MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 3
B. NỘI DUNG 3
I. Những vấn đề chung về tranh chấp môi trường và giải quyết tranh chấp môi
trường 3
1. Tranh chấp môi trường 3
2. Giải quyết tranh chấp môi trường 4
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12
1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BTTH
BLDS
BLTTDS
BVMT
GQTC
GQTCMT
TCMT
UBND
: Bồi thường thiệt hại
: Bộ luật dân sự
: Bộ luật tố tụng dân sự
: Bảo vệ môi trường
: Giải quyết tranh chấp
: Giải quyết tranh chấp môi trường
: Tranh chấp môi trường
: Ủy ban nhân dân
2
A. LỜI MỞ ĐẦU
Môi trường hiện đang là vấn đề nóng bỏng không chỉ đối với Việt Nam mà
đối với nhiều quốc gia trên thế giới, dù đó là quốc gia đang phát triển hay quốc gia
đã phát triển. Trên phạm vi toàn cầu cũng như tại Việt Nam, sự ô nhiễm, suy thoái
và những sự cố môi trường đang làm cho môi trường có những thay đổi bất lợi cho
con người. Bên cạnh đó là sự xuất hiện ngày càng nhiều xung đột, tranh chấp về
môi trường mà nguyên nhân chính là sự gia tăng nhu cầu hưởng thụ chất lượng
môi trường sống, nhu cầu khai thác các nguồn tài nguyên chống lại những giá trị
hữu hạn của chúng. Tại Việt Nam, từ những năm 1980 trở lại đây, xung đột, tranh
chấp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã nảy sinh và có chiều hướng gia tăng trên
phạm vi cả nước. Chính vì vậy, cần có những biện pháp cần thiết để hạn chế cũng
như giải quyết những tranh chấp trong lĩnh vực môi trường.
B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề chung về tranh chấp môi trường và giải quyết tranh
chấp môi trường
1. Tranh chấp môi trường
a. Khái niệm tranh chấp môi trường
TCMT là những xung đột giữa các tổ chức, cá nhân, các cộng đồng dân cư về
quyền và lợi ích liên quan đến việc pḥng ngừa, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, sự cố
môi trường; về việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên và môi trường;
về quyền được sống trong môi trường trong lành và quyền được bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, tài sản do làm ô nhiễm môi trường gây nên
1
.
b. Những dấu hiệu đặc thù của tranh chấp môi trường
So với các tranh chấp trong những lĩnh vực khác, TCMT có một số nét đặc
thù sau:
- TCMT là xung đột mà trong đó lợi ích tư và lợi ích công thường gắn chặt
với nhau. Đây là nét đặc trưng cơ bản nhất của TCMT. Trong lĩnh vực BVMT, các
bên tham gia quan hệ, dù tham gia với lợi ích tư thì vẫn hướng tới lợi ích chung
của cộng đồng, của xã hội. Lợi ích của cộng đồng, của xã hội mà mỗi người quan
tâm là chất lượng môi trường sống chung của con người, gồm: chất lượng không
khí, nước, đất, âm thanh, hệ sinh vật Khi chất lượng sống của con người không
đảm bảo sẽ phát sinh những yếu tố gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, tài sản lúc ấy
lợi ích chung đã trở thành lợi ích mang tính cá nhân và rất cụ thể. Những người bị
tổn hại về sức khoẻ, tài sản sẽ yêu cầu được bồi thường. Như vậy TCMT luôn có
sự gắn liền giữa lợi ích chung (công) với lợi ích riêng (tư).
- TCMT thường xảy ra với quy mô lớn, liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân,
các cộng đồng dân cư, thậm chí đến nhiều quốc gia. Do môi trường là một thể
thống nhất không thể tách rời, không bị giới hạn bởi không gian, thời gian, nên các
tác động xấu đến thành phần môi trường này sẽ ảnh hưởng xấu đến thành phần môi
1
Giáo trình Luật môi trường, Đại học Luật Hà Nội, Nxb.CAND, Hà Nội, 2007, tr.406.
3
trường khác. Bên cạnh đó, TCMT có thể nảy sinh giữa bất kỳ chủ thể nào, không
phụ thuộc vào cá nhân hay tổ chức, công quyền hay dân quyền
- Vị thế của các bên trong TCMT thường không cân bằng. Đây là quan điểm
của rất nhiều nhà nghiên cứu. Theo quan điểm này phần lớn TCMT có một bên
tham gia là chủ các dự án phát triển hoặc các cơ quan quản lý, trong khi phía bên
kia chỉ là những thường dân với những yêu cầu đòi hỏi về chất lượng môi trường
sống chung của con người. Điều dễ nhận thấy là bên thứ nhất thường ít có động cơ
hơn trong việc tìm giải pháp để điều hoà lợi ích xung đột. Sự bất tương xứng về vị
thế giữa các bên là một trong những trở ngại lớn của quá trình giải quyết TCMT.
- Giá trị của những thiệt hại trong TCMT thường rất lớn và khó xác định.
Điều này bắt nguồn từ thực tế là hậu quả do hành vi gây hại đối với môi trường
thường rất nghiêm trọng, đa dạng và biến đổi với nhiều cấp độ khác nhau, gồm:
thiệt hại trực tiếp, thiệt hại gián tiếp, thiệt hại trước mắt, thiệt hại lâu dài; thiệt hại
về kinh tế, thiệt hại về sinh thái; thiệt hại về tài sản, thiệt hại về sức khỏe, tính
mạng; thiệt hại với quốc gia, thiệt hại trên phạm vi quốc tế
2
2. Giải quyết tranh chấp môi trường
a. Khái niệm giải quyết tranh chấp môi trường
GQTC là các hoạt động khắc phục, loại trừ tranh chấp đã phát sinh bằng một
phương pháp nào đó, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh
chấp bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội
3
.
Xuất phát từ định nghĩa về “cơ chế”, cơ chế GQTC nói chung, cơ chế
GQTCMT nói riêng là một hệ thống thống nhất giữa các phượng tiện pháp lý đặc
thù, thông qua đó thực hiện việc giải tỏa mâu thuẫn giữa các bên bảo vệ trật tự xã
hội. Các phương tiện pháp lý đặc thù để GQTCMT gồm:
- Các nguyên tắc cơ bản đóng vai trò là tư tưởng chỉ đạo;
- Hệ thống pháp luật thực định là căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp;
- Tổ chức bộ máy để vận hành và các yếu tố con người để thực thi pháp luật.
b. Những nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp môi trường
- Nguyên tắc công quyền can thiệp: GQTCMT không chỉ là mong muốn
của các bên tranh chấp mà cũng là trách nhiệm của nhà nước. Tuy nhiên sẽ không
có nghĩa là tuyệt đối hoá vai trò của Nhà nước. Cách tiếp cận BVMT nói chung và
GQTCMT nói riêng theo hướng coi sự can thiệp của các cơ quan công quyền là
yếu tố không thể thiếu nhưng chỉ nên xem là giải pháp cuối cùng.
- Nguyên tắc phòng ngừa: nguyên tắc này đặc biệt có ý nghĩa trong việc
giải quyết những vụ kiện đòi chấm dứt các mối nguy hiểm tiềm tàng đối với môi
trường và sức khoẻ cộng đồng từ các hoạt động phát triển.
- Nguyên tắc phối hợp, hợp tác: Để có thể duy trì mối quan hệ lâu dài giữa
các bên tranh chấp trong việc cùng tìm ra các giải pháp khắc phục và cải thiện môi
trường, cần áp dụng nguyên tắc phối hợp, hợp tác giữa các bên khi tiến hành giải
quyết tranh chấp. Đây được xem là phương cách tốt nhất để tổng hợp mọi nguồn
2
/>3
Giáo trình Luật môi trường, Đại học Luật Hà Nội, Nxb.CAND, Hà Nội, 2007, tr.412.
4
lực xã hội vào việc khắc phục và cải thiện chất lượng môi trường sống chung của
con người.
- Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả giá: Người gây ô nhiễm phải tiến
hành: 1) Áp dụng các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, suy
thoái môi trường, sự cố môi trường. 2) BTTH về môi trường, tính mạng, sức khoẻ
và tài sản cho các nạn nhân nếu có.
- Nguyên tắc tham vấn chuyên gia: Để xác định một cách có căn cứ khoa
học thiệt hại xảy ra đối với môi trường, tính mạng, sức khoẻ, tài sản của các nạn
nhân trong các TCMT cần sử dụng cơ chế tham vấn chuyên gia.
II. Sự phát triển của các quy định về giải quyết tranh chấp môi trường
trong Luật BVMT 1993 và Luật BVMT 2005
1. Giải quyết tranh chấp môi trường khi Luật BVMT 1993 ra đời
1.1.Giải quyết tranh chấp môi trường theo Luật BVMT 1993
Tranh chấp về môi trường là một nội dung quan trọng được đề cập tới trong
Luật BVMT 1993 dưới những khái cạnh sau:
Thứ nhất, quy định trách nhiệm pháp lý của các tổ chức, cá nhân có hành vi
làm ô nhiễm môi trường. Các tổ chức, cá nhân trong hoạt động sản xuất kinh
doanh và các hoạt động khác mà làm suy thoái, ô nhiễm, sự có môi trường phải
thực hiện các biện pháp khắc phục theo quy định của UBND địa phương và các cơ
quan quản lý nhà nước về BVMT.
Thứ hai, quy định thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước về môi
trường trong việc GQTCMT: Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
có trách nhiệm giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo; kiến nghị xả lý các vi
phạm pháp luật về BVMT trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định;
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về BVMT trong phạm vi quyền hạn được giao.
Luật BVMT 1993 cũng quy định áp dụng pháp luật Việt Nam trong giải quyết
tranh chấp có yếu tố nước ngoài, có xem xét đến pháp luật và thông lệ quốc tế
(Điều 49). Bên cạnh đó, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường cũng được thành
lập. Tại Trung ương, Cục Môi trường có trách nhiệm giúp Bộ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường thống nhất hoạt động trong quản lý môi trường ở phạm vi cả
nước. Tại địa phương, Phòng quản lý môi trường cũng được thành lập với cán bộ
chuyên trách làm công tác quản lý môi trường. Đây chính là lực lượng tham gia
vào giải quyết các xung đột, TCMT. Các luật liên quan cũng có điều khoản quy
định về quyền, nghĩa vụ của người dân trong vấn đề BVMT; quy định về GQTC
liên quan đến từng yếu tố về môi trường như: Luật đất đai năm 1993 quy định
nghĩa vụ của chủ sở hữu khi sử dụng đất; BLDS 1995 quy định nghĩa vụ của chủ
sở hữu khi sử dụng, bảo quản, từ bỏ tài sản của mình phải tuân theo quy định về
BVMT; Luật tài nguyên nước 1998 quy định trách nhiệm BTTH, GQTC liên quan
đến tài nguyên nước. Ngoài ra, các quyền và nghĩa vụ của người dân, thẩm quyền
GQTC trong lĩnh vực BVMT còn được quy định ở nhiều văn bản dưới luật như:
Nghị định 91/2002/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
5
chức của Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường, Quyết định 108/2002/QĐ-
BTNMT về thành lập Cục BVMT, Thông tư 01/2003/TTLB-BTNMT-BNV hướng
dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chuyên môn giúp UBND
quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường ở địa phương.
Như vậy, sự ra đời của Luật BVMT 1993 và các văn bản pháp luật liên quan
đã đánh dấu một bước phát triển mới trong BVMT nói chung và thể hiện cái nhìn
cụ thể hơn về TCMT.
1.2.Những hạn chế của Luật BVMT 1993 quy định về TCMT
Bên cạnh những ưu điểm thì Luật BVMT 1993 vẫn còn có những vướng mắc
cụ thể. Luật BVMT 1993 mới chỉ có quy định chung chung về trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân phải khắc phục khi có hành vi làm ô nhiễm, suy thoái môi trường.
Tuy nhiên chưa có một quy định cụ thể về thiệt hại xảy ra trong TCMT, cách xác
định thiệt hại như thế nào? Mức độ BTTH đến đâu mới thỏa đáng? Cách thức
BTTH? Các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường có thẩm quyền GQTC song
hệ thống các cơ quan này còn riêng lẻ, chưa có sự đồng bộ, thống nhất. Cụ thể là:
Cục Môi trường thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường; Cục Quản lý nước
và công trình thủy lợi; Cục Kiểm lâm thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn; Cụ Địa chất và khoáng sản Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp; Cục bảo về
nguồn lợi thủy sản thuộc Bộ thủy sản, Tổng cục Địa chính quản lý vấn đề đất đai,
Tổng cục khí tượng thủy văn. Sự phân chia chức năng, nhiệm vụ quản lý như thế
này có thể dẫn đến sự chồng chéo, mâu thuẫn về thẩm quyền cũng như bất đồng ý
kiến trong việc giải quyết TCMT. Do vậy, cần phải thông nhất hệ thống cơ quan
quản lý nhà nước về môi trường.
Ngoài ra, Luật BVMT 1993 cũng chư quy định trình tự, thủ tục, phương thức,
luật áp dụng trong GQTCMT xảy ra trong nước. TCMT có yếu tố nước ngoài cũng
mới chỉ có quy định chung về luật áp dụng, chưa quy định trường hợp nào thì áp
dụng thông lệ, pháp luật quốc tế. Luật cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng như việc thực hiện các điều
ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Luật BVMT 1993 là văn bản pháp lý đầu tiên ghi nhận về TCMT với các đặc
điểm riêng biệt phân biệt với các tranh chấp xã hội khác. Tuy nhiên những hạn chế
tring quy định của luật này đòi hỏi chúng ta tìm ra giải pháp để hoàn thiện pháp
luật về TCMT.
2. Giải quyết tranh chấp môi trường theo Luật BVMT 2005
Luật BVMT 1993 là đạo luật đầu tiên về BVMT nước ta. Sau hơn 10 năm
thực hiện công tác BVMT đã có những chuyển biến tích cực: ý thức BVMT của
người dân nâng cao; ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường đều hạn chế; hệ thống
chính sách, thể chế từng bước được hoàn thiện, phục vụ ngày càng có hiệu quả
công tác BVMT. Tuy nhiên, ngày nay, nền kinh tế của Việt Nam đang ở mức tăng
trưởng cao và ổn định, mức sống của người dân được cải thiện rõ rệt nhưng môi
trường sống lại đang bị xuống cấp nhanh. Nguyên nhân là do sự yếu kém, bất cập,
phân công, phân cấp chưa rõ ràng trong quản lý nhà nước; nhận thức chưa đầy đủ
6
về vai trò của môi trường của một bộ phận đáng kể cán bộ, công chức, nhân dân;
đầu tư cho BVMT còn quá thấp không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế,
xã hội và quá trình hội nhập kinh tế. Do vậy, cần sửa đổi Luật BVMT 1993 cho
phù hợp với thời kỳ hội nhập.
Luật BVMT 2005 ra đời nhằm sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật BVMT
1993. Nét đặc trưng cơ bản của luật này là đối tượng, phạm vi điều chỉnh rất rộng,
quy định cụ thể về hạt động chính sách, biện pháp, nguồn lực để BVMT. Luật
được ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đáp ứng nhu cầu công tác
BVMT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là cơ sở pháp lý
vững chắc cho hoạt động BVMT nói chung, hoạt động GQTCMT nói riêng.
2.1.Giải quyết tranh chấp môi trường theo Luật BVMT 2005
Luật BVMT 2005 quy định khá chi tiết các vấn đề môi trường và hoạt động
BVMT, trong đó có TCMT và GQTCMT. So với Luật BVMT 1993 cùng các văn
bản pháp luật khác có liên quan, Luật BVMT 2005 có nhiều quy định tiến bộ, cụ
thể hơn. TCMT được nhìn nhận dưới những khía cạnh sau:
a. Chủ thể tranh chấp
Theo quy định tại khoản 2 Điều 129 Luật BVMT 2005 thì chủ thể của TCMT
là các tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến môi trường. Tuy nhiên, TCMT
không chỉ xảy ra giữa tổ chức, cá nhân mà còn xảy ra giữa các quốc gia với nhau,
giữa quốc gia với cá nhân, tổ chức. Việc xác định chính xác chủ thể trong mỗi vụ
tranh chấp là cơ sở để xác định quyền, trách nhiệm của họ trong hoạt động GQTC,
tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình GQTC. Tuy nhiên, chủ thể tranh chấp trong
lĩnh vực môi trường không dễ dàng xác định được ngay vào thời điểm nảy sinh
tranh chấp. Trong nhiều trường hợp bên bị hại xác định được các thiệt hại mà mình
phải gánh chịu song lại không xác định được một cách cụ thể ai là người gây nên
thiệt hại cho mình.
b. Nội dung tranh chấp
Tại khoản 1 Điều 129 Luật BVMT 2005 quy định nội dung của TCMT gồm:
“a) Tranh chấp về quyền, trách nhiệm bảo vệ môi trường trong khai thác, sử dụng
thành phần môi trường; b) Tranh chấp về việc xác định nguyên nhân gây ra ô
nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường; về trách nhiệm xử lý, khắc phục hậu quả, bồi
thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường gây ra”. Đây là một quy
định mới so với Luật BVMT 1993. Luật BVMT 1993 không có bất cứ điều luật
nào quy định về nội dung của TCMT. Có thể coi đây là một bước tiến trong quá
trình hoàn thiện pháp luật về GQTCMT, bởi vì việc quy định nội dung của tranh
chấp giúp các bên nhận diện chính xác lĩnh vực nảy sinh tranh chấp, GQTC một
cách nhanh chóng, có hiệu quả.
Vấn đề TCMT có yếu tố nước ngoài đã được đề cập đến trong Luật BVMT
1993, song vẫn còn khá mờ nhạt, chung chung. Cũng về vấn đề này, khoản 4 Điều
129 Luật BVMT 2005 đã có quy định cụ thể hơn: “tranh chấp về môi trường trên
lãnh thổ Việt Nam mà một hoặc các bên là tổ chức, cá nhân nước ngoài được giải
quyết theo pháp luật Việt Nam; trừ trường hợp có quy định khác trong điều ước
7
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Theo quy định
trên thì nơi xảy ra tranh chấp sẽ được áp dụng trong giải quyết TCMT, tuy nhiên
nếu Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia có quy định khác thì sẽ ưu tiên áp
dụng Điều ước quốc tế đó. Việc áp dụng pháp luật Việt Nam vào GQTCMT có yếu
tố nước ngoài này không những tránh được việc xung đột pháp luật, mà còn thể
hiện quan điểm tôn trọng độc lập chủ quyền đối với các tài nguyên thiên nhiên và
môi trường của nước ta. Mặt khác nó còn giúp cho một bên tranh chấp là Việt
Nam, tránh được những khó khăn nhất định trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng
minh, BTTH nếu như áp dụng pháp luật nước ngoài, do sự kém hiểu biết pháp
luật nước đó. Đây là một tiến bộ rất lớn trong quy định về TCMT trong thời kỳ
hiện nay.
c. Các phương thức giải quyết tranh chấp
- Thượng lượng:
Khoản 3 Điều 129 Luật BVMT 2005 quy định: “Việc giải quyết tranh chấp về
môi trường được thực hiện theo quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp
dân sự ngoài hợp đồng và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Pháp luật về môi trường ghi nhận thương lượng hay tự hòa giải là một trong
những hình thức GQTCTM bởi tính chất đơn giản và hiệu quả của nó. Tuy nhiên,
GQTCMT thông qua thương lượng gặp phải một số khó khăn, đó là sự tham gia
của cơ quan công quyền. Do đây là những cơ quan mang tính chất quyền lực nhà
nước nên không tránh khỏi sự áp đặt của các cơ quan này lên các chủ thể khác
trong quá trình thương lượng GQTC. So với các cuộc thương lượng để GQTC
khác, thương lượng trong GQTCMT có đặc điểm là thường diễn ra giữa các chủ
thể đại diện. Sở dĩ có điều đó là do số lượng chủ thể trong quan hệ tranh chấp lớn,
đa dạng nên khó có thể diễn ra trực tiếp giữa tất cả những người có liên quan. Chủ
thể đại diện có thể là đại diện cho lợi ích công cộng, lợi ích xã hội, đại diện cho
nhóm có cùng lợi ích
- Hòa giải:
Hòa giải là hình thức GQTC có sự tham gia của người thứ ba đóng vai trò làm
người trung gian để hỗ trợ hoặc giúp đỡ các bên có tranh chấp tìm kiếm các giải
pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh. Trung gian hòa giải TCMT thường là:
đại diện chính quyền địa phương, các cơ quan quản lý nhà nước về Tài nguyên và
Môi trường, các tổ chức dịch vụ công cộng đại diện cho cộng đồng dân cư, các tổ
chức phi Chính phủ Quá trình hòa giải không chịu sự chi phối của bất kỳ một thủ
tục tố tụng nào. Thủ tục hòa giải là do các bên tự quyết định. Do có sự hỗ trợ của
trung gian là những người có kiến thức chuyên môn, nên mức độ thành công của
hòa giải cao hơn so với thương lượng. trong hòa giải TCMT.
- GQTCMT thông qua con đường hành chính:
Pháp luật Việt Nam quy định TCMT có thể được giải quyết bằng con đường
hành chính thông qua các cơ quan hành chính nhà nước: Bộ Tài nguyên và Môi
trường (điểm h khoản 2 Điều 121 Luật BVMT 2005), UBND cấp tỉnh (điểm g
8
khoản 1 Điều 122 Luật BVMT 2005), UBND cấp huyện (điểm đ khoản 2 Điều 122
Luật BVMT 2005), UBND cấp xã (điểm d khoản 3 Điều 121 Luật BVMT 2005).
Những quy định trên đã xây dựng được một chỉnh thể thống nhất cơ quan có
thẩm quyền GQTC. Điều này tạo thuận lợi cho người dân trong việc thực hiện
quyền khiếu kiện yêu cầu GQTC của mình. Mặt khác, quy định trên còn giảm bớt
gánh nặng cho Bộ Tài nguyên và Môi trường hay Sở Tài nguyên và Môi trường
khi cùng một lúc phải giải quyết nhiều đơn thư do thói quen của người dân cho
rằng cơ quan cấp trên mới có thể giải quyết hiệu quả tranh chấp của mình. Đồng
thời, việc phân chia thẩm quyền như trên còn tạo ra sự chuyên môn hóa cho mỗi cơ
quan trên trong hoạt động GQTC.
- GQTCMT theo thủ tục tố tụng dân sự
Theo quy định tại khoản 3 Điều 129 Luật BVMT 2005 quy định: “Việc giải
quyết tranh chấp về môi trường được thực hiện theo quy định của pháp luật về giải
quyết tranh chấp dân sự ngoài hợp đồng và các quy định khác của pháp luật có
liên quan”.
Theo khoản 6 Điều 25 BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) thì tranh
chấp dân sự ngoài hợp đồng là một trong những tranh chấp dân sự thuộc thẩm
quyền của Tòa án. Do đó, TCMT có thể được giải quyết tại Tào án.
- GQTCMT bằng trọng tài
TCMT còn có thể được giải quyết bằng phương thức trọng tài: “các bên có
thể yêu cầu trọng tài giải quyết các tranh chấp BTTH về môi trường” (khoản 2
Điều 133 Luật BVMT 2005).
Có thể thấy GQTCMT bằng trọng tài có nhiều tính ưu việt như tiết kiệm thời
gian, linh hoạt trong iệc lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn địa điểm GQTC Không
giới hạn phạm vi trong nước, phương thức Trọng tài còn được sử dụng để giải
quyết các TCMT trên phạm vi quốc tế. Công ước Lahay còn ghi nhận: “Trong các
vấn đề về bản chất pháp lý và đặc biệt trong việc giải thích hoặc áp dụng các công
ước quốc tế, phương thức trọng tài được các bên ký kết thừa nhận nhu một phương
thức hữu hiệu nhất ”
4
.
d. Chủ thể có quyền khởi kiện TCMT
Chủ thể khởi kiện trong TCMT có thể là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành
vi vi phạm pháp luật môi trường gây ra; cơ quan nhà nước có nhiệm vụ, quyền hạn
trong lĩnh vực môi trường khi tranh chấp có liên quan đến lợi ích công cộng. Đặc
biệt, do TCMT có thể phát sinh giữa các quốc gia với nhau nên chủ thể khởi kiện
có thể là quốc gia. Tuy nhiên, việc GQTC giữa các quốc gia được thực hiện theo
các điều ước quốc tế mà các nước đã ký kết. Một câu hỏi được đặt ra là: trong
trường hợp TCMT xảy ra giữa chủ thể là quốc gia với bên kia là cá nhân, tổ chức
thì quốc gia đó có trở thành chủ thể khởi kiện và được thực hiện quyền khởi kiện
như tổ chức, cá nhân hay không?
e. Thời hiệu khởi kiện TCMT
4
Bùi Thị Thảo, “Giải quyết tranh chấp về môi trường - Tồn tại và giải pháp”, Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2012, tr.24.
9
Luật BVMT 2005 và các văn bản pháp luật về môi trường không có quy định
nào về thời hiệu khởi kiện đối với TCMT. Tuy nhiên, TCMT là tranh chấp dân sự
ngoài hợp đồng neen các quy định về thời hiệu khởi kiện được áp dụng theo quy
định của BLDS 2005, BLTTDS 2004. Theo quy định tại Điều 607 BLDS 2005 thì:
“Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là hai năm, kể từ ngày quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm”.
f. Nghĩa vụ chứng minh của đương sự và vấn đề xác định thiệt hại
GQTCMT thông qua cơ quan tố tụng cũng được tiến hành giống như các vụ
án dân sự khác. Theo đó, khi một trong các bên đương sự khởi kiện để yêu cầu Tòa
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì các đương sự phải đưa ra các
chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là hợp pháp. Tuy nhiên, trong
TCMT, việc thu thập chứng cứ về thiệt hại và xác định yêu cầu đòi BTTH của bên
bị thiệt hại có một số điểm đặc thù, đó là có sự hướng dẫn của các cơ quan chức
năng. Trong lĩnh vực môi trường, do thiệt hại có giá trị lớn và rất khó xác định nên
bên bị hại thường không thể đưa ra được các số liệu chứng minh nếu không có sự
trợ giúp của các cơ quan chuyên môn. Thông thường, các cơ quan chuyên môn
hướng dẫn bên bị hại áp dụng một số phương pháp khoa học theo quy định của
pháp luật và được kiểm chứng để tính toán những thiệt hại về người và tài sản do ô
nhiễm môi trường gây ra.
Đối với BTTH do ô nhiễm, suy thoái môi trường được Luật BVMT 2005 xem
xét về: Các loại thiệt hại (Điều 130), xác định thiệt hại (Điều 131), giám định thiệt
hại (Điều 132), giải quyết BTTH (Điều 133), bảo hiểm trách nhiệm BTTH về môi
trường (Điều 134). Giải quyết BTTH có thể theo các cách: tự các bên thỏa thuận;
yêu cầu trọng tài giải quyết; khởi kiện tại tòa án đã thể hiện sự tôn trọng thỏa thuận
của các bên đương sự trong vấn đề BTTH. Việc quy định bảo hiểm trách nhiệm
BTTH về môi trường là một quy định tiến bộ, bên gây thiệt hại trong vụ TCMT
không phải trực tiếp đứng ra thực hiện nghĩa vụ này mà có thể thông qua tổ chức
bảo hiểm. Điều này một mặt giúp cho bên được BTTH không phải đợi chờ lâu nếu
như số tiền bồi thường quá lớn mà bên gấy hại lại phải thự hiện trong thời gian
nhất định; mặt khác về bên bồi thường sẽ không mất nhiều thời gian cho việc thực
hiện nghĩa vụ này do đã có tổ chức bảo hiểm đứng ra đảm nhiệm.
2.2.Những hạn chế của Luật BVMT 2005 quy định về TCMT
Sự ra đời của Luật BVMT 2005 nói chung và việc đổi mới trong quy định về
TCMT nói riêng là hoàn toàn cần thiết với xu hướng ngày càng gia tăng các TCMT
có tính chất phức tạp, nguyên nhân đa dạng. Tuy nhiên, nó vẫn còn những vướng
mắc nhất định:
- Luật BVMT mới chỉ quy định chủ thể của TCMT là cá nhân, tổ chức mà
chưa quy định quốc gia là một chủ thể của TCMT.
- Luật BVMT và các văn bản hướng dẫn cũng chưa có quy định rõ ràng về
chủ thể có quyền khởi kiện để bảo vệ lợi ích công trong lĩnh vực môi trường.
Trong lĩnh vực môi trường, nếu tranh chấp có liên quan đến lợi ích công cộng
thì chủ thể khởi kiện là cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Theo hướng dẫn
10
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì: “Cơ quan Tài nguyên và Môi
trường có quyền khởi kiện vụ án dấn ự để yêu cầu Tòa án buộc cá nhân, cơ quan,
tổ chức có hành vi gây ô nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại, khắc phục sự
cố gây ô nhiễm môi trường công cộng”. Tuy nhiên, hướng dẫn của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao không chỉ rõ “Cơ quan tài nguyên môi trường” là cơ
quan nào? Ủy ban nhân dân các cấp hay Sở Tài nguyên và Môi trường? Đây cũng
là một thiếu sót trong quá trình xây dựng pháp luật.
- Đối với các phương thức GQTCMT: dù pháp luật đã có quy định về
phương thức GQTCMT, tuy nhiên, các quy định này còn nằm rải rác ở nhiều văn
bản pháp luật chuyên ngành mà chưa được quy định thống nhất trong một văn bản
chung. Điều này dẫn đến khó khăn cho các chủ thể khi xem xét xem xét đến các
phương thức GQTC để áp dụng vào từng vụ việc cụ thể.
TCMT có thể được giải quyết tại Tòa án. Tuy nhiên, các quy định về thẩm
quyền của Tòa án được xác định theo đối tượng tranh chấp hoặc phạm vi lãnh thổ
tỏ ra không phù hợp với các vụ TCMT có tính chất phức tạp, giá trị tranh chấp lớn,
diễn ra trong phạm vi rộng, bao gồm nhiều chủ thể thuộc nhiều địa phương khác
nhau, đặc biệt trong tranh chấp đòi BTTH mà chủ thể gây ô nhiễm bao gồm nhiều
người, gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhiều người sinh sống tại
nhiều địa phương. Do đó, việc phân chia thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ,
theo nơi cư trú của bị đơn hay nơi xảy ra tranh chấp đều chưa phù hợp. Điều này
dẫn đến yêu cầu phải đưa ra các quy định phù hợp hơn về thẩm quyền GQTCMT.
- Về thời hiệu khởi kiện: pháp luật quy định về thời hiệu khởi kiện TCMT
là “hai năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể bị xâm phạm” là
chưa phù hợp với thực tế. Trong lĩnh vực môi trường, ngày quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể bị xâm phạm không hoàn toàn trùng khít với ngày phát sinh
thiệt hại trê thực tế. Chẳng hạn, thiệt hại đối với sức khỏe con người do nhiễm các
chất thải độc hại nguy hiểm Do đó, pháp luật quy định thời hiệu khởi kiện được
tính từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể bị xâm phạm là không hợp
lý, vì khi thiệt hại phát sinh trên thực tế thì thời hiệu khởi kiện đã hết nên không
thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích cho mình.
- Về nghĩa vụ chứng minh của đương sự: Để có thể yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì các đương sự phải có nghĩa vụ chứng minh
(Điều 79 BLTTDS 2004). Tuy nhiên, nguyên đơn thường không có đủ điều kiện để
chứng minh một cách đầy đủ các quyền và lọi ích của mình bị xâm phạm. Các
thietj hại trong lĩnh vực môi trường thường là những thiệt hại gián tiếp, do đó, khó
đưa ra những chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là hợp pháp. Hơn
nữa, để xác định các thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây ra một
cách chính xác thì cần phải có sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực này.
Nhưng không phải nguyên đơn nào cũng có đủ khả năng tài chính để mời các
chuyên gia xác định thiệt hại. Chính vì vậy, quy định về nghĩa vụ chứng minh của
đương sự là không phù hợp với thực tế, do đó cần có những hướng dẫn, sửa đổi,
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
11
III. Một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về giải quyết tranh
chấp môi trường
Từ những phân tích ở trên, cá nhân em xin đưa ra một số giải pháp hoàn thiện
quy định pháp luật về GQTCMT như sau:
Thứ nhất, cần quy định quốc gia cũng là một chủ thể TCMT.
Thứ hai, đối với chủ thể có quyền khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, pháp
luật cần hướng dẫn cụ thể “Cơ quan Tài nguyên và Môi trường” là cơ quan nào?
Theo ý kiến cá nhân, pháp luật cần quy định theo hướng cơ quan đó là Sở Tài
nguyên và môi trường, bởi vì Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn
về môi trường ở địa phương. Do đó, cơ quan này nắm bắt rõ tình hình môi trường
ở địa phương mình, điều này sẽ giúp bảo vệ lợi ích công cộng một cách kịp thời.
Thứ ba, về thời hiệu khởi kiện, cần quy định lại thời hiệu khởi kiện đối với
các TCMT theo hướng thời hiệu khởi kiện có thể được tính từ ngày quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể bị xâm phạm hoặc từ ngày phát hiện ra hành vi vi
phạm hoặc từ ngày phát sinh thiệt hại trên thực tế. Bên cạnh đó, cần quy định thời
hiệu khởi kiện đối với TCMT theo hướng kéo dài hơn so với quy định hiện hành
bởi vì thời hiệu yêu cầu GQTC là hai năm chỉ phù hợp với những vụ tranh chấp
mang tính đơn giản, dễ xác định giá trị thiệt hại. Còn đối với những vụ tranh chấp
có tính chất phức tạp, thiệt hại mang tính gián tiếp thì cần có một thời gian dài để
bộc lộ hết thiệt hại.
Thứ tư, kiến nghị sửa đổi các quy định pháp luật về nghãi vụ chứng minh đối
với thiệt hại trong GQTCMT theo hướng xác định mức độ thiệt hại thông qua chế
định giám định độc lập
5
. Bên bị thiệt hại chỉ cần kê khai đầy đủ, chi tiết những
thiệt hại mà mình phải gánh chịu cùng với các yêu cầu của mình, đồng thời phải
chịu trách nhiệm về phản ánh, kê khai không đúng sự thật. Việc xác định mức độ
thiệt hại, nguyên nhân gây thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả
sẽ do tổ chức giám định thiệt hại môi trường tiến hành. Cơ quan quản lý môi
trường ở địa phương là chủ thể trưng cầu giám định thiệt hại môi trường. Chi phí
cho công tác giám định thiệt hại đối với môi trường tự nhiên do Nhà nước chi trả,
chi phí xác định thiệt hại đối với tính mạng, sức khỏe, tài sản của tổ chức, cá nhân
sẽ do bên thực hiện quyền khởi kiện chi trả.
C. KẾT LUẬN
Hiện nay đất nước ta đang trên đà phát triển ở mọi ĩnh vực, nhưng kéo theo đó
là những mâu thuẫn, xung đột cũng xuất hiện nhiều hơn và ngày càng phức tạp.
Trong lĩnh vực môi trường cũng vậy, TCMT đang là vấn đề được xã hội quan tâm,
tuy nhiên, hiện nay cơ chế GQTCMT đang còn nhiều thiếu sót. Do đó, để đảm bảo
việc GQTCMT có hiệu quả, cần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về
GQTCMT.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
5
Bùi Thị Thảo, “Giải quyết tranh chấp về môi trường - Tồn tại và giải pháp”, Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2012, tr.57.
12
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật môi trường, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, 2011;
2. Luật bảo vệ môi trường năm 1993;
3. Luật bảo vệ môi trường năm 2005;
4. Vũ Thu Hạnh, “Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường tại Việt Nam”, Luận án tiến sĩ, Hà Nội, 2004;
5. Trần Thị Loan, “Tranh chấp môi trường và giải quyết tranh chấp môi
trường tại Việt Nam”, Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2008;
6. Bùi Thị Thảo, “Giải quyết tranh chấp về môi trường - Tồn tại và giải
pháp”, Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2012;
7. />48622
13