Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

LỊCH sử PHÁT TRIỂN các QUY ĐỊNH về HÌNH PHẠT tù có THỜI hạn TRONG PHÁP LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM từ năm 1945 đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (391.6 KB, 95 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------

NGUYỄN VĂN DOÃN

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ
CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------

NGUYỄN VĂN DOÃN

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ
CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
Ngành:Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM VĂN BEO


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những
tài liệu tham khảo và trích dẫn đảm bảo tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn vừa mang tính kế thừa các công trình khoa học trước
đây nhưng chưa từng được công bố trong các công trình khoa học khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Văn Doãn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ........................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt trong pháp luật hình sự.........8
1.2. Lý luận chung về hình phạt tù có thời hạn.................................................. 13
1.3. Vai trò của hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự.......................20
Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY.............................................23
2.1. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn
từ năm 1945 đến 1955....................................................................................... 23
2.2. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn
từ năm 1955 – 1985........................................................................................... 31
2.3. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn
từ năm 1985 đến 1999....................................................................................... 37
2.4. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn
từ năm 1999 đến 2015....................................................................................... 42

2.5. Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong trong pháp luật hình sự giai đoạn
từ năm 2015 đến nay.......................................................................................... 47
Chương 3:

MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN

VIỆC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............................................................................... 55
3.1. Những yêu cầu và định hướng cải thiện quy định hình phạt tù có thời hạn . 55

3.2. Hạn chế từ các quy định về hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự
hiện hành........................................................................................................... 56
3.3. Các giải pháp định hướng hoàn thiện và đề xuất các quy định về hình phạt
tù có thời hạn..................................................................................................... 59
KẾT LUẬN............................................................................................................ 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT:

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng Hình sự

CNXH


: Chủ nghĩa xã hội

ĐNPL

: Định nghĩa pháp lý

HTHP

: Hệ thống hình phạt

SĐBS

: Sửa đổi bổ sung

TCTH

: Tù có thời hạn

PLHS

: Pháp luật hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số liệu thống kê tội danh có chứa chế tài với các loại hình phạt chính
trong các BLHS 1985, BLHS 1999, BLHS 2015.
Bảng 2.2. Tỷ lệ các loại hình phạt chính trên số tội danh trong các BLHS 1985,
BLHS 1999, BLHS 2015.
Bảng 2.3. Tỷ lệ các loại hình phạt chính so với nhau trong các BLHS 1985,

BLHS 1999, BLHS 2015.
Bảng 2.4. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối
thiểu thấp nhất theo BLHS 1985.
Bảng 2.5. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối đa
cao nhất theo BLHS 1985.
Bảng 2.6. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối
thiểu thấp nhất theo BLHS 2009.
Bảng 2.7. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối đa
cao nhất theo BLHS 2009.
Bảng 2.8. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa các mức thời gian tối
đa cao nhất theo BLHS 2015.
Bảng 2.9. Số liệu thống kê 10 khung hình phạt tù có chứa mức thời gian tối
thiểu thấp nhất theo BLHS 2015.
Bảng 3.1. Số liệu thống kê các khung hình phạt có cải tạo không giam giữ
BLHS 2015.
Bảng 3.2. Số liệu thống kê BLHS 2015 các khung quy định hình phạt có cải tạo
không giam giữ được phép lựa chọn thay thế với hình phạt tù có thời hạn.
Bảng 3.3. Số liệu thống kê quy định mức thấp nhất và cao nhất của hình phạt
TCHT trong BLHS một số nước và Việt Nam hiện nay.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phan Chu Trinh, một chí sĩ yêu nước đấu tranh trong thời kỳ Thực dân Pháp
đô hộ từng bị tù đày một thời gian dài có những trải nhiệm thực rất gian lao và với
khí chất bất khuất của mình có những câu thơ bất hủ về cảnh phải chịu tù:
“Dầu ai tại ngoại đù thiên thu
So lại không qua nhất nhật tù” [27]
Hay như tục ngữ dân gian ta có câu: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”
nghĩa là một ngày phải chịu tù đày như dài bằng cả nghìn năm ở ngoài, ý chỉ rằng

sự khó khăn và khổ sở khi phải chịu đựng cảnh tù giam chỉ một thời gian ngắn cũng
thật sự khủng khiếp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ đấu tranh dành độc lập từng bị giam cầm
tại Hồng Kông viết tập trong Nhật ký trong tù rất nhiều bài thơ nói lên nỗi gian khổ
cùng cực, nếu cần biết về sự gian khó trong giam cầm, ta chỉ cần đọc hết tập thơ ấy
là cũng có thể hình dung.
Qua dẫn chứng với những con người bất khuất trong hoàn cảnh lao tù để thấy
rằng hình phạt tù là một điều lớn phải chịu đựng gian khó ở mức cực độ cao cho
người bình thường phải thi hành. Sự phản ánh thực tế bằng lịch sử và văn học nước
nhà như trên thể hiện sự chịu đựng cảnh tù lao xưa nay đã là một sự thử thách rất
khó khăn gian khổ để vượt qua. Vậy ta cũng nên tìm hiểu xem hình phạt tù có lịch
sử thế nào, hình thành và phát triển ra sao trong lịch sử nhân loại.
Dưới phương diện Luật học, ta cần tiếp cận ở góc độ rằng bị giam giữ là một
hình phạt mà pháp luật quy định cho một tội phạm cụ thể nào đó nếu người đó phạm
phải. Hình phạt nói chung là một trong những chế định quan trọng của Pháp luật
hình sự (PLHS), qua nghiên cứu lịch sử có thể thấy hình phạt có từ trước khi nhà
nước và pháp luật được hình thành nhưng tồn tại như một hành vi phản ứng tự phát
của xã hội đại diện kẻ có sức mạnh quyền lực ban hành, thời kỳ nguyên thủy khi
con người còn sống theo bộ lạc với những tục lệ riêng của từng khu vực, nó biểu
hiện trong thời chiếm hữu nô lệ bắt đầu rõ nét hơn khi xuất hiện nhà nước sơ
1


khai, xa xưa nhất được biết đến là thời Tây Chu bên Trung Quốc đã có hệ thống
hình phạt (HTHP) trong luật định và được đánh giá tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên
khi nhà nước Phong kiến bắt đầu hình thành, nó trở thành công cụ một điều chỉnh
và quản lý trật tự xã hội một cách hợp thức hóa và chấp nhận rộng rãi hơn trong các
quy định của nhà cầm quyền gọi là pháp luật của chủ nghĩa pháp gia. Tại vùng
Trung Đông, một cổ luật nổi tiếng ngày nay được đưa vào giảng dạy và nghiên cứu
trong nhiều chương trình luật học đó là Bộ Luật Hammurabi hay tương tự có Bộ

Luật La Mã mà ta thường gọi là Luật 12 bảng. Trải qua các thời kỳ thuộc các nền
văn minh của các quốc gia và thể chế chính trị tuy có sự khác nhau nhưng tựu chung
ngày nay HTHP phân hoá rõ ràng, xắp xếp mang tính logic và khoa học hơn.
Ngày nay các hệ thống PLHS tại các quốc gia đặt loại hình phạt tù có thời
hạn (TCTH) là trọng tâm và tìm cách tùy biến nó bằng các điều kiện và hình thức
khác đi kèm để có thể gia giảm tính chất cũng như mức độ nặng nhẹ của nó để đảm
bảo mục đích của hình phạt.
Tuy có thể có những hình thái thể hiện khác nhau nhưng đặc tính của hình
phạt TCTH vẫn hiện hữu thường xuyên trong các HTHP. Về thực chất hình phạt
TCTH là một hình phạt tước đi sự tự do của một người bằng cách thức tách một đối
tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội và cộng đồng cụ thể trong một khoảng thời
gian nhất định.
Tại Việt Nam, HTHP trong thời kỳ ban đầu của các triều đại Phong kiến cũng
rất đa đạng và khắc nghiệt, qua đối chiếu có thể thấy rằng HTHP ở nước ta thời kỳ
Phong kiến ảnh hưởng nặng nề từ Phong kiến Trung Quốc. Trong đó hình phạt
TCTH được biểu thị bằng nhiều hình thức, là một hình phạt điển hình nổi bật với
các hình phạt khác trong một hệ thống gọi là “Ngũ hình: Xuy hình (đánh roi);
Trượng hình (đánh trượng); Đồ hình, có ba bậc; Lưu hình, có ba bậc; Tử hình, có
ba bậc” [65, tr.19] và chế định hình phạt TCTH với nhiều đặc tính biến thể thay đổi
qua các thời kỳ cần được nghiên cứu kỹ hơn.
Đất nước Việt Nam đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm,
một ngàn năm bắc thuộc, trăm năm bị thực dân xâm chiếm và nội chiến đặc biệt là
2


giai đoạn cận đại khi chyển giao giữa các ý thức hệ Phong kiến, Tư bản và Xã hội
chủ nghĩa. Nhà nước và Pháp luật cũng dần hình thành, biến đổi và có những sự vận
động hoàn thiện nhất định cho đến ngày nay.
Ngày 2/9/1945 là ngày Việt Nam tuyên bố độc lập, mở ra một thời kỳ mới,
thời kỳ rũ bỏ chế độ Phong kiến và xây dựng một đất nước với tư duy mới và nền

tảng là các giá trị chung của nhân loại và phù hợp với tình hình đất nước từng thời
kỳ.
Quy định hình phạt TCTH thay đổi diễn ra mạnh mẽ và tạo ra sự khác biệt
lớn giữa hai thời kỳ trước và sau khi pháp điển hóa lần thứ nhất năm 1985 cả về
quan điểm lập pháp, về hình thức cũng như nội dung. Thời gian gần đây trong các
Bộ luật hình sự (BLHS) thì hình phạt TCTH gần như có mặt 100% trong các điều
quy định về hình phạt cho tội phạm, điều đó chứng tỏ tầm quan trọng và mức ảnh
hưởng của nó đến tổng thể hình phạt và PLHS.
Theo tinh thần Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/05/2005, Nghị quyết 49NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về việc cải cách tư pháp và hệ thống
pháp luật. Liên quan đến tính kế thừa với quan điểm: “Cải cách tư pháp phải kế
thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã
hội chủ nghĩa Việt Nam…”[14, Mục I.2.4]. Trong đó có những vấn đề liên quan đến
Hình phạt đặc biệt là Hình phạt TCTH như chủ trương: “Hoàn thiện chính sách
hình sự, bảo đảm yêu cầu đề cao hiệu quả phòng ngừa; hạn chế hình phạt tử hình,
giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền; cải tạo không giam giữ đối với
các loại tội ít nghiêm trọng” [13, Mục II.5]. Hoặc mục tiêu định hướng
chung“Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không
giam giữ đối với một số loại tội phạm” đồng thời còn nêu vấn đề “Giảm bớt khung
hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm” [14, Mục II.2]. Cùng với sự
thay đổi của xã hội, của tư duy nhà làm luật và các xu hướng mới trong vấn đề bảo
vệ quyền con người, hình phạt nói chung có phần bớt phần hà khắc hơn, giảm dần
tính trừng trị trong hình phạt và chuyển hướng mạnh về mục đích giáo dục và cải
tạo người phạm tội.
3


Quá trình thay đổi để phù hợp với sự chuyển biến của xã hội, ít nhiều cũng
gặp những vấn đề khó khăn. Đồng thời những lần thay đổi đó có những yếu tố
mang tích tích cực, có những yếu tố còn hạn chế dẫn đến chưa đạt hiệu quả như
mong muốn. Ngay cả các quy định về hình phạt TCTH hiện nay còn nhiều mặt hạn

chế và cũng sẽ có sự thay đổi cùng với xã hội trong tương lai, và các nhà làm luật
cũng cần có một công cụ hệ thống hóa các thay đổi xuyên suốt để có thể có cái nhìn
tổng quan và sự nhìn nhận xác thực hơn vào quy luật vận động trong hoàn cảnh
thực tế của đất nước.
Với vai trò rất quan trọng của hình phạt TCTH trong quy định của PLHS
nước ta, cùng các điều kiện thay đổi của xã hội, xu hướng chung của nhân loại cùng
chính sách chủ trương của Đảng và nhà nước, vấn đề này là một điều đáng được
quan tâm nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình xây dựng PLHS đặc biệt là vấn đề
hình phạt và tội phạm. Đây cũng là lý do tác giả đã chọn đề tài "Lịch sử phát triển
các quy định về hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự Việt Nam từ
năm 1945 đến nay" để làm đề tài luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về nghiên cứu vấn đề HTHP và hình phạt TCTH trong nước theo trình tự
thời gian cũng chỉ dừng lại ở mức độ sơ khởi và liệt kê so sánh, cũng có những
nghiên cứu riêng lẻ về các hình phạt khác. Lấy một số dẫn chứng các đề tài và các
công trình nghiên cứu có liên quan một phần như:
Sách chuyên khảo của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp “Hình phạt trong
Luật Hình sự Việt Nam”, xuất bản 1995. Sách chuyên Khảo “Pháp luật hình sự Việt
Nam từ thế kỷ X đến nay- lịch sử và thực tại”, do tác giả TSKH.GS. Lê Cảm (chủ biên)
phát hành năm 2018, tác phẩm này thật sự là một công trình nghiên cứu công phu toàn
diện về PLHS, các định chế pháp luật, các triều đại nhà nước khác nhau qua các giai
đoạn lịch sử đất nước tự chủ từ thế kỷ thứ X đến nay với sự phân đoạn nghiên cứu theo
từng thời kỳ lịch sử và các lần pháp điển hóa hình sự rất chi tiết;

Một số nhóm khác trong các nghiên cứu của các luận văn thạc sĩ viết về các
đề tài liên quan đến hình phạt và hình phạt TCTH như “Hình phạt tù và thi hành
4


hình phạt tù - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Trần Thị Thu Hằng năm 2011,

nghiên cứu về hình phạt tù và sự tương quan với thi hành hình phạt tù từ lý luận và
thực tiễn áp dụng trong những năm 2004-2008, và có một số kiến nghị giải pháp
trong việc thi hành hình phạt tù có thời hạn.
Đề tài luận văn thạc sĩ luật học “Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Võ Hồng Nam
năm 2014; Đề tài đã nghiên cứu về lý luận hình phạt tù có thời hạn và liên hệ thực
tiễn xét xử trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nhằn tìm ra những giải pháp hiệu
quả hơn trong việc áp dụng hình phạt TCTH tại TP.HCM;
Đề tài“Áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Ninh” năm 2018 của tác giả Nguyễn Thành Chung; Đề tài nghiên
cứu lý luận và thực tiễn về hình phạt TCTH và việc áp dụng thực tế trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh;
Ngoài các đề tài trên, trong một số tạp chí luật học chuyên ngành còn các các
bài nghiên cứu một số vấn đề chung về hình phạt trong đó có hình phạt TCTH so
sánh giữa BLHS nước ta với các nước: Bài nghiên cứu “Hệ thống hình phạt theo
pháp luật hình sự của một số nước ở Châu Á, Châu Âu và Hoa Kỳ” của tác giả
Trương Quang Vinh đăng trên Tạp chí luật học; Bài nghiên cứu của TS. Dương
Tuyết Miên “So sánh chế định hình phạt một số nước Asean và Việt Nam” đăng trên
Tạp chí luật học số 12/2009; Hoặc bài nghiên cứu “Hình phạt trong luật hình sự
Anh trong sự so sánh với Luật hình sự Việt Nam” đăng trên Tạp chí luật học số
8/2014 của TS. Đào Lệ Thu; Các bài nghiên cứu nêu trên đa phần so sánh HTHP
của Luật Hình sự Việt Nam với các nước tiêu biểu trong đó có đề cập một số vấn đề
tổng quan của hình phạt TCTH, nhắc đến như một phần cấu thành chứ chưa hẳn
phân tích dưới góc độ riêng biệt về hình phạt TCTH.
Hiện nay chưa có nghiên cứu nào cụ thể và toàn diện và chuyên sâu về sự
biến đổi quy định hình phạt TCTH từ năm 1945 đến nay dựa theo tiến trình lịch sử
của Nhà nước và lập pháp thông qua các tài liệu quy định về hình phạt để tìm ra
nguồn gốc, trình tự, nguyên nhân hình thành các quy định, các mối liên hệ và xu
5



hướng biến đổi giữa các quy định về hình phạt khác nhau trong những thời kỳ khác
nhau.
Một số đã nghiên cứu về tổng thể hơn trong vấn đề lịch sử pháp luật hoặc
lịch sử luật hình sự mà chưa đi vào cụ thể quá trình thay đổi của hình phạt TCTH và
các chế định có liên quan. Vì thế thật sự hữu ích nếu có một sự nghiên cứu nghiêm
túc các quy định trong hình phạt TCTH qua từng thời kỳ lịch sử lập pháp của nhà
nước và pháp luật thời kỳ cận đại từ khi nước ta dành được độc lập năm 1945 đến
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận
chung cũng như những quy định cụ thể về hình phạt TCTH dưới khía cạnh lập pháp
hình sự nhằm tìm ra những mặt tích cực và hạn chế trong quy định hình phạt tù mỗi
thời kỳ. Từ đó kiến nghị hoàn thiện và dự báo xu thế sự biến đổi của hình phạt
TCTH trong PLHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu như trên, đề tài có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
Trình bày những vấn đề lý luận chung về hình phạt TCTH.
Trình bày phân tích so sánh đối chiếu thêm những quy định về hình phạt
TCTH của một số nước trên thế giới với quy định tại Việt Nam.
Trình bày so sánh và đánh giá quy định về hình phạt TCTH trong luật hình
sự từ năm 1945 đến nay theo từng giai đoạn cụ thể của lịch sử.
Đề xuất các giải pháp khắc phục các mặt hạn chế của quy định về hình phạt
tù hiện này từ nghiên cứu lịch sử, thực tại và xu hướng của thế giới
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quy định về hình phạt TCTHtrong pháp luật hình sự
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:Luận văn nghiên cứu hình phạt TCTH dưới góc độ lập
pháp tập trung trong giai đoạn từ 1945 đến hiện nay với nhiều phân đoạn từ sơ khai

đến các lần pháp điển hoá PLHS nước ta.
6


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp sau:
+ Phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;
+ Phương pháp sử học;
+ Phương pháp nghiên cứu hệ thống;
+ Phương pháp phân tích, so sánh;
+ Phương pháp thống kê, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Lý luận về hình phạt TCTH dưới góc độ lịch sử một cách tổng quan.
Hệ thống hóa sự thay đổi của các quy định về hình phạt TCTH trong các văn
bản về Hình sự trước khi pháp điển hóa và các BLHS ban hành từng thời kỳ đến
nay.
Tìm ra nguyên nhân, lý giải quá trình hình thành và biến đổi hình phạt TCTH
trong HTHP của PLHS Việt Nam từ thời kỳ bắt đầu độc lập từ năm 1945 đến nay.

Đánh giá sự tác động của lịch sử và bối cảnh xã hội đất nước lên các quy
định về hình phạt đặc biệt là hình phạt TCTH.
Từ những lần thay đổi trong các quy định có thể tìm ra quy luật, xu hướng
của sự thay đổi, hạn chế của quy định hiện tại và bài học của lịch sử để lại qua đó có
thể dự báo đóng góp những ý kiến mang tính khoa học trong việc hoàn thiện HTHP
cụ thể là hình phạt TCTH trong PLHS hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về hình phạt tù có thời hạn trong Pháp luật
hình sự.

Chương 2: Quy định về hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự Việt
Nam từ năm 1945 đến nay.
Chương 3: Một số hạn chế và kiến nghị nhằm hoàn thiện việc quy định về
hình phạt tù có thời hạn trong Pháp luật hình sự Việt Nam.
7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt trong pháp luật hình sự

1.1.1. Khái niệm về hình phạt
Hình phạt đã gắn liền với sự hình thành Nhà nước và Pháp luật từ thời cổ
đại, cho đến ngày nay hình phạt được xem như là một trong những biện pháp quản
lý xã hội bằng pháp luật rất hữu hiệu. Hình phạt thường được áp dụng cho những
người phạm tội bị cấm mà theo theo khoa học hình sự hiện đại là gắn liền với tội
phạm nhất định
Theo Tự điển giải thích thuật ngữ luật học, Nhà xuất bản Công an nhân dân
thì giải thích rằng: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước được Luật hình sự
quy định và do toà án áp dụng có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người phạm tội nhằm trừng trị giáo dục họ cũng như nhằm giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm”. [20, tr.64]
Trên phương diện lịch sử PLHS của nước ta, khái niệm về hình phạt chỉ
được chính thức quy định lần đầu tiên tại BLHS 1999. Trước đó hầu hết các hình
phạt cụ thể được phân bổ trong các quy định về tội phạm tại các văn bản riêng lẻ,
các nhà lập pháp chưa có quy chuẩn hệ thống hình phạt mang tính khái quát khoa
học. Ngay cả BLHS 1985 là BLHS đầu tiên cũng không nêu khái niệm hình phạt
trong phần chung của BLHS. Theo Điều 26 BLHS 1999 quy định rằng: “Hình phạt
là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn

chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình
sự và do Toà án quyết định”. Trải qua nhiều lần thay đổi bổ sung và thay thế, đến
hiện nay khái niệm hình phạt trong BLHS 2015 xét về nội dung vẫn giữ lại các nội
dung trước đó nhưng có bổ sung mở rộng thêm đối tượng áp dụng hình phạt đó là
pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 30 BLHS 2015).
Một cách biểu thị khái quát, đầy đủ và cân bằng hơn sẽ là quan điểm của
Giáo sư Võ Khánh Vinh trong tác phẩm Luật hình sự của mình có nêu “Hình phạt
8


là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất được Bộ luật hình sự quy định do Tòa án
nhân dân nhân danh Nhà nước áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm và thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền và lợi ích hợp pháp do
luật quy định đối với người bị kế án” [66, tr.347], đây có thể được xem là khái niệm
chứa đầy đủ nội hàm của của hình phạt nhất.
Như vậy tác giả có thể khái quát một cách tổng quan để dễ nhận diện hơn, có
thể đưa ra khái niệm hình phạt như sau: Hình phạt là một trong những công cụ bảo
đảm và thể hiện các mức độ thi hành việc phải chịu trách nhiệm hình sự cho tội
phạm đã thực hiện (ở cả cá nhân và pháp nhân thương mại), nó hướng chính đến
việc trực tiếp giáo dục cải tạo đối tượng phải chịu và gián tiếp phòng ngừa tội phạm
để tái lập cân bằng trật tự xã hội khi xảy ra xáo trộn bởi hành vi phạm tội gây nên,
thông qua việc Toà án áp dụng các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhằm vào lợi
ích, sự tự do và cả sự sống bằng các mức độ khác nhau.
1.1.2. Đặc điểm của hình phạt
Hình phạt trong PLHS có các đặc điểm chính sau:
(1) Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước so với
các biện pháp cưỡng chế khác như về hành chính hoặc kỷ luật.
(2) Hình phạt được quy định trong BLHS hay mang tính chất pháp định,
tránh được sự suy đoán tùy tiện hoặc lạm dụng của Tòa án.
(3) Hình phạt phải chỉ được áp dụng bởi Toà án nhân danh Nhà nước áp

dụng.
(4) Đối tượng chịu hình phạt là phải là đối tượng phạm tội, mang tính chất cá
thể hóa trách nhiệm hình sự, không có sự thay thế khi áp dụng hình phạt. Với ý đó
C.Mác viết rằng: “Dưới con mắt của kẻ phạm tội, sự trừng phạt phải là kết quả tất
yếu của hành vi của chính người đó, do đó phải là hành vi của chính người đó” [7,
tr.181].
(6) Hình phạt phải đồng nhau nghĩa là sự công bằng giữa các đối tượng
phạm tội, không phân biệt đối tượng, tuy nhiên đây chỉ là đặc tính tương đối, với
một số đối tượng có những điều kiện nhất định thì hình phạt sẽ có tính chất tăng
9


nặng hoặc giảm nhẹ, nhưng sự gia giảm này cũng phải có quy định rõ ràng và điều
kiện hết sức nghiêm ngặt.
(7) Hình phạt tạo nên án tích cho người chịu hình phạt, án tích này chỉ được
xóa đi khi đảm bảo được một số điều kiện về thời gian và hành vi sau khi thụ lý
hình phạt.
1.1.3. Mục đích của hình phạt
Mục đích của hình phạt có nhiều quan điểm, trước đây, các Nhà nước Phong
kiến thực dân luôn xem mục đích hình phạt là sự trừng phạt đối tượng phạm tội, nó
được xem là cái giá phải trả theo nguyên tắc cổ xưa là luật về sự trả thù ngang bằng
(theo nguyên tắc lex talionis) thể hiện trong bộ luật cổ Hamurabi tại Babylon cổ đại,
hay trong Kinh thánh Do Thái cũng có nhắc đến nguyên tắc “mắt đền mắt, răng đền
răng” như câu ngạn ngữ nổi tiếng “an eye for an eye and a tooth for a tooth”, những
nguyên tắc trả thù ngang bằng đã rất phổ biến thời cổ đại ăn sâu vào tiềm thức của
các tầng lớp thống trị cũng như toàn xã hội thời đó. Tuy nhiên phong trào bảo vệ
quyền con người cũng như các ngành khoa học xã hội đã phát triển, xã hội không
còn quan niệm hình phạt có mục đích trừng phạt ngang hàng hoặc trừng phạt là yếu
tố chính của hình phạt nữa, mà nó kèm theo rất nhiều mục đích nhân văn khác mang
tính chất cải tạo người phạm tội và ngăn ngừa khả năng tội phạm diễn ra, nghĩa là

quan điểm về việc phòng ngừa tội phạm được đề cao đó cũng được xem là nhiệm
vụ của nhà nước và pháp luật đề ra vậy.
Tuy còn nhiều tranh cãi giữa các quan điểm nhưng quan điểm được chấp
nhận rộng rãi nhất là mục đích của hình phạt có 3 mục đích chính:
“Một là giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý
thức tuân thủ theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; Hai là
ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới (phòng ngừa riêng); Ba là phòng ngừa
người khác phạm tội (Phòng ngừa chung)”. [66, tr.348]
Quan điểm này được các làm luật Việt Nam thể hiện rõ trong quá trình xây
dựng và quy định BLHS bắt đầu từ BLHS 1985 về nội dung mục đích hình phạt
không có gì thay đổi.
10


Một số nhà nghiên cứu đã cho rằng nên loại trừ từ ngữ “không chỉ nhằm để
trừng trị” trong điều luật đã quy định trong mục đích hình phạt nhằm tránh gây sự
hiểu lầm về mục đích của hình phạt, vì rõ ràng xét theo ngôn từ nó thể hiện tính
chất “trừng trị” vào mục đích đầu tiên, và nên xem mục đích của hình phạt thêm
một sự trọng yếu nữa là “góp phần phục hồi lại công lý…”[8, tr.462], tuy nhiên qua
các lần sửa đổi bổ sung BLHS và ban hành BLHS mới, các nhà làm luật vẫn giữ
nguyên cấu trúc này cho đến ngày nay.
Tuy thống nhất rằng Hình phạt không mang mục đích trừng trị nhưng không
thể loại trừ được nó khỏi hình phạt, và các nhà lý luận cũng đáng cố gắng biện giải
bằng cách này hay cách khác. Một số khác giải thích rằng vì chỉ nên coi “trừng trị”
là thuộc tính vốn có trong bản chất của hình phạt chứ không nên xếp vào là mục
đích của nó hướng đến. Cho đến lần sửa đổi cuối cùng là BLHS 2015 thì các nhà
làm luật vẫn giữ nguyên quy định trong Điều 31 mục đích hình phạt là “hình phạt
không chỉ nhằm trừng trị…”. Tuy nhiên một cách tổng quan cũng cần phải xem xét
toàn bộ lại lịch sử và văn hóa nước ta nói riêng và cả khu vực nói chung, đều ảnh
hưởng rất lớn và lâu đời từ hai học thuyết lớn lớn về Nhân trị với đại diện là Khổng

giáo của Khổng Tử và Pháp trị với đại diện là Quản Tử hay Thương Ưởng đề xuất
từ thời Tần Hiếu Công sau này được phát triển bởi Hàn Phi Tử. Các triều đại lớn
bên Trung Quốc thời Phong kiến cũng ảnh hưởng hai tư tưởng này rất nhiều. Chính
hai quan điểm này đan xen và cùng nảy nở trong lòng xã hội, dẫn đến hình thành
các quan điểm trái ngược cùng tồn tại hai mặt trong qua các thời kỳ trong xã hội ta,
ngay cả trong cổ luật nước ta như các Bộ luật Hồng Đức thời nhà Lê và Hoàng Việt
Luật Lệ thời nhà Nguyễn cũng có những điểm thể hiện sự trái ngược này. Vì thế
cũng có thể giải thích phần nào do việc kế thừa truyền thống nên dẫn đến các nhà
làm luật vẫn duy trì một cách thể hiện như điều luật trên đã nêu.
1.1.4. Phân chia hình phạt trong hệ thống hình phạt
Để dễ dàng xắp xếp, phân loại cho các hoạt động nghiên cứu và đặc biệt cho
việc soạn thảo cũng như áp dụng hình phạt trong BLHS, hình phạt ngày nay được
chia ra thành một hệ thống chặt chẽ, có thứ tự theo sự nghiêm khắc từ thấp đến cao,
11


theo đó hệ thống cơ bản nhất ngày này đa số các nước áp dụng đó là: (1) Hình phạt
không giam giữ: cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, phạt tiền, tước một số quyền
công dân, tịch thu tài sản, trục xuất; (2) Hình phạt giam giữ: TCTH và tù không thời
hạn còn gọi là tù chung thân; (3) Hình phạt tử hình.
Với cách phân loại khác mà các nhà nghiên cứu luật học trong giai đoạn
1963-1975 tại Sài Gòn Miền nam Việt Nam có nêu lên là có ba loại hình phạt chính
gọi là chính hình: Một là Thể hình: Hình phạt duy nhất là hình phạt tử hình, đây là
hình phạt duy nhất không thể sửa cũng không thể phân chia; Hai là Hình phạt bác
đoạt tự do hay hạn chế tự do: Là hình phạt TCTH hoặc chung thân, khổ sai hữu hạn,
cấm cố, cấm lưu trú, phạt giam…; Ba là Ngân hình (hình phạt vào tài sản): Phạt
tiền hoặc tịch thu tài sản.
Một cách thức phân loại khác để áp dụng thực tế thuận tiện hơn thì có thể
chia ra làm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, theo đó thì hình phạt chính là hình
phạt được áp dụng độc lập với hình phạt khác và chỉ duy nhất hình phạt chính áp

dụng. Hình phạt bổ sung là hình phạt có thể được tuyên án kèm theo khi có hình
phạt chính. Với cách phân loại này sẽ dẫn đến một hình phạt tùy lúc lại là hình phạt
chính, có lúc lại là hình phạt bổ sung điển hình như phạt tiền. Cách phân loại này
phù hợp với thực tiễn áp dụng hơn nên phần lớn các nước sử dụng cách phân loại
này và Việt Nam trong BLHS cho đến nay cũng phân chia theo cách này. PLHS
Việt Nam tập hợp các hình phạt sau quy định vào hình phạt chính: Cảnh cáo; Phạt
Tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; TCTH; Tù chung thân; Tử hình. Bên cạnh
đó còn có các hình phạt bổ sung như: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân;
Tịch thu tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi
không áp dụng là hình phạt chính. Những hình phạt này quy định trong BLHS 1999
và BLHS 2015 là giống nhau, ở BLHS 1985 cũng cấu trúc tương tự tuy nhiên chưa
quy định hình phạt trục xuất ở cả hình phạt chính lẫn hình phạt bổ sung.
Ngoài ra một cách phân chia tổng quát hơn của Luật Hình sự Pháp đó là căn
cứ theo tính chất sự nặng nhẹ của hình phạt mà chia ra: “Hình phạt đại hình, hình
12


phạt tiểu hình, hình phạt vi cảnh” [26, tr.813]. Đây cũng là những cách thức hữu ích
cần được tham khảo áp dụng khi có các cách tiếp cận bằng các góc độ khác nhau để
nghiên cứu về hình phạt.
1.2. Lý luận chung về hình phạt tù có thời hạn
1.2.1. Khái niệm hình phạt tù có thời hạn
Theo tự điển Hán Việt chữ “tù” gốc chữ Hán nghĩa động từ là bắt người nào
đó phạm tội giam lại, danh từ là giam hãm, trói buộc lại một chỗ. Tiếp cận dưới góc
độ chiết tự chữ Hán, kết cấu chữ “Tù” là “囚” được kết hợp bởi bộ Nhân (囚- nghĩa là
con người) ghép nằm trong với bộ “Vi” (囚- nghĩa là vây, bao quanh). Sự kết hợp là
chữ tượng hình diễn tả sự việc người bị đóng lại trong một ô giới hạn bao quanh.
Vậy theo chiết tự về mặt nguồn gốc ngôn ngữ nói lên được rằng “tù” là một sự giới
hạn không gian hoạt động nhất định của con người.

Đặc tính “có thời hạn” nghĩa là một việc được diễn ra theo thời gian và giới
hạn tại một mức nào đó bằng cách cách xác định điểm mốc không vượt qua theo
một quy ước hoặc được quy định cụ thể.
Vậy hình phạt TCTH theo nghĩa chung cơ bản để nhận diện là một hình phạt
bằng việc giam giữ một người trong một thời hạn nhất định với các chế độ cách ly
người đó đến mức tối đa đối với các quyền tự do và quan hệ xã hội bình thường.
Tuy nhiên với khoa học pháp lý, khái niệm trên là chưa đầy đủ để nói lên
được tính pháp lý nội hàm của nó, vì đây chỉ là khái lược bản chất nội tại của hình
phạt TCTH, vì thế cần phải xem xét sâu xa hơn về các đặc điểm và các điều kiện
pháp lý khác để có được khái niệm mang tính khoa học pháp lý cao hơn. Chính vì
thế các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều khái niệm có kèm theo các khía cạnh khác
của hình phạt này để cố gắng có được cái nhìn toàn diện hơn với hình phạt TCTH.
Một sự giải thích nổi bật được đặc tính đặc trưng hình phạt tù của Từ điển
luật học, Viện khoa học pháp lý- Bộ tư pháp (Nhà xuất bản Tư pháp) giải thích như
sau:
“Hình phạt tù là hình phạt tước quyền tự do của con người, buộc người bị
kết án phải cách ly khỏi cuộc sống bình thường của xã hội, sống trong mội trường
13


riêng biệt, có sự kiểm soát chặt chẽ (trại giam)”[64, tr.361], và còn cho rằng đây là
hình phạt magn tính truyền thống trong luật hình sự các nước nói chung và cũng là
loại hình phạt được áp dụng phổ biến nhất trong thực tế của chúng ta hiện nay.
Một quan điểm về hình phạt TCTH ngắn gọn nhưng đầy đủ và xúc tích làm
nổi bật khía cạnh giáo dục người phạm tội hơn trong phần khái niệm là “Tù có thời
hạn về thực chất là giam người bị kết án ở các trại giam, tức là cách ly người đó ra
khỏi môi trường xã hội bình thường trong một thời gian nhất định để giáo dục và
cải tạo họ”.[66, tr.359]
Lịch sử phát triển PLHS của Việt Nam cho thấy hình phạt TCTH là một hình
phạt có truyền thống rất lâu đời từ thời Phong kiến đến nay. Chỉ đến khi pháp điển

hoá về PLHS lần thứ nhất với BLHS 1985 mới được quy định rõ ràng trong phần
chung của BLHS, về sau qua nhiều lần sửa đổi và ban hành các BLHS khác thay
thế, chế định chỉ xuất hiện cụ thể trong các quy định hình phạt dành cho các tội
phạm, sau này đều được quy định rõ ràng bằng một điều trong phần chung của bộ
luật. BLHS 1985 là bộ luật đầu tiên quy định hình phạt tù dưới hình thức như là
định nghĩa pháp lý (ĐNPL), quy định tại điều 25; BLHS năm 1999 quy định tại
Điều 33; và mới nhất là BLHS năm 2015 quy định tại Điều 38. Nội dung quy định
có sự thay đổi không nhiều qua các thời kỳ, nếu như ở lần pháp điển hoá lần thứ
nhất khá đơn giản và tổng quát, thì đến hiện nay đã rất chi tiết và hoàn thiện hơn.
Vậy có thể khái niệm hình phạt TCTH như sau: Hình phạt TCTH một trong
những hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của luật hình sự, hình phạt này về
nội dung buộc người bị kết án với một thời hạn nhất định phải bị giam giữ tại một
địa điểm riêng biệt trong tình trạng cách ly nghiêm ngặt khỏi đời sống xã hội, đồng
thời hạn chế tối đa các quyền tự do cũng như các mối quan hệ xã hội với mục đích
là giáo dục cải tạo họ trở nên một công dân phù hợp với xã hội.
1.2.2. Đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn
Hình phạt TCTH là một trong những hình phạt trong hệ thống hình phạt của
PLHS vì thế mang đầy đủ đặc điểm đặc trưng cơ bản của hình phạt như đã phân tích

ở trên. Ngoài ra hình phạt tù còn có những đặc điểm mang tính chất riêng đặc thù so
14


với một số hình phạt khác trong hệ thống hình phạt.
Đối tượng quy định của hình phạt tù là người phạm tội trong các quy định về
tội phạm và có năng lực trách nhiệm hình sự. Hình phạt tù không áp dụng cho tội
phạm là pháp nhân thương mại như quy định tại chương XI BLHS 2015.
Hình phạt TCTH là hình phạt phạm vào tự do của người phạm tội. Từ những
phân tích về mặt khái niệm trên đây cho ta thấy được hai yếu tố nổi bật và quyết
định quan trọng nhất của hình phạt này là người phải thi hành sẽ hạn chế tự do bởi

chịu sự giới hạn về không gian và một giới hạn thời gian để thực hiện nó, từ đó dẫn
đến sự giới hạn tự do về phương diện thân thể, quan hệ xã hội và một số nhu cầu
khác so với cuộc sống bình thường.
Một số quan điểm cho rằng hình phạt tù nói chung hay hình phạt TCTH nói
riêng nó là sự tước đoạt tự do, theo tác giả nên hiểu theo nghĩa hạn chế tự do ở mức
cao, vì các biến số về hạn chế sự tự do thay đổi tuỳ theo các quy định tội phạm và
các chế định khác có liên quan nhưng sự tự do của người đang thi hành hình phạt tù
chỉ bị thu hẹp ở mức cao nhất chứ chưa hoàn toàn bị tước bỏ mất, họ vẫn được
sống, sinh hoạt, lao động, học tập ở mức cơ bản trong khuôn khổ ràng buộc nhất
định và những điều khiện giới hạn.
Một sự hạn chế tự do ở một mức độ nào đó là điều hợp lý khi cần có sự giới
hạn đó vì lợi ích chung, lợi ích của cộng đồng, trên nguyên tắc ấy, các nhà lập pháp
cũng đã hình thành nên các loại hình phạt mà hình phạt TCTH là hình phạt mang
tính toàn diện nhất giữa các khía cạnh trừng trị, giáo dục mang tính nhân bản và
phòng ngừa riêng lẫn phòng ngừa chung.
TCTH có thể ít khắc nghiệt với một thời gian ngắn nhưng cũng rất khắc
nghiệt với một thời gian giam giữ lâu dài vì thế nó có khả năng đáp ứng được mục
đích của hình phạt một cách sâu rộng hơn.
Yếu tố thời gian là một cấu thành quan trọng trong hình phạt TCTH, một yếu
tố rất đặc trưng trong hình phạt TCTH, yếu tố này sẽ làm căn cứ để xác định việc
nặng hoặc nhẹ đi hình phạt này. Nghĩa là một biến số thời gian trong hình phạt
TCTH có thể dùng để đo lường sự nặng hay nhẹ của hình phạt TCTH. Yếu tố thời
15


gian đảm bảo được định lượng cho việc quy định hình phạt tù cho các tội phạm.
Hình phạt TCTH so với hình phạt tù chung thân tuy có đặc tính tương tự nhau về
mặt hạn chế không gian nhưng khác biệt lớn nhất là về mặt thời gian phải chịu hình
phạt.
Về tính giới hạn thời gian của hình phạt TCTH, đa phần các bộ luật của các

nước trong giai đoạn hiện nay đều có quy định mức tối thiểu và mức tối đa của hình
phạt TCTH. Các nhà lầm luật cho rằng, ngoài việc giới hạn mức thời hạn ở mức tối
đa và tối thiểu thì việc hình thành các cộc mốc này còn có ý nghĩa rằng, với mức
thấp nhất là để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật không được phép áp dụng
thấp hơn trong hình phạt tù, với mức cao nhất để bảo đảm quyền con người và tính
nhân văn của khung hình phạt vì không được phép áp dụng vượt qua nó trong
khuôn khổ hình phạt tù. Trong khoảng thời gian trước đây khi chưa chính thức pháp
điển hóa để có BLHS thì ở Việt Nam cũng chưa có điều luật cụ thể nào quy định
mức tối thiểu và tối đa cho hình phạt TCTH, tuy nhiên khảo sát các văn bản trong
cùng thời kỳ thì có thể tìm ra được mức thấp nhất và cao nhất trong tổng thể của các
văn bản PLHS trong một giai đoạn nhất định nào đó. Về mức thấp nhất, hiện nay
trên thế giới có rất nhiều quy định cho mức tối thiểu cho hình phạt TCTH nhưng
thường trung bình từ 3 tháng, một số nước có thể quy định thấp hơn như tại Thuỵ
Điển là 14 ngày (Chương 26 BLHS Thuỵ Điển). Về mức cao nhất quy định cho
hình phạt TCTH trong một tội phạm trên thế giới thường là 20 năm, có một số quốc
gia quy định thấp hơn như Trung Quốc là 15 năm, hoặc là 18 năm tại Thuỵ Điển.
Một số quốc gia như nước Anh không quy định giới hạn tối đa của hình phạt TCTH.
Đặc biệt hơn ở Hoa kỳ, pháp luật nước này không quy định mức tối thiểu và tối đa
của hình phạt tù nói chung, nghĩa là mức hình phạt tù cao nhất ở một số tội có thể sẽ
là con số cụ thể do toà án tuyên hoặc tuyên thời gian suốt đời tương tự như hình
phạt tù chung thân.
Về vấn đề quy định mức tối thiểu và tối đa cho hình phạt này, thông thường
các nhà lập pháp sẽ dựa vào các yếu tố như thông lệ truyền thống, sự kế thừa hoặc
sự đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn, các mức tham khảo của các nước khu vực hoặc
16


hệ thống PLHS bị hưởng bởi một hệ thống pháp luật khác, nó cũng tuỳ thuộc vào
các thể chế chính trị và tình hình thực tế và mục đích, kết quả của mức thời gian áp
dụng cho hình phạt tù.

Hình phạt TCTH là một hình phạt mang tính tương đối. Sự tương đối thể
hiện ở cả khía cạnh không gian và thời gian, tương đối về mặt không gian tuy bị
giam giữ nghiêm ngặt, riêng biệt với xã hội nhưng vẫn có sự sinh hoạt cần thiết
giữa những người đang chấp hành với nhau, với các cán bộ thực hiện nhiệm vụ, một
mối liên hệ giới hạn ở mức cần thiết với xã hội đặc biệt là người thân, gia đình và
chăm sóc y tế theo hướng nhân đạo và giáo dục. Tính tương đối về thời gian thể
hiện là việc quy định khoảng thời gian trong hình phạt TCTH trong các khung hình
phạt cụ thể, theo kỹ thuật lập pháp hiện nay hình phạt TCTH thường có cấu trúc quy
định từ mức thấp đến mức cao cho một khung hình phạt; Tính tương đối về mặt thời
gian còn thể hiện ở mức áp dụng thời gian tù có thể thay đổi phụ thuộc vào các điều
kiện, đối tượng khác nhau mà luật quy định ở các chế định khác có liên quan.
Trong sự tương quan với hệ thống hình phạt tổng thể, hình phạt TCTH luôn
là hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của PLHS của các quốc gia trên thế
giới. Hình phạt TCTH trong kết cấu phân loại là hình phạt chính nên còn có thể kèm
theo các hình phạt bổ sung theo các quy định của PLHS. Tuy nhiên ở chiều ngược
lại, hình phạt TCTH với các tội phạm ít nghiêm trọng có xu hướng chuyển quy định
về áp dụng các hình phạt khác thay thế như cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền.
Mức độ phổ biến của hình phạt TCTH là rất lớn, xu hướng này vẫn có khả
năng xảy ra trong tương lai khi các hình phạt như tù chung thân và tử hình ngày
càng có xu hướng giảm hoặc loại bỏ. Hình phạt TCTH có sự phổ biến lợi thế trong
sử dụng so với các hình phạt khác bởi sự tuỳ biến cao về biến số thời gian, đồng
thời có thể có các điều kiện khác đi kèm dẫn đến hiệu quả của hình phạt vẫn đảm
bảo với từng yêu cầu của xã hội trong nhiều giai đoạn. Và như vậy hình phạt TCTH
sẽ gần như là hình phạt trung tâm với sự phổ biến và hiện diện hầu hết trong các
quy định về tội phạm. Khảo sát qua các BLHS của nhiều quốc gia, từ trước đến nay
17


thì hình phạt TCTH chiếm đa số trong tỷ lệ các hình phạt áp dụng cho các loại tội
phạm, thậm chí vài trường hợp nó còn có mặt 100% trong các điều quy định về tội

phạm tại một số BLHS ở các quốc gia hoặc tại Việt Nam trong một số thời kỳ trước
đây.
Hình phạt TCTH có thể gia giảm mức hình phạt khi tuyên án, và hình thức
áp dụng thi hành cũng có thể khác nhau, tuy nhiên việc này các nhà lập pháp đã hết
sức hạn chế và chỉ có thể chuyển đổi thực hiện theo xu hướng nhẹ hơn, ít nghiêm
khắc hơn và có lợi cho người phải chấp hành để tránh sự lạm dụng của tòa án và có
tính chất nhân đạo đối với người bị tuyên án như: Được trừ thời hạn tạm giam, tạm
giữ trước đó đã thực hiện vào thời hạn tù; PLHS ở nước ta và các nước có các chế
định khác quy định có thể làm giảm nhẹ mức hình phạt tù thực tế mà một người
phải chịu nếu đáp ứng được các điều kiện cụ thể nào đó do luật định như các chế
định tha miễn. Ngoài ra người bị tuyên án hình phạt tù có thể được giảm nhẹ hơn
bởi các chế định khác trước khi tuyên án là các chế định có tình tiết giảm nhẹ, hoặc
là đối tượng vị thành niên. Ngược lại hình phạt TCTH không quy định cách thức
chuyển đổi hoặc thực tế thi hành theo hướng tăng nặng hơn so với bản án có hiệu
lực.
Một ngoại lệ cho việc tăng thời gian hình phạt tù là khi có sự tổng hợp nhiều
bản án hoặc nhiều tội, sự tổng hợp dẫn đến hình phạt có thể cao hơn mức hình phạt
của một tội hoặc cao hơn cả mức tối đa mà luật quy định cho hình phạt TCTH, tuy
nhiên sự tổng hợp này cũng luôn có cách tính mang nội dung giảm nhẹ hơn so với
sự tổng hợp theo logic toán học thông thường.
Hình phạt tù còn có thể được thực hiện thi hành một cách không liên tục, có
thể phân chia, hoặc chưa phải thực hiện ngay. Trên nguyên tắc chung là thực hiện
xuyên suốt để đảm bảo tính nghiêm minh và khoa học hình sự nhưng do yếu tố
nhân đạo nên một số trường hợp đặc biệt có thể được tạm hoãn hoặc tạm đình chỉ
khi người bị kết án tù gặp phải tình trạng mà không thể khắc phục ngay được trong
một thời gian ngắn bằng nỗ của bản thân và người khác như bệnh nặng sức khoẻ
yếu kém, phụ nữ có thai và nuôi con nhỏ, nhu cầu công vụ cần thiết…
18



1.2.3. Mục đích của hình phạt tù có thời hạn
Về tổng thể, mục đích của hình phạt như đã phân tích ở trên theo khoa học
hình sự và quan điểm của các nhà lập pháp bao gồm: Giáo dục cải tạo và phòng
ngừa kèm theo bản chất nội tại là trừng trị. Vì hình phạt TCTH nằm trong hệ thống
hình phạt nên chắc chắn vẫn phải tuân thủ các yếu tố trên. So với các hình phạt
khác, hình phạt TCTH có mục đích không những đáp ứng được đầy đủ và các mục
đích mà luật hình sự quy định mà còn có sự cân bằng và hiệu quả cao hơn so với
các hình phạt khác do đặc điểm riêng của nó mang lại. Ngoài ra hình phạt TCTH
cũng mang những mục đích cụ thể hơn:
(1) Giam giữ người bị kết án mục đích để tách biệt họ ra khỏi xã hội thông
thường mà họ đã tác động đến các mối quan hệ xã hội đó, trước tiên nhằm tránh cho
họ khả năng tái phạm, hoặc gây ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ xã hội tiếp
theo sau đó, vì tâm lý tội phạm sẽ có xu hướng lặp lại hoặc gia tăng hành vi nếu
không được sự kiểm soát.
(2) Hình phạt TCTH xét về mặt giới hạn thời gian thực hiện hình phạt: Nhằm
kiểm soát được các hành vi và đời sống người phải bị chấp hành trong một thời hạn
nhất định. Khoảng thời gian mà khoa học hình sự nghiên cứu từ tâm lý, sinh lý, giáo
dục để phù hợp và cần thiết với quá trình cải tạo lại một con người tùy theo mức độ
tội phạm.
(3) TCTH giam giữ người bị kết án nhằm đến sự hiệu quả của sự giáo dục
cải tạo bởi sự tập trung và kiểm soát người chấp hành về mặt không gian.
(4) Hình phạt TCTH như một tấm gương soi công lý bền bỉ hiện hữu trong
thời gian dài cho các thành viên khác có thể nhận biết hậu quả phải chịu hình phạt
khi thực hiện tội phạm giúp cho các cá nhân khác điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp tránh tác động xấu đến các giá trị mà PLHS bảo vệ. Tuy nhiên luận điểm
này còn tranh cãi bởi một số nhà hoạt động nhân quyền cho rằng không thể dùng
hình phạt của một người để làm gương hoặc một biện pháp giáo dục cho người
khác, đó là điều không nên có.
1.2.4. Bản chất của hình phạt tù có thời hạn
19



×