.

Năng lực trách nhiệm hình sự thể hiện độ tuổi và nhận thức của chủ thể
về hành vi của mình. Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tuổi chịu
trách nhiệm hình sự. Theo đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Điều 21 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tình trạng không có
năng lực trách nhiệm hình sự như sau: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải
chịu trách nhiệm hình sự”.
Từ những quy định nêu trên, chủ thể của tội phạm phải là người có
năng lực trách nhiệm hình sự. Trong một số cấu thành tội phạm đòi hỏi chủ
thể phải có thêm các dấu hiệu đặc biệt khác vì chỉ chủ thể có dấu hiệu này
mới có thể thực hiện được hành vi phạm tội mà cấu thành tội phạm đó phản
ánh. Theo Điều 171, thì chủ thể của tội cướp giật tài sản không phải là chủ thể
đặc biệt. Nên, người có hành vi cướp giật tài sản chỉ trở thành chủ thể của tội
cướp giật tài sản khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản họ có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
1.1.2.3. Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến bên trong phản ánh thái độ tâm
lý của chủ thể đối với hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi đó gây ra, bao
gồm các dấu hiệu về lỗi, động cơ và mục đích. Trong đó, lỗi được phản ánh
trong tất cả cấu thành tội phạm và là dấu hiệu không thể thiếu được của bất cứ
12


cấu thành tội phạm nào.
Tội cướp giật tài sản luôn là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết tài
sản đang có người quản lý, nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm cho xã

hội nhưng vẫn thực hiện. Động cơ và mục đích của người phạm tội cướp gật
tài sản là mong muốn chiếm đoạt tài sản của người khác.
1.1.2.4. Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài của tội phạm, bao
gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội [50,
tr.71]. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng đều có những biểu hiện bên ngoài,
nếu không có những biểu hiện này thì cũng không có yếu tố khác của tội
phạm và cũng không có tội phạm.
Hành vi cướp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác
của chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi chiếm đoạt của tội cướp
giật tài sản có dấu hiệu công khai và dấu hiệu nhanh chóng.
* Dấu hiệu công khai:
Dấu hiệu công khai vừa thể hiện tính khách quan của hành vi chiếm
đoạt vừa thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội. Hành vi chiếm đoạt
được coi là công khai, khi hành vi phạm tội được thực hiện thì chủ tài sản có
khả năng biết ngay khi hành vi xảy ra, nghĩa là người phạm tội công khai và
hoàn toàn không có ý định che giấu hành vi phạm tội của mình đối với người
đang chiếm giữ tài sản và những người xung quanh.
Dấu hiệu công khai là đặc trưng cơ bản của tội cướp giật tài sản giúp
phân biệt với dấu hiệu lén lút trong tội trộm cắp tài sản hay dấu hiệu gian dối
trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
* Dấu hiệu nhanh chóng:
Dấu hiệu nhanh chóng phản ánh thủ đoạn, phương thức thực hiện hành
13


vi phạm tội phải khẩn trương, vội vã. Người phạm tội lợi dụng sơ hở của chủ
tài sản (sơ hở này có thể là có sẵn hoặc do người phạm tội chủ động tạo ra)
nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu

thoát. Thủ đoạn nhanh chóng chiếm đoạt có thể diễn ra dưới những hình thức
khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm của tài sản chiếm đoạt, vị trí, cách thức
giữ tài sản cũng như những hoàn cảnh bên ngoài khác. Thông thường, hình
thức nhanh chóng có thể chiếm đoạt có thể là giật lấy tài sản, giành lấy tài sản
và nhanh chóng lẩn tránh.
Với thủ đoạn nhanh chóng chiếm đoạt như vậy, người phạm tội triệt
tiêu khả năng phản ứng, ngăn cản của chủ tài sản đối với hành vi chiếm đoạt.
vì thế, trong tội cướp giật tài sản không có bất cứ hành vi dùng vũ lực nào để
chiếm đoạt tài sản, hay dùng bất cứ thủ đoạn khác để đối phó trực tiếp với chủ
tài sản.
Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện
hành vi khách quan được mô tả trong điều luật. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt
không phải là dấu hiệu định tội của tội cướp giật tài sản, nhưng có thể là dấu
hiệu định khung của tội này.
1.1.3. Các dấu hiệu cấu thành tăng nặng của tội cướp giật tài sản
Ngoài khung hình phạt cơ bản, khoản 2, 3, 4 Điều 171 Bộ luật hình sự
quy định hình phạt trong các trường hợp tăng năng trách nhiệm hình sự theo
các khung hình phạt tăng nặng. Những dấu hiệu định khung trong tội cướp
giật tài sản như sau:
- Khoản 2 Điều 171 BLHS quy định: Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức
Phạm tội có tổ chức là “hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ
giữa những người cùng thực hiện tội phạm” (khoản 2 Điều 17 BLHS). Đó là
14


một dạng đồng phạm đặc biệt có sự cấu kết chặt chẽ thể hiện ở mặt chủ quan
và khách quan. Sự cấu kết chặt chẽ thể hiện trong cơ cấu tổ chức của đồng
phạm, có sự phân công vị trí, vai trò và nhiệm vụ của mỗi cá thể trong tổ

chức, mỗi người được giao nhiệm vụ cụ thể và tất cả họ cùng nhau liên kết lại
thực hiện tội hạm và che giấu tội phạm. Sự cấu kết chặt chẽ còn thể hiện trong
sự thống nhất ý chí của những người đồng phạm từ khi chuẩn bị đến khi phạm
tội và kết thúc, kể cả việc đề ra các biện pháp lẫn tránh pháp luật. Phạm tội có
tổ chức luôn có người tổ chức và người thực hành, thường người tổ chức giữ
vai trò quan trọng, là người đề ra các biện pháp, kế hoạch phạm tội và luôn
được mỗi cá nhân trong tổ chức nể trọng và phục tùng.
b) Có tính chất chuyên nghiệp
Về tính tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2006/NQ- HĐTP ngày
12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Bộ luật Hình sự như sau, chỉ áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp khi có đầy đủ các điều kiện sau:
“a. Cố ý phạm tội từ 05 lần trở lên về cùng một tội phạm không phân
biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa
án tích;
b. Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy
kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính”.
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
Trong các tội xâm phạm sở hữu, việc xác định giá trị tài sản bị chiếm
đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt, nó có thể làm tăng
khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo. Vì vậy, khi xác định giá trị tài sản bị
15


chiếm đoạt cần chú ý một số điểm sau đây:
“1. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ trái phép, bị sử dụng trái
phép, bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng được xác định theo giá trị thị trường

của tài sản đó tại địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ
trái phép, bị sử dụng trái phép, bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng.
2. Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành
vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý
thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm.
3. Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành
vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm
đến giá trị tài sản bị xâm phạm (trị giá bao nhiêu cũng được) thì lấy giá thị
trường của tài sản bị xâm phạm tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm
phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi
xâm phạm” [57, tr.4]
Như vậy, khi điều tra các vụ án cướp giật tài sản để xác định giá trị tài
sản, cơ quan điều tra phải tiến hành định giá tài sản bị chiếm đoạt đối với
những tài sản là vật (không phải tiền). Nguyên tắc chung của việc định giá tài
sản là xác định giá của tài sản được xác định là giá tại địa phương nơi xảy ra
hành vi cướp giật và vào thời điểm tài sản bị xâm hại. Ngoại lệ, trường hợp có
căn cứ xác định được người phạm tội có ý định xâm phạm tài sản có giá trị cụ
thể thì áp dụng giá trị của tài sản đó để truy cứu trách nhiệm hình sự.
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
Dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng này hiện nay được hướng dẫn
tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP
ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ công an và Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định
16


tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật Hình sự năm 1999
như sau:
“... 5.3. “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều

136 Bộ luật Hình sự là dùng thủ đoạn để cướp giật tài sản mà nguy hiểm đến
tính mạng, sức khỏe của người bị hại hoặc của người khác như dùng xe mô
tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản; cướp giật của người đang đi
mô tô, xe máy... cần chú ý là trong trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm để
cướp giật tài sản mà gây ra hậu quả nghiêm trọng, thì phải áp dụng cả hai tình
tiết định khung hình phạt quy định tại các điểm d và h khoản 2 Điều 136 Bộ
luật Hình sự”.
đ) Hành hung để tẩu thoát;
Trong một số trường hợp cướp giật tài sản, quá trình tẩu thoát người
phạm tội có dùng vũ lực để tẩu thoát. Khi quyết định hình phạt đối với những
trường hợp này, các Tòa án thường không thống nhất với nhau. Tại Mục VII,
Nghị quyết 01-HĐTP/NQ ngày 19/04/1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ
luật Hình hướng dẫn như sau:
“a. Nếu là trường hợp do chưa chiếm đoạt được tài sản mà kẻ phạm tội
dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt tài sản cho
bằng được thì cần định tội là cướp tài sản.
b. Nếu là trường hợp kẻ phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản rồi, nhưng
chủ tài sản hoặc người khác đã lấy lại được tài sản đó hoặc đang giành giật tài
sản còn ở trong tay kẻ phạm tội, mà kẻ phạm tội dùng vũ lực, hoặc đe dọa
dùng ngay tức khắc vũ lực để chiếm đoạt tài sản cho bằng được thì cần định
tội cướp tài sản …
Đối với trường hợp trên đây chỉ cần kết án kẻ phạm tội về một tội là
cướp tài sản … và coi việc chiếm đoạt (chưa thành hoặc đã thành) trước khi
17


dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực là tình tiết diễn biến của
tội phạm.
c. Nếu việc dùng vũ lực (hoặc đe dọa dùng vũ lực) là nhằm để tẩu thoát

(kể cả khi tẩu thoát cùng với tài sản đã chiếm đoạt được), thì không kết án kẻ
phạm tội về cướp tài sản … và tùy trường hợp mà kết án họ về tội phạm xảy
ra trước khi dùng vũ lực (hoặc đe dọa dùng vũ lực) và coi việc dùng vũ lực là
tình tiết “hành hung để tẩu thoát”” [25, Mục VII]
Theo hướng dẫn này, việc dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tẩu
thoát của người phạm tội sẽ được định tội là cướp tài sản khi tội xâm phạm sở
hữu khác phụ thuộc vào ý định dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt được tài sản hay
dùng vũ lực để tẩu thoát của người phạm tội.
Tình tiết “hành hung để tẩu thoát” lần nữa được làm rõ và hướng dẫn
tại Thông tư liên tịch số 01/2001 ngày 25/12/2001 như sau:
“6. Khi áp dụng tình tiết “hành hung để tẩu thoát” (điểm đ khoản 2
Điều 136, điểm a khoản 2 Điều 137, điểm đ khoản 2 Điều 138 BLHS) cần
chú ý:
6.1. Phạm tội thuộc trường hợp “hành hung để tẩu thoát” là trường hợp
mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài
sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những
hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh,
chém, bắn, xô ngã … nhằm tẩu thoát.
6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm
đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà
người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn
công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì
trường hợp này không phải là “hành hung để tẩu thoát” mà có đầy đủ các dấu
hiệu của tội cướp tài sản.”
18


×