Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKNRen luyen ki nang song cho hoc sinh lop 12 qua mon ngu van

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.9 KB, 16 trang )

A.THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN:
1.Tên sáng kiến : Sử dụng một số phương pháp dạy học để rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh qua môn ngữ văn lớp 12.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Trong giảng dạy văn học ở trường THPT
.
3.Tác giả:
Họ và tên :

Nguyễn Thị Ngọc Lan

Giới tính : Nữ

Ngày sinh : 01/01.1981
Trình độ chuyên môn : Cử nhân
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị công tác : Trường THPT Nguyễn Trãi
- Vũ Thư – Thái Bình
4.Đồng tác giả : không
5.Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến :
6.Đơn vị áp dụng sáng kiến :
Tên đơn vị : Trường THPT Nguyễn Trãi
Địa chỉ: Vũ Thư – Thái Bình
7.Thời gian áp dụng sáng kiến : Năm học 2018 – 2019
B.BÁO CÁO MÔ TẢ SÁNG KIẾN:
1.Tên sáng kiến : Sử dụng một số phương pháp dạy học để rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh qua môn ngữ văn lớp 12.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến :
Trong giảng dạy văn học ở trường THPT.
3. Mô tả bản chất sáng kiến:
3.1.Tình trạng giải pháp đã biết:
3.1.1. Thực trạng chung:


Tất cả những ai có trách nhiệm với tương lai đất nước, với thế hệ trẻ đều nhận
thấy rằng: giáo dục kĩ năng sống cho lứa tuổi học sinh đặc biệt là học sinh cuối cấp
THPT là vô cùng cấp thiết.
-1-


Bộ giáo dục và đào tạo từ năm 2005 đã xác định lại mục tiêu của giáo dục Việt
Nam: chuyển từ mục tiêu cung cấp kiến thức là chủ yếu sang hình thành và phát triển
những năng lực cần thiết ở người học để đáp ứng sự phát triển CNH-HĐH đất nước. Thể
hiện mục tiêu của giáo dục thế kỉ XXI: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định và
học để cùng chung sống. Chủ trương chung của Bộ giáo dục là từ năm học 2009-2010
đưa vấn đề giáo dục kĩ năng sống cho học sinh vào tích hợp trong tất cả các môn học từ
cấp mầm non cho đến lớp 12.
Nhưng có lẽ đây là lĩnh vực khoa học còn khá mới mẻ và với nhiều nguyên nhân
khác nhau nên việc giảng dạy, huấn luyện kĩ năng sống vẫn còn nhiều điều bỏ ngỏ và
chưa được quan tâm đúng mức; chưa có sự thống nhất đồng bộ trong hệ thống giáo dục
phổ thông của cả nước.
3.1.2. Thực trạng đối với giáo viên:
Anh chị em giáo viên trường tôi và cả một số trường bạn, khi được hỏi tới vấn đề:
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thế nào để đạt hiệu quả? Đa số chỉ cười lảng tránh
hoặc thú thật: “đối phó thôi, thời gian đâu mà tích hợp”. Có người chân thành và cởi mở
hơn thì tâm sự: chủ trương chung là phải tích hợp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
nhưng thực tế chẳng có gì là cụ thể, thậm chí làm cho giờ học phức tạp và rối rắm hơn.
Bản thân tôi, khi mới tiếp cận với vấn đề cũng có những cảm nhận như thế. Hơn nữa,
trong bối cảnh hiện nay, học sinh chẳng mấy thiết tha với môn văn nên việc “tích hợp”
càng khó khăn hơn. Một điều đáng nói nữa là đa số phụ huynh, học sinh lớp 12, ngay cả
phần lớn giáo viên dạy khối học này cũng đều xác định mục tiêu quan trọng nhất của
việc học cho lớp 12 là “học để thi” chứ không phải là “học để làm người”. Xác định mục
tiêu như thế nên kiến thức phải luôn đặt ở thế “thượng phong”, việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh 12 chỉ mang tính chất “tự phát” và “tùy hứng” chứ không mang tính

chiến lược nên hiệu quả chưa có.
3.1.3. Thực trạng đối với học sinh:
Mỗi tháng, trường chúng tôi đều phải tổ chức những buổi họp Hội đồng kỉ luật để
xử lí những vụ đánh nhau mà đôi khi vì những lí do chẳng đâu vào đâu, các em cũng
“thượng cẳng tay, hạ cẳng chân” với nhau để lại hậu quả nghiêm trọng đối với từng cá
nhân học sinh, với gia đình, với nhà trường, với cả xã hội. Học sinh lớp 12 mà chỉ cần
một ánh mắt, một câu nói đùa của bạn đã có thể gây ra một vụ ẩu đả ra trò. Đó chẳng
phải do các em thiếu kĩ năng làm chủ cảm cảm xúc, kĩ năng ra quyết định phù hợp đó
sao? Mỗi ngày, các giáo viên chủ nhiệm đều phải xử lí tại lớp mình bao nhiêu trường
hợp nghỉ học để đi chơi game, bao nhiêu trường hợp vô lễ với thầy cô giáo…Xử lí
nhiều, kỉ luật nhiều, thậm chí có những trường hợp kỉ luật nặng (đuổi học) nhưng tình
-2-


hình vẫn không thay đổi được là bao. Trong trường có biết bao nhiêu em rơi vào tình
trạng “ăn không nên đọi, nói không nên lời”, khi được thầy cô giáo chỉ định trả lời một
câu hỏi thì ấp úng, lúng túng, không thể diễn đạt nổi… Vấn đề cốt lõi của cái gốc thực
trạng đau lòng ấy chính là do các em thiếu những kĩ năng sống quan trọng: kĩ năng làm
chủ cảm xúc, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng
tìm kiếm sự hỗ trợ…Thiết nghĩ, không thể khắc phục được thực trạng đáng buồn ấy
bằng kiểu “học thi” như bây giờ mà phải chú tâm thỏa đáng đến việc rèn luyện cho các
em những kĩ năng sống để “làm Người”
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến:
3.2.1. Mục đích của giải pháp :
a. Từ trước đến nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng sống, nhưng
nhìn chung các quan niệm đều thống nhất ở chỗ thấy được bản chất của kĩ năng sống là
kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống,
học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ năng sống là khả năng làm chủ bản thân
của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với người khác và với xã hội, khả năng ứng
phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.

Ở nước ta, kĩ năng sống thường được phân làm 3 nhóm:
- Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các KNS cụ thể
như: tự nhận thức, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự tin…
- Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm: giao tiếp, thương
lượng, bày tỏ cảm thông, hợp tác…
- Nhóm các kĩ năng ra quyết định một cách hiệu quả, bao gồm: tìm kiếm và xử lí
thông tin, ra quyết định, tư duy phê phán, tư duy sáng tạo…
Cũng cần phải nói thêm rằng kĩ năng sống của con người không phải tự nhiên mà
có được, nó phải được hình thành dần qua quá trình học tập, rèn luyện lâu dài trong cuộc
sống.
b.Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 12.
Ngày nay, những ai quan tâm đến giáo dục đều hiểu rằng: giáo dục thế hệ trẻ
không chỉ chú trọng dạy chữ mà còn phải quan tâm đến nhiệm vụ dạy người , con người
không chỉ cần có tri thức mà phải biết sống đúng, sống đẹp, sống có ích. Muốn như thế
con người nhất thiết phải có kĩ năng sống. Vì người có kĩ năng sống mới luôn vững vàng
trước mọi khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống
một cách tích cực và phù hợp; luôn lạc quan, làm chủ bản thân và làm chủ hoàn cảnh.
Có thể nói: kĩ năng sống là “chiếc chìa khóa vạn năng” giúp con người từng bước khẳng
-3-


định bản ngã của chính mình. Hơn thế, người có kĩ năng sống luôn có hành vi tích cực
để góp phần xây dựng và làm giảm bớt các tệ nạn xã hội, làm cho cuộc sống tươi sáng
và văn minh hơn.
Tuổi trẻ nói chung, đối tượng học sinh lớp 12 nói riêng là những chủ nhân tương
lai của đất nước, là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm tới.
Nếu thiếu kĩ năng sống, các em không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia
đình, cộng đồng và đất nước. Do đó đất nước khó có thể phát triển theo chiều hướng tích
cực như mong muốn.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay,

giáo dục kĩ năng sống cho học sinh còn nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ
thông, hướng tới mục tiêu: đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức,
tri thức, sức khỏe, nghề nghiệp; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các nhà trường phổ thông cũng là xu
thế chung của nhiều nước trên thế giới.
c. Đặc trưng của bộ môn ngữ văn lớp 12 và những ưu thế của nó trong việc giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh.
“Văn học là nhân học” (M.Gorki), văn học với tư cách là môn khoa học xã hội và
nhân văn, nó không chỉ giúp học sinh hiểu biết về văn hóa, xã hội, lịch sử, con người mà
còn giúp mỗi người tự hiểu hơn về chính mình; với tính chất là môn học công cụ, nó
giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ để tư duy, để học tập, để giao tiếp, để nhận thức; với
đặc trưng là môn học về giáo dục thẩm mĩ, nó bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu cảm
xúc thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh để hoàn thiện nhân cách.
Chương trình ngữ văn lớp 12 là phần văn học hiện đại xen kẽ với các bài học về
tiếng Việt và làm văn, phù hợp với ngôn ngữ cũng như kiểu tư duy, tình cảm hiện đại, rất
thiết thực cho việc giáo dục những kiến thức và các kĩ năng sống của con người hiện đại.
3.2.2.Nội dung của giải pháp :
a. Phương pháp tạo tình huống có tính chất ứng dụng thực tiễn đời sống:
*. Vai trò của phương pháp tạo tình huống có tính chất ứng dụng với việc rèn luyện kĩ
năng sống:
Thực tế, kĩ năng sống không thể chỉ được giới thiệu và giảng giải bằng lí thuyết.
Bởi “lí thuyết suông” có thể tạo ra sự nhàm chán hoặc suy nghĩ “văn nói láo, báo nói
phét” từ phía học sinh, khiến các em mất niềm tin vào lời thầy cô giảng. Hơn nữa, chỉ lí
thuyết không chắc hẳn các em sẽ rất chóng quên.
-4-


Ưu thế nổi bật nhất của việc tạo ra được những tình huống có ý nghĩa vận dụng

trong quá trình dạy học văn:
- Nâng cao tính thực tiễn của môn học, để văn học gắn với đời sống chứ không
phải là thế giới chỉ có trong sách vở.
- Nâng cao tính chủ động, sáng tạo và sự hứng thú của học sinh trong quá trình
học.
- Đặc biệt là sẽ rèn luyện, nâng cao kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng trình bày,
bảo vệ và phản biện ý kiến trước đám đông.
- Ngoài ra, giáo viên, trong vai trò của người dẫn dắt, cũng sẽ tiếp thu được rất
nhiều kinh nghiệm và những cách nhìn, những giải pháp mới từ phía học sinh để làm
phong phú bài giảng và điều chỉnh nội dung tình huống nghiên cứu.
*. Cách thức thực hiện:
Chính vì vậy, nên trong mỗi bài học tôi đều cố gắng tạo ra những tình huống có
vấn đề mang tính chất ứng dụng vào thực tế đời sống, rồi tổ chức cho học sinh tự giải
quyết. Việc giải quyết các tình huống như thế lúc đầu mang tính chất cá nhân sau đó
được thảo luận để đi đến một cách giải quyết tối ưu nhất.
Ví dụ: Trong khi dạy bài “Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống HIV/
AIDS” của Cô-phi-a-nan, tôi đặt ra tình huống: Nếu em có một người bạn thân bị nhiễm
HIV/ AIDS, em sẽ hành động như thế nào? Vì sao? (lưu ý: hãy trả lời bằng chính suy
nghĩ thật và tình cảm thật của mình)
Sau khi đưa ra tình huống, tôi tổ chức cho học sinh tự giải quyết vấn đề trên một
tờ phiếu học tập, tất cả mọi người đều phải đưa ra chủ kiến của riêng mình. Tôi chọn
một số ý kiến (có thể để các em xung phong, cũng có khi chỉ định bất kì), gọi một học
sinh khác đọc to các ý kiến đó lên cho cả lớp cùng nghe, cùng thảo luận, để thống nhất
cách giải quyết tốt nhất. Với tình huống trên, học sinh có thể có nhiều cách giải quyết
khác nhau, chẳng hạn:
- Tìm cách trốn tránh, xa lánh, không chơi với bạn nữa vì sợ bị lây nhiễm. Con
người ta không thể cẩn thận tuyệt đối được và trong khi tiếp xúc với người bệnh không
thể chắc chắn rằng mình không bao giờ bị lây nhiễm.
- Vẫn giữ mối quan hệ bạn bè nhưng thận trọng và giữ một khoảng cách nhất định
khi tiếp xúc với bạn ấy. Vì mặc dù biết HIV không lây qua đường tiếp xúc thông thường

nhưng vẫn sợ, đó là bệnh nan y chưa có thuốc chữa, nhỡ may sơ ý khi cả 2 cùng bị chảy
máu, mình sẽ tự hủy hoại chính mình.
- Quan tâm chăm sóc, gần gũi, giúp đỡ bạn bằng tất cả những gì mình có thể để
bạn không rơi vào tình trạng mặc cảm, chán nản, bi quan. Vì lúc này là lúc bạn cần mình
nhất, lúc thể hiện tình bạn đẹp nhất.
-5-



Sau khi cho các em thảo luận, giáo viên định hướng chung để thống nhất cách giải
quyết: Nên gần gũi, giúp đỡ bạn bằng cả tình thương và trách nhiệm nhưng tất nhiên
phải cẩn thận để tự bảo vệ cho chính mình. Tìm hiểu kĩ để có kiến thức thật vững vàng
về căn bệnh, cũng như chú ý, quan tâm đến diễn biến tâm lí, tình cảm của người bạn để
chăm sóc bạn hiệu quả nhất và an toàn nhất.
Ví dụ 2: Khi dạy “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, đến chi tiết: A Phủ đánh A Sử
trong lễ hội mùa xuân vì A Sử cậy quyền thế mà phá đám cuộc chơi. Tôi sẽ đặt ra tình
huống vận dụng: Giả sử, bạn là A Phủ, trong hoàn cảnh trên bạn sẽ xử sự thế nào? Học
sinh cũng sẽ có nhiều cách xử trí khác nhau như:
- Sẽ đánh A Sử như A Phủ đã đánh hắn để hắn bớt thói hống hách, cậy thế làm
càn.
- Sẽ tự kiềm chế mà bỏ đi để tránh bạo lực và để khỏi “rước vạ” vào thân.
- Sẽ tổ chức một cuộc gặp gỡ để dùng lí lẽ mà thuyết phục đối phương không nên
phá rối như vậy bởi vui là vui chung, nếu có thể, sẽ đi đến một thỏa thuận giữa hai bên
để cuộc vui vẫn được tiếp diễn, không có gì đáng tiếc xảy ra.
- Sẽ tổ chức, lôi kéo được nhiều người đứng về phía mình, đánh kẻ cậy quyền thế
như A Sử một cách có tổ chức để vẫn dạy cho hắn một bài học nhưng lại không chịu tội
một mình như A Phủ.
Sau cùng sẽ thống nhất phương án giải quyết: Tùy vào thái độ và mức độ phá đám
của “kẻ cậy quyền” để ứng phó. Tốt nhất vẫn là ngồi lại để nói chuyện với nhau, tìm
điểm yếu của hắn rồi dùng lập luận, lí lẽ để thuyết phục, buộc đối phương phải suy nghĩ

lại. Tất nhiên phải có nghệ thuật để “nâng cao tầm” của đối phương để sự tự phụ của hắn
được ru vỗ thì ắt xung đột bạo lực sẽ không xảy ra.
Việc tổ chức giải quyết các tình huống trải nghiệm kiểu như thế này thường tạo
cho học sinh tâm thế “nhập cuộc”, hứng thú, cảm thấy mình là người trong cuộc, cần
phải thể hiện suy nghĩ và hành động cụ thể. Qua những tình huống đó, học sinh dần dần
hình thành kĩ năng giải quyết các vấn đề và điều chỉnh hành vi theo hướng hợp lí.
b. Phương pháp tổ chức những hoạt động đối thoại đa dạng trong giờ dạy học:
*. Tầm quan trọng của phương pháp tổ chức hoạt động đối thoại trong dạy học và rèn
luyện kĩ năng sống:
Với kinh nghiệm của một người đã nhiều năm đứng trên bục giảng, tôi nhận thấy,
đối thoại có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh nhất
là học sinh lớp 12: đối thoại có tác dụng rèn cho học sinh thói quen hợp tác với bạn
trong quá trình học tập, tự đánh giá, điều chỉnh vốn tri thức của bản thân trong quá trình
-6-


thảo luận. Qua đối thoại,học sinh rèn luyện được kĩ năng nói, phát biểu trước tập thể,
tăng cường tinh thần trách nhiệm, tự tin, kích thích sự chủ động sáng tạo của các em.
Tổ chức cho học sinh đối thoại trên lớp không chỉ tạo điều kiện phát triển năng
lực cá nhân cho mỗi HS mà còn phát huy vai trò hỗ trợ của tập thể trong học tập khiến
cho những vấn đề đưa ra đối thoại được nhìn nhận đa dạng, phong phú, toàn diện hơn.
Hơn nữa, Khi HS được tự do phát biểu một cách độc lập, sáng tạo theo cảm nhận cá
nhân, giáo viên sẽ có cơ sở và điều kiện để phát huy vai trò chủ thể HS trong giờ học,
lớp học trở nên sinh động, và việc tiếp thu kiến thức của HS trở nên tự nhiên, sâu sắc
hơn.
Nhưng một nghịch lí đáng buồn là trong các nhà trường hiện nay hiện tượng lười
xây dựng, phát biểu bài trở nên ngày càng phổ biến. Việc ngại hỏi, ngại nói, ngại tranh
luận trong lứa tuổi học sinh, nhất là học sinh THPT đã và đang để lại những hậu quả bất
lợi cho cả thầy và trò, cho chất lượng dạy-học, trong đó người chịu thiệt thòi nhiều nhất
chính là các em; đã khá nhiều lần chúng tôi và các đồng nghiệp trao đổi, bàn tán về việc

chán nản trước hiện tượng lớp học này, lớp học kia lười phát biểu, xây dựng bài. Nhiều
lần thầy cô giáo ra câu hỏi, dù chỉ là những câu hỏi trong sách giáo khoa nhưng hỏi đi
hỏi lại 2, 3, 4 lượt nhưng các em vẫn ngồi im thin thít như tượng gỗ, và thầy cô rơi vào
hoàn cảnh: “miệng liền tai, nói lấy, nghe lấy rồi tự trả lời lấy” những tình huống như vậy
thường gây tâm lí ức chế cho thầy cô rất nhiều, thậm chí chán nản, không tha thiết với
công việc của mình.
Bên cạnh đó, việc lười xây dựng phát biểu bài của các em còn nảy sinh tâm lí thụ
động, chờ đợi, co cụm, ỷ lại nên học sinh khó nắm bắt và làm chủ kiến thức của bài học,
lâu ngày sẽ tạo thành thói quen thiếu tự tin, hạn chế tính tư duy sáng tạo của người học,
vì vậy trí nhớ giảm sút, học lực giảm, không phát huy được ưu điểm cũng như không
khắc phụ được nhược điểm của mình; đồng thời việc rèn luyện kỹ năng, khả năng giao
tiếp, kỹ năng ứng xử của các em với cộng đồng sẽ gặp nhiều hạn chế. Điều đó sẽ làm
cho giáo dục đào tạo ra một lớp người lạc hậu, kém năng động, kém sáng tạo, không
giám khẳng định mình, co mình như con rùa rụt cổ, không dám mạnh dạn đứng lên phê
phán , chống lại cái sai, cái ác, bảo vệ cái đúng cái thiện, thậm chí đồng tình, đồng lõa
với các thói hư tật xấu là điều khó tránh khỏi.
*.Cách thức thực hiện:
Chính vì những lí do như vậy nên trong quá trình dạy học văn, tôi đã cố gắng để
tạo ra những hoạt động đối thoại đa dạng. Ví dụ: Khi dạy tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài
xa”(Nguyễn Minh Châu), tôi tạo ra các hoạt động đối thoại sau:
-7-


- Đối thoại giữa giáo viên với học sinh thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở như:
Câu1: Cảm nhận của người nghệ sĩ trước “một cảnh đắt trời cho”? Vì sao Phùng lại nghĩ
đến sự đúc kết “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”? Câu 2: Ngay khi đang tận hưởng cái
khoảng khắc kì diệu mà hóa công ban tặng, Phùng đã phát hiện ra điều gì? Thái độ của
anh trước phát hiện ấy? Vì sao anh lại có thái độ như vậy? Câu 3: Qua 2 phát hiện của
Phùng, nhà văn muốn người đọc nhận thức điều gì về cuộc đời? Câu 4: Giả sử đảo vị trí
của 2 phát hiện ấy (cảnh bạo lực của gia đình hàng chài thấy trước; cảnh đẹp của chiếc

thuyền trên biển mờ sương thấy sau), giá trị của tác phẩm có gì thay đổi?... Với những
câu hỏi kiểu này, tôi thường khuyến khích cá nhân các em suy nghĩ, trả lời và thưởng
điểm cho những người có câu trả lời hay, sáng tạo.
- Đối thoại giữa học sinh với học sinh: Yêu cầu một em học sinh tự đặt ra câu hỏi,
gọi một em khác trả lời, 2 em tranh luận với nhau để bảo vệ ý kiến của riêng mình.
Chẳng hạn: Nếu bạn chứng kiến cảnh bạo lực của một gia đình nào đó như gia đình
hàng chài trong truyện, bạn sẽ làm thế nào? Sẽ có nhiều hướng giải quyết khác nhau,
người giáo viên sẽ làm trọng tài cho cuộc tranh luận giữa 2 em học sinh để đi đến một
cách giải quyết hợp lí nhất.
- Đối thoại giữa học sinh với giáo viên: Cho phép học sinh đặt ra những câu hỏi,
những tình huống đối với giáo viên, giáo viên sẽ chia sẻ suy nghĩ và kinh nghiệm của
mình với học sinh một cách dân chủ, cởi mở. Ví dụ có em học sinh hỏi: Nếu cô là người
đàn bà hàng chài, trong hoàn cảnh nghèo khổ và bị hành hạ như thế cô sẽ làm thế nào?
Tôi sẽ nói với các em rằng: nếu rơi vào hoàn cảnh như vậy, tôi sẽ suy nghĩ vì sao mình
lại nghèo, vì sao chồng mình lại có những hành vi như thế? trước hết phải tìm cách để
thoát nghèo; sau đó sẽ dùng lời lẽ, lập luận để chỉ ra cái sai trái trong hành động của
người chồng. Nếu bản chất của người chồng là tốt đẹp thì không có lí do gì mà cảnh
tượng ấy lại tái diễn
Để có những cuộc đối thoại đạt hiệu quả, tôi xác định những vấn đề trọng tâm, mở
ra nhiều cách giải thích khác nhau, kích thích khả năng tư duy sáng tạo, thúc đẩy HS bộc
lộ quan điểm và đối thoại. Những tình huống nêu ra để HS tham gia đối thoại vừa không
thoát li tác phẩm, vừa phù hợp với trình độ tiếp nhận của các em, đồng thời đảm bảo
cuộc tranh luận không mất trật tự, và không mất quá nhiều thời gian cho phép. Cần tránh
những hình thức câu hỏi mà khi trả lời, HS chỉ dựa vào những quan niệm và kinh
nghiệm đã có hay chỉ trình bày một chiều các luận cứ để khẳng định một kiến giải nào
đó. Ngoài ra, tôi cũng dự đoán những tình huống có thể xảy ra trong sự tiếp nhận của HS
để điều khiển cuộc đối thoại sao cho không rơi vào bế tắc mà luôn đi theo những con
đường hợp lí nhất.
-8-



c. Phương pháp dạy học theo nhóm
*.Ý nghĩa, tầm quan trọng của phương pháp dạy học nhóm
Làm việc theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học được áp dụng
trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay nhằm phát huy được tính tích cực của
người học, dạy học hướng về người học
Tôi tự nhận thấy rằng: ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì yêu
cầu làm việc theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết vì trong thực tế cuộc sống không có
ai là hoàn hảo, do đó làm việc theo nhóm có thể tập trung được những mặt mạnh của
một nhóm người, từng người trong nhóm sẽ bổ sung, hoàn thiện cho nhau những điểm
yếu, hơn nữa nó còn tạo ra được niềm vui và sự hứng thú trong học tập. Vì vậy, trong
những năm học qua tôi luôn có ý thức tích cực sử dụng phương pháp dạy học nhóm
nhằm phát huy được những điểm mạnh của nó.
Qua thử nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học văn trong những năm học
vừa qua, tôi thấy: bên cạnh việc giải quyết tốt nhiệm vụ nhận thức, tăng cường dạy học
theo nhóm giúp học sinh hình thành các phẩm chất nhân cách và các kỹ năng xã hội tốt
hơn, cụ thể là:
- Học theo nhóm phát huy cao độ vai trò chủ thể, tích cực của mỗi cá nhân trong
việc thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao; khi học theo nhóm, vai trò chủ thể, tính tự
giác, tích cực, sáng tạo, năng động, tinh thần trách nhiệm của học sinh thường được
phát huy hơn, cơ hội cho học sinh tự thể hiện, tự khẳng định khả năng của mình nhiều
hơn. Đặc biệt, khi học sinh học theo nhóm thì kết quả học tập thường cao hơn, hiệu quả
làm việc tốt hơn, khả năng ghi nhớ lâu hơn, động cơ bên trong, thời gian dành cho việc
học, trình độ lập luận cao và tư duy phê phán. Nhóm làm việc còn cho phép các em thể
hiện vai trò tích cực đối với việc học của mình - hỏi, biểu đạt, đánh giá công việc của
bạn, thể hiện sự khuyến khích và giúp đỡ, tranh luận và giải thích... rất nhiều những kĩ
năng nhận thức được hình thành, như: biết đưa ra ý tưởng của mình trong môi trường
cùng phối hợp, giải thích, học hỏi lẫn nhau bằng ngôn ngữ và phương thức tác động qua
lại, phát triển sự tự tin vào bản thân như là người học và trong việc chia sẻ ý tưởng với
sự tiếp thu có phê phán (của nhiều người cùng nghe về một vấn đề). Hay nói cách khác,

HS trở thành chủ thể đích thực của họat động học tập của cá nhân mình.
- Giúp hình thành các kĩ năng xã hội và các phẩm chất nhân cách cần thiết như: kĩ
năng tổ chức, quản lí, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng hợp tác, có trách nhiệm cao,
tinh thần đồng đội, sự quan tâm và mối quan hệ khăng khít, sự ủng hộ cá nhân và
khuyến khích tinh thần học hỏi lẫn nhau, xác định giá trị của sự đa dạng và tính gắn kết.
Có những cảm xúc về trách nhiệm với nhóm và khuyến khích ý thức tự giác, tự kỉ luật;
phương tiện rèn luyện và duy trì các mối quan hệ liên nhân cách.
-9-


- Thể hiện mối quan hệ bình đẳng, dân chủ và nhân văn: dạy học theo nhóm sẽ tạo
cơ hội bình đẳng cho mỗi cá nhân người học được khẳng định mình và được phát triển.
Nhóm làm việc sẽ khuyến khích HS giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho những
học sinh nhút nhát, thiếu tự tin, cô độc có nhiều cơ hội hòa nhập với lớp học. Thêm vào
đó, học theo nhóm còn tạo ra môi trường hoạt động mang bâù không khí thân mật, cởi
mở, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ trên cơ sở cố gắng hết sức và trách nhiệm cao của mỗi cá
nhân. Học sinh có cơ hội được tham gia tích cực vào hoạt động nhóm. Mọi ý kiến của
các em đều được tôn trọng và có giá trị như nhau, được xem xét, cân nhắc cẩn thận. Do
đó sẽ khắc phục tình trạng áp đặt, uy quyền, làm thay, thiếu tôn trọng...giữa những người
tham gia hoạt động, đặc biệt giữa thầy và trò.
*Cách thức thực hiện:
Để một giờ học trên lớp thành công với phương pháp dạy học nhóm, tôi thường
tiến hành theo 3 bước:
+Chuẩn bị: Trước khi diễn ra tiết học có sử dụng hoạt động nhóm trên lớp,
hướng dẫn cho học sinh cách chuẩn bị bài theo một dàn ý bao gồm các nội dung cơ bản
sau:
- Đọc kĩ phần “kết quả cần đạt” trong sách giáo khoa.
- Tìm hiểu trước những kiến thức về tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, đặc trưng
thể loại của tác phẩm (kiến thức này chủ yếu nằm trong phần “tiểu dẫn”)
- Đọc thật kĩ văn bản trước khi học (nếu là văn tự sự, kịch phải tóm tắt được cốt truyện;

nếu là tác phẩm thuộc thể loại trữ tình phải nắm bắt được mạch cảm xúc).
- Đọc phần chú giải trong sách giáo khoa để hiểu một số từ ngữ khó hoặc các điển tích,
điển cố, những chủ ý sáng tạo của nhà văn…
- Tự mình trả lời các câu hỏi trong phần “hướng dẫn học bài”; đánh dấu những chỗ chưa
giải quyết được hoặc còn băn khoăn để trao đổi với thầy cô và các bạn.
Khi đưa ra những yêu cầu chuẩn bị bài cho học sinh, tôi luôn kiểm tra tính hiệu quả
của công việc này bằng cách kiểm tra vở soạn bài kết hợp với những câu hỏi về bài mới.
Bởi vì nếu không chuẩn bị bài tốt, phương pháp dạy học nhóm không thể thành công.
+ Xây dựng được những nội dung thảo luận quan trọng và phù hợp để hoạt động
nhóm có hiệu quả:
- Thảo luận về kết cấu ngôn từ của tác phẩm: từ nhan đề, bố cục cho đến ngôn từ, hình
ảnh, biểu tượng nghệ thuật mang tính sáng tạo của tác giả. Ví dụ: Học tác phẩm “Vợ
nhặt” ( Kim Lân) giáo viên có thể hỏi: Tại sao tác giả lại đặt tên cho tác phẩm là “Vợ
nhặt”? Nhan đề đó có ý nghĩa và có quan hệ như thế nào với nội dung của tác phẩm?
- 10 -


Những từ ngữ tác giả dùng để miêu tả về nạn đói có gì đặc biệt? gợi cho em cảm giác
gì?
- Thảo luận về kết cấu hình tượng của tác phẩm: về các hình tượng nhân vật chính trong
tác phẩm tự sự; hình tượng cái tôi trữ tình trong các tác phẩm thuộc thể loại trữ tình. Ví
dụ: Cảm nhận về hình tượng “sóng” khi hạy học bài thơ “Sóng” (Xuân Quỳnh); hình
tượng Mị và A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài)?
- Thảo luận về hiệu quả của các giá trị nghệ thuật độc đáo trong tác phẩm qua hệ thống
những câu hỏi so sánh. Để tạo tình huống cho học sinh tham gia đàm thoại giáo viên có
thể liên hệ các tác phẩm có cùng đề tài chủ đề, cùng một kiểu kết cấu để tìm ra những
điểm giống nhau và khác nhau. Giáo viên hướng dẫn học sinh đi đến những kết luận,
đánh giá tính đặc sắc, độc đáo của từng tác phẩm và nhận xét về điều chúng giống nhau.
Để có kỹ thuật so sánh yêu cầu người học phải có khả năng khái quát, đánh giá và phải
có vốn kiến thức sâu rộng nhất định. Chẳng hạn khi học xong bài thơ Sóng ( Xuân

Quỳnh) học sinh có thể bộc lộ cảm nhận của mình về tình yêu trong mối liên hệ với
những bài thơ tình của Xuân Diệu.
- Thảo luận về nội dung cảm xúc, ý nghĩa khái quát, ý nghĩa tư tưởng của hình
tượng, của tác phẩm. Từ đó có sự liên hệ văn bản với đời sống. Đây là một việc làm có ý
nghĩa tổng kết cho những vấn đề phân tích chi tiết cụ thể về nội dung và ý nghĩa của
hình tượng nghệ thuật. Việc tổng hợp, khái quát lại thành những phạm trù ý, luận điểm
ngắn ngọn,cô đọng là rất cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc. Đây là một yêu cầu khá phức
tạp cho nên nó phù hợp với hoạt động thảo luận với những dạng câu hỏi về giá trị nội
dung và đặc sắc nghệ thuật, sự thay đổi tên gọi, sự liên tưởng và suy nghĩ về những vấn
đề được tác giả đặt ra trong bài thơ. Ví dụ học xong bài thơ “ Sóng” có thể thảo luận với
câu hỏi: Vì sao nhà thơ lại có ước muốn “Làm sao được tan ra, thành trăm con sóng
nhỏ”? Em lí giải như thế nào về ước muốn này của thi nhân, thái độ sống ấy có phù hợp
với những khao khát của tuổi trẻ hiện nay không? Hoặc khi học đoạn trích “Đất nước”
(Nguyễn Khoa Điềm), có thể cho học sinh thảo luận với câu hỏi: Em nghĩ gì về lời nhắn
nhủ của nhà thơ: “Em ơi em! Đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san
sẻ/ Phải biết háo thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước muôn đời”? Lời nhắn nhủ
ấy ngày nay có còn tác dụng gì với tuổi trẻ của đất nước không?...
+Tiến hành tổ chức thảo luận nhóm ở trên lớp:
- Mở đầu thảo luận: Giáo viên tổ chức phân nhóm, cho học sinh tự bầu trưởng
nhóm, giáo viên thông báo quy trình và quy định thảo luận.
- Giao nhiệm vụ cho từng nhóm; giáo viên chỉ làm nhiệm vụ quan sát, theo dõi mà
không tham gia ý kiến, không cắt ngang lời học sinh, không tỏ vẻ phản ứng nếu câu trả
lời, tranh luận không đúng với ý mình; khi học sinh đưa ra những câu trả lời ngờ
- 11 -


nghệch, không đúng, giáo viên nên nhanh chóng làm cho học sinh nhận thức được sự
không đúng của thông tin đó mà không làm ảnh hưởng đến cảm xúc, lòng tự trọng của
học sinh; khi học sinh trình bày, giáo viên phải nghe cẩn thận những điều học sinh nói
để hiểu các em định nói gì hoặc ghi chép nhanh lại những điểm cơ bản của mỗi ý kiến để

chuẩn xác kiến thức
- Sau khi thảo luận: Giáo viên phải tổng kết những ý kiến phát biểu thống nhất và
chưa thống nhất để mình tham gia vào những ý kiến chưa thống nhất và bổ sung thêm
những ý cần thiết; đánh giá các ý kiến phát biểu, nhận xét tinh thần, thái độ làm việc của
học sinh để thưởng điểm hoặc trừ điểm cho cá nhân của nhóm.
Tuy có nhiều ưu điểm và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc góp phần rèn
luyện những kĩ năng sống cho học sinh, song cũng cần lưu ý một điều rằng: sử dụng một
phương pháp dạy học không có nghĩa là đề cao và coi đó là phương pháp độc tôn, bởi lẽ
không có phương pháp nào là vạn năng. Hoạt động nhóm sử dụng trong dạy học môn
Ngữ văn nói chung và trong dạy học Ngữ văn lớp 12 nói riêng chỉ thực sự phát huy tác
dụng khi được phối hợp linh hoạt với các cách dạy học khác.
d. Tổ chức dạy học tác phẩm văn học theo phương pháp trò chơi.
* Ý nghĩa, tầm quan trọng của phương pháp trò chơi
Trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thực hiện
những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó.
Cùng với học tập, giao lưu với bạn bè, vui chơi cũng là một nhu cầu của thanh thiếu
niên học sinh. Lí luận và thực tiễn đã chứng tỏ rằng: nếu biết tổ chức cho thanh thiếu
niên vui chơi một cách hợp lí, lành mạnh thì đều mang lại hiệu quả giáo dục. Qua trò
chơi, lớp trẻ không những được phát triển về các mặt trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ mà còn
được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi tích cực. Chính vì vậy, trò chơi được sử
dụng như là một phương pháp dạy học quan trọng
Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động; học
sinh được lôi cuốn vào quá trình học hỏi một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần
trách nhiệm, đồng thời loại bỏ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập. Trong
quá trình chơi sẽ hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kỹ năng nhận xét, đánh
giá hành vi và khả năng quyết định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp,
từ đó sẽ hình thành được ở các em niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực sau
này. Vì học sinh luôn có nhu cầu thể hiện mình nên sự cạnh tranh tích cực trong trò
chơi còn kích thích sự tiếp thu nội dung bài học các em. Trò chơi còn giúp tăng cường
khả năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh, tính nhút

- 12 -


nhát từ đó sẽ được cải thiện. Vì thế môi trường sư phạm sẽ trở nên hòa đồng, thân thiện
hơn.
* Cách thức thực hiện:
Chính vì tự nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa thiết thực của phương pháp
trò chơi trong dạy học nên tôi có ý thức sử dụng phương pháp này trong quá trình
giảng dạy của mình. Nhưng do sự hạn chế của thời gian, của những đòi hỏi công phu,
phức tạp của phương pháp nên tôi mới chọn lọc để áp dụng vào việc dạy học một số
tác phẩm văn học ở lớp 12 như tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài), “Vợ nhặt”
(Kim Lân), “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” (Lưu Quang Vũ)…nhằm hướng tới mục
tiêu chủ yếu là rèn luyện các kĩ năng sống cho học sinh khối lớp này.
Để thực hiện phương pháp này trên lớp, tôi chia học sinh thành 4 nhóm (thường là
theo tổ), giao nhiệm vụ chuẩn bị cụ thể cho mỗi nhóm như sau:
- Nhóm 1: Có trách nhiệm tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả; về xuất xứ,
hoàn cảnh ra đời của tác phẩm; đánh giá khái quát về nội dung, nghệ thuật của tác
phẩm (đọc kĩ phần tiểu dẫn, tham khảo một số tài liệu khác, nếu chuẩn bị được một
clip tư liệu về tác giả và tác phẩm là tốt nhất)
- Nhóm 2: Có nhiệm vụ dàn dựng một tiểu phẩm dựa vào nội dung chính của tác
phẩm.
- Nhóm 3: Có trách nhiệm chuẩn bị trang phục, trang trí và các phương tiện phục vụ
cho tiết mục biểu diễn.
- Nhóm 4: Có trách nhiệm soạn thảo các câu hỏi và đáp án để khám phá giá trị của
tác phẩm; chủ trì cho hoạt động hội thảo, tranh luận giữa các ý kiến khác nhau trên
lớp.
Công việc chuẩn bị phải được giao cho học sinh trước đó 1 tuần, giáo viên cũng
tham gia vào việc tư vấn, điều chỉnh, huấn luyện các em luyện tập cho thật tốt trước khi
tiến hành “chơi”.
Sau thời gian chuẩn bị theo quy định, giáo viên báo trước học sinh thời gian giờ

“học - chơi”. Vào học, các nhóm sẽ “trình diễn” phần của mình một cách tự giác theo
quy định, giáo viên chỉ là người theo dõi, lắng nghe. Tiết học sẽ được thể hiện theo
trình tự sau:
- Mở đầu tiết học, nhóm trưởng của nhóm 1 sẽ trong vai trò một người dẫn chương
trình, giới thiệu khái quát về tác giả - tác phẩm; trình chiếu lên máy chiếu đa năng đoạn
phim tư liệu về tác giả- tác phẩm.
- Sau đó, đại diện của nhóm 2 sẽ giới thiệu về vở diễn; các thành viên lên diễn lại
tiểu phẩm mà các em đã chuẩn bị.
- 13 -


- Đại diện của nhóm 4 sẽ chủ động đưa ra các câu hỏi hội thảo để tất cả thành viên
trong lớp tham gia; tổ chức cho các bạn thảo luận xoay quanh giá trị nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm.
- Cuối cùng, giáo viên nhận xét, đánh giá và cho điểm từng phần.
Để tránh nhàm chán và tạo sự cạnh tranh lành mạnh trong học tập giữa các nhóm, tôi
thường thay đổi nhiệm vụ theo kiểu luân phiên giữa các nhóm để nhóm nào cũng được
“thử sức” với các nhiệm vụ khác nhau.
Khi tiến hành thử nghiệm dạy học theo phương pháp này tôi nhận thấy rằng, những
giờ dạy học đó không chỉ đem lại hứng thú cho học sinh, rèn luyện được nhiều kĩ năng
sống quan trọng cho các em mà còn tạo thêm niềm say mê nghề nghiệp, niềm tin yêu
học sinh của giáo viên. Điều thú vị là 100% học sinh trả lời rất thích học những giờ học
kiểu như thế này.
3.3. Khả năng áp dụng giải pháp:
Học sinh và giáo viên học tập và giảng dạy văn học ở trường THPT
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp:
Sau một năm thực hiện thí điểm các biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh lớp
12 qua môn Ngữ văn ở lớp 12A5 trường THPT Nguyễn Trãi, tôi nhận thấy: kết quả học
tập đã có những chuyển biến đáng mừng, nhiều em tiếp thu bài chủ động, có chiều sâu,
phát huy cá tính sáng tạo; những kĩ năng sống quan trọng như kĩ năng giao tiếp, kĩ năng

tự nhận thức, kĩ năng hợp tác, kĩ năng giải quyết vấn đề…được hình thành và phát triển
bền vững; hứng thú dạy và học ở cả thầy và trò đều tăng lên đáng kể.
Kết quả khảo sát chất lượng và thăm dò ý kiến học kì II trên 44 học sinh tại lớp
12A5 như sau:
Học lực
Kĩ năng
Hứng thú học tập
- 56,8% xếp loại - 70% các em có kĩ năng giao - 75% hứng thú cao
giỏi
tiếp tốt.
với môn học.
- 43,2% xếp loại - 80% tự nhận thức được năng - 65% tích cực tham
khá
lực, sở thích, sở trường của bản gia đối thoại, xây dựng
- 0 % xếp loại trung thân, hoàn cảnh của gia đình, bài.
bình
nhu cầu của xã hội.
- Số học sinh trây lười,
- Không còn học - 70% có khả năng tự giải quyết không làm việc trong
sinh yếu - kém
các vấn đề của bản thân, của tập mỗi giờ học còn không
- 14 -


thể hợp lí, hợp tình

đáng kể

Kết quả này là nguồn động viên rất lớn đối với bản thân tôi và đó là tiền đề vững
chắc cho những năm tiếp theo để tôi có thể làm tròn nhiệm vụ của một người thầy đúng

nghĩa- không chỉ dạy chữ mà còn góp phần dạy Người.
3.5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến:
Giáo viên và học sinh trường THPT Nguyễn Trãi
3.6. Các thông tin cần được bảo mật : không
3.7. Các điều kiện để áp dụng sáng kiến :
- Giáo viên và học sinh phải có niềm say mê môn học.
3.8. Tài liệu :
- Một số phương pháp dạy học tích cực - PGS.TS Vũ Hồng Tiến.
- Giáo dục kĩ năng sống cho hoc sinh THPT- Tiến sĩ Nguyễn Văn Huấn.
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 12.
- Sách giáo viên ngữ văn lớp 12.
4. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền:
Thái Bình, ngày 25 tháng 5 năm 2019
CƠ QUAN ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

(xác nhận)
Nguyễn Thị Ngọc Lan

XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG
- 15 -


Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC SỞ GD VÀ ĐÀO TẠO

- 16 -




×