Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tác động của các hệ tư tưởng thời kì Bắc thuộc tới văn hóa làng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.7 KB, 23 trang )

Mục lục:

I. Mở đầu.........................................................................................................................2
II. Nội dung...................................................................................................................... 2
1. Ảnh hưởng của Nho giáo tới văn hóa làng xã người Việt..........................................4
1.1. Sơ lược về hoàn cảnh, người sáng lập và phát triển Nho giáo..................................4
1.2. Những triết lý Nho giáo.............................................................................................6
1.3.Tư tưởng Nho giáo tác động như thế nào tới văn hóa làng Việt................................11
1.4. Tích cực và tiêu cực của tác động, truyền bá Nho giáo tới văn hóa làng xã người
Việt.................................................................................................................................. 13
2. Ảnh hưởng của Đạo giáo tới đời sống văn hóa làng xã người Việt........................14
2.1. Sơ lược về Đạo giáo................................................................................................15
2.2. Những luân lý trong Đạo giáo.................................................................................15
2.3 Tác động của truyền bá Đạo giáo tới văn hóa làng xã Việt thời Bắc thuộc..............17
2.4 Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Đạo giáo...............................................18
3. Ảnh hưởng của đạo Phật tới đời sống văn hóa làng xã người Việt.........................18
3.1 Thời gian hình thành và người sáng lập...................................................................18
3.2 Giáo lý đạo Phật.......................................................................................................18
3.3. Ảnh hưởng giáo lý đạo Phật tới đời sống văn hóa làng Việt....................................21
3.4 Những tác động tích cực và tiêu cực của đạo Phật...................................................22
III.Kết luận.................................................................................................................... 23

1


ĐỀ BÀI: PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG LỊCH SỬ CỦA QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ,
TIẾP THU HỆ TƯ TƯỞNG TRONG THỜI KÌ BẮC THUỘC TỚI ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA LÀNG XÃ NGƯỜI VIỆT.
I.Mở đầu:
Trong hơn một nghìn năm đô hộ nước ta, các triều đại phương Bắc đã tích cực thực
hiện mọi biện pháp nhằm tăng cường đàn áp nhân dân ta về quân sự, đồng hóa về xã hội,


biến đất nước ta thành quận huyện của Trung Quốc. Trong đó, cụ thể Trung Quốc đã
truyền bá nhằm đồng hóa người dân Giao Chỉ, Cửu Chân thành người Hán. Trong quá
trình truyền bá, “giáo hóa”, người Việt có chịu nhiều tác động, tiếp thu nhiều hệ tư tưởng,
làm ảnh hưởng đến văn hóa làng xã người Việt. Xong, trong cuộc đấu tranh lâu dài, phức
tạp để bảo vệ văn hóa truyền thống thời Bắc thuộc, nhân dân ta đã biết tiếp thu có chọn
lọc những tinh hoa văn hóa ngoại nhập phù hợp với đặc tính, tâm hồn Việt Nam để làm
phong phú văn hóa truyền thống. Trong các nhóm làng Việt cổ vẫn được nhân dân ta bảo
tồn và phát triển văn hóa bản địa, nội sinh đã tích lũy qua hàng ngàn năm trước đó. Trên
cơ sở ý thức dân tộc và tinh thần tự cường nhưng không bảo thủ đóng kín, nhân dân ta đã
biết kết hợp giữa truyền thống và cách tân sao cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, đã tiếp
thu tư tưởng của các văn hóa ngoại nhập. Một sự tiếp cận có ý thức, sự dung hợp.
II. Nội dung:
Làng là một đơn vị cộng cư có một vùng đất chung của cư dân nông nghiệp, một
hình thức tổ chức xã hội nông nghiệp tiểu nông tự cấp tự túc , mặt khác là mẫu hình xã
hội phù hợp, là cơ chế thích ứng với sản xuất tiểu nông, với gia đình – tông tộc gia
trưởng, đảm bảo sự cân bằng và bền vững của xã hội nông nghiệp ấy. Khi nghiên cứu về
văn hóa làng và làng văn hóa, một số nhà nghiên cứu đã nêu bật những đặc trưng làng
Việt Nam. Đó là: Ý thức cộng đồng làng; ý thức tự quản - quyền quản lý làng xã được thể
hiện trong các hương ước của làng; tính đặc thù độc đáo rất riêng của mỗi làng trong tập
quán, văn hóa, ngôn ngữ ứng xử.

2


Khoảng giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên, gần như là cùng một lúc, ở
hai nền văn minh bậc nhất thế giới Ấn Độ và Trung Quốc có một sự phát triển mạnh mẽ
văn hóa vật chất cũng như tinh thần. “Thời đại trục” đó đã sản sinh nhiều trào lưu tư
tưởng - tôn giáo trong đó có Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo. Ba trào lưu tư tưởng trên
trải qua biến cố thăng trầm của lịch sử đã chứng tỏ sức sống lâu bền và từ quê hương,
chúng lan tỏa trên một khu vực rộng lớn của Châu Á, đóng vai trò quan trọng trong lịch

sử tư tưởng nhiều dân tộc, trong đó có Việt Nam. Nho giáo và Đạo giáo được những viên
quan đô hộ người Hán du nhập, còn Phật giáo được những nhà sư Ấn Độ cũng như Trung
Quốc đưa vào. Dần dần, chúng cắm rễ trong đời sống tinh thần và hòa lẫn vào nền văn
hóa bản địa người Việt. Thời kỳ Bắc thuộc là một khoảng thời gian rất dài với nhiều biến
động và nhiều luồng tư tưởng, trong phạm vi bài tiểu luận này chỉ xin đề cập đến sự tác
động của ba luồng tư tưởng Nho, Đạo,Phật tới những đặc trưng làng việt Nam. Mỗi
một hệ thống triết học - tôn giáo , bao giờ cũng đồng thời là một hệ thống giá trị. Hệ
thống này bao gồm ba loại giá trị : Giá trị phổ biến, giá trị nhóm và giá trị cá nhân. Giá trị
phổ biến là giá trị nhân loại hay đa phần nhân loại thừa nhận. Giá trị nhóm là giá trị của
nhóm xã hội, trong đó có nhà tư tưởng sáng tạo ra hệ thống, thừa nhận. Nhưng một khi
các hệ thống đó được truyền bá từ nơi này đến nơi khác thì cấu trúc của chúng không còn
nguyên vẹn nữa. Những điều kiện xã hội – văn hóa ở nơi mà các hệ thống này du nhập
đến sẽ làm biến đổi cấu trúc của chúng. Một hiện tượng thường xảy ra là các giá trị phổ
biến được giữ lại, còn các giá trị nhóm thì biến đổi cho phù hợp với tình hình nhóm xã
hội ở vùng đất mới (…) Nhưng qua thời gian, kết cấu nhóm – xã hội mà nhóm quan trọng
nhất là giai cấp cũng biến chuyển. Vì vậy chỉ có các giá trị phổ biến trong các hệ thống tư
tưởng tôn giáo là có sức sống lâu dài hơn cả. (7) Người Việt Nam khi tiếp thu các luồng
tư tưởng thường có khuynh hướng tiếp thu các giá trị phổ biến, các giá trị này luôn tồn tại
và được thừa nhận trong các điều kiện lịch sử xã hội khác nhau. Vì vậy, chúng ta ít thấy
có sự xung đột mạnh mẽ giữa các hệ thống lý luận, thậm chí ngay cả những người cầm
quyền đôi khi cũng phải dung hòa, sử dụng những ưu điểm khác nhau của các hệ thống tư
tưởng du nhập này. Các giá trị tinh thần ấy khi đưa vào đời sống đều có tác động sâu sắc
đến văn hóa Việt Nam, trước hết là văn hóa làng.

3


1. Ảnh hưởng của Nho giáo tới văn hóa làng xã người Việt:
1.1. Sơ lược về hoàn cảnh, người sáng lập và phát triển Nho giáo:
Nói đến Nho giáo thì việc đầu tiên không thể không nhắc tới: đó là Khổng Tử.

Người ta bình luận khen tặng Khổng Tử ra sao đều không thể gọi là quá lời, trước đây
hơn 2000 năm, đại sử học gia Tư Mã Thiên khi đi thăm Khúc Phụ quê hương của Khổng
Tử từng cảm khái viết: “Khổng Tử áo vải, truyền hơn 10 đời, được các học trò coi là tổng
sư, từ thiên tử, vương hầu đến thứ dân đều coi ông là bậc chí thánh”.
Năm1982, một học giả Mỹ viết “Hành vi cao quý và tư tưởng lý luận đạo đức của
Khổng Tử, không chỉ ảnh hưởng tới Trung Quốc mà còn ảnh hưởng tới trần nhân loại”
Khổng Tử là người nước Lỗ thời Xuân Thu tên là Khâu, tự là Trọng Ni. Từ thiếu niên đến
30 tuổi, Khổng Tử chuyên cần học tập và tập luyện nắm vững các tri thức về lễ nghi, âm
nhạc, xạ tiễn, ngự xạ, thư, số là sau ngành tri thức căn bản thời ấy. Sau đó ông đi giảng
dạy bốn phương, nghiên cứu học vấn trong vài chục năm rồi san định, biên soạn các sách
được đời sau gọi là lục kinh như Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu.
Khổng Tử sống trong thời kỳ thay đổi lớn, biến động lớn. Từ lâu, thiên tử nhà Chu
đã mất hết uy quyền, quyền lực rơi vào tay các vua chư hầu, cục thể xã hội biến chuyển
thay đổi nhanh chóng, người ta mỗi người chọn cho mình những thái độ sống khác nhau.
Là một triết nhân thái độ của Khổng Tử hết sức phức tạp, ông vừa hoài cổ, vừa sùng
thượng đổi mới. Trong tâm trạng phân vân, dần dần ông hình thành tư tưởng lấy nhân
nghĩa để giữ vững sự tồn tại chung và khai sáng hệ thống tư tưởng lớn nhất thời Tiên Tần
là học phái Nho giáo tạo ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Trung Quốc.
Hệ thống tư tưởng Nhân và Nghĩa của Khổng Tử, bất kể hàm nghĩa phong phú sức
tạp đến đâu, nói cho cùng cũng chi và thiết lập một trật tự nghiêm cẩn của bậc đế vương
và thành lập một xã hội hoàn thiện. Hệ thống tư tưởng của ông ảnh hưởng tới hơn 2500
năm lịch sử Trung Quốc.
Khổng Tử tuy sáng lập ra học thuyết Nhân Nghĩa Nho gia nhưng không được các
quân vương thời Xuân Thu coi trọng mà phải do các hậu học như Tử Cống, Tử Tư, Mạnh
Tử, Tuân tử truyền bá rộng về sau. Trải qua nhiều nỗ lực của giai cấp thống trị và các sĩ

4


đại phu triều Hán, Khổng tử và tư tưởng Nho gia của ông mới trở thành tư tưởng chính

thống. Đổng Trọng Thư đời Hán hấp thu nhân cách hoàn thiện và học thuyết nhân chính
của Khổng Tử, phụ hội thêm Công Dương Xuân Thu lợi dụng âm dương bổ sung thay
đổi lý luận trở thành học thuyết thiên nhân hợp nhất cùng với học thuyết chính trị của
Tuân Tử, khoác tấm áo thần học cho Nho học.
Từ đời Hán đến đời Thanh, Khổng học chủ yếu dùng hình thức kinh truyện để lưu
truyền. Đường Thái Tông sau khi hoàn thành toàn diện thống nhất quốc gia, liền cho kinh
học gia Khổng Dĩnh Đạt chú giải, hiệu đính lại năm kinh Nho gia là Dịch, Thi, Thư, Tà
tuyên, Lễ ký thành bộ Ngũ kinh chính nghĩa gần như tổng kết toàn diện kinh học từ đời
Hán đến đó. Ngũ kinh chính nghĩa trở thành sách giáo khoa dùng cho thi cử đời Đường.
Khổng học càng được giai cấp thống trị tín nhiệm, Đường Thái Tông nói rất rõ “Nay trẫm
yêu thích nhất là đạo của Nghiêu Thuấn và đạo của Chu Không coi như chim thêm cánh,
như cá gặp nước, không thể không có được”. Từ đó, Khổng Tử với đế vương, với chính
phủ các triều đại đều có quan hệ như Đường Thái Tông hình dung.
Khi lịch sử phức tạp của Trung Quốc tiến vào thời kỳ phát đạt - thời kỳ nhà Tống,
vị hoàng đế khai quốc là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lập tức chủ trì nghi lễ long
trọng tế tự Khổng Tử để biểu dương lòng thiếu đễ, vua còn thân chủ trì khoa thi tiến sĩ
mà nội dung hoàn toàn theo Nho học. Đối với Nho học mới bột hưng ở thời Tống, chúng
ta thường gọi đó là Lý học.
Nội dung và kết cấu của Lý học hết sức rộng lớn, bắt đầu từ Hàn Dũ đời nhà
Đường, trải qua nỗ lực của Tôn Phục, Thạch Giới, Hồ Viên, Chu Đôn Di, Thiệu Ung,
Thương Tái, Trình Di, Trình Hạo đời Bắc Tống cho đến Chu Hi đời Nam Tống là người
tập đại thành hoàn chỉnh hệ thống tư tưởng Lý học. Lý học trình Chu nhấn mạnh Nhân,
Lễ, Nghĩa, Trí, Tín như lễ trời (thiên lý) dùng học thuyết Khổng Mạnh làm nguồn gốc,
hấp thu thêm các học thuyết tư tưởng của Phật giáo, Đại giáo cung cấp sự nhu yếu cho
xã hội quân chủ chuyên chế. Chu Hi tập chú giải thích các kinh điển Nho gia như Luận
ngữ, Mạnh Tử trở thành những sách giáo khoa bắt buộc của sĩ tử trong xã hội phong kiến
và là tiêu chuẩn pháp định trong khoa cử của chính phủ. Điều ấy xem ra xa với chủ

5



trương thiện lương, trí tuệ, ngoan cường của Khổng Tử ở thời Xuân Thu, góp phần tạo
nên một hình ảnh Khổng Tử khác mang màu sắc vì yêu cầu giữ thiên lý mà diệt mất nhân
đục, đạo mạo bàn xuông dẫn đến tiêu diệt cá tính, thậm chí hư ngụy, giả dối nữa.
Ngoài Lý học của Trình Chu có địa vị chi phối, phái Công học của Trần Lượng,
Diệp Thích, phái Tâm học của Vương Dương Minh cũng đều tôn sùng Khổng Tử, hấp thu
một phần tư tưởng cơ bản của ông. Những học thuyết này đều được lưu truyền rộng rãi
và tạo ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội văn hoá Trung Quốc.
Do vì Nho học được các sĩ đại phu tôn sùng, được các vương triều đua nhau đề
xướng nên Nho học thuận lợi thẩm thấu trong mọi lĩnh vực trong mọi giai tầng xã hội, từ
rất sớm nó đã vượt qua biên giới dân tộc Hán, trở thành tâm lý của cộng đồng dân tộc
Trung Quốc, là cơ sở văn hoá của tín ngưỡng và tập tính.
1.2. Những triết lý Nho giáo:
Chúng ta tìm hiểu vì Nho giáo khi nó đã tồn tại hơn 2000 năm, luôn được cải biến
được bổ sung và mang các bộ mặt khác nhau qua các thời kỳ. Nhiều học giả đã tốn rất
nhiều giấy mực để sưu tâm, trích dẫn và bàn cãi chung quanh những câu chữ trong sách
vở của Nho giáo từ trước tới nay. Việc làm ấy thường dẫn đến những nhận định chủ quan,
giản đơn và phiến diện. Muốn khen hay chê người ta đều có thể trích dẫn những lời lẽ rất
hấp dẫn từ trong kho sách của Nho giáo. Nhưng khi để ý rằng Khổng Tử - người sáng lập
ra Nho giáo - khi đề ra những điều căn bản trong học thuyết của Nho giáo cũng đang ở
tâm trạng phân vân, mâu thuẫn, vừa hoài cổ, vừa sùng thường, và bối cảnh xã hội lúc ấy
cũng là lúc giằng co, giành giật giữa chế độ nô lệ và chế độ phong kiến. Sau này khi Nho
học được cải biến để phục vụ ý đồ của giai cấp thống trị thì nó càng chứa đựng nhiều
mâu thuẫn. Vì thế không thể tìm hiểu Nho học theo lối trích dẫn, kinh viện vì nó chỉ càng
dẫn ta vào ngõ cụt. Để tìm hiểu Nho học không thể không xem xét trên giác độ phương
pháp duy vật lịch sử... Chúng ta không phân tích những sự kiện tư tưởng bằng bản thân tư
tưởng mà phải tìm hiểu tư tưởng gắn liền với những điều kiện xã hội cụ thể trong đó nó
đã nảy sinh, phát triển và suy tàn.

6



Không thể có một thứ Nho giáo chung cho các thời đại, một thứ Nho giáo nhất
thành, bất biến ở khắp mọi nơi.
Khi Khổng Tử đề ra học thuyết của ông và đi chu du thiên hạ để mong được sử
dụng thì ông đã thất bại. Điều đó không có nghĩa rằng xã hội Đông Chu đã xấu hơn xã
hội thời Ngũ đế tam vương mà chỉ có nghĩa rằng những tư tưởng của ông muốn bảo vệ
nền chuyên chính của quý tộc chủ nô không còn phù hợp nữa với xã hội và uy thế chính
trị đang đang dần dần thuộc về tầng lớp địa chủ mới.
Khi học thuyết của Khổng Tử được đặt lên vị trí độc tôn thì không có nghĩa rằng
vua nhà Hán đã có đạo đức, nhân nghĩa hơn nhà Tần mà chỉ vì chế độ trung ương tập
quyền của nhà Hán đang đòi hỏi một hệ tư tưởng thích hợp với nền kinh tế tiểu nông và
bộ máy phong kiến quan liêu của nó.
Khi Nho giáo đã mang hình thức duy tâm tư biên với Lý học đời Tống thì không
phải lịch sử đã tạo ra mấy nhân vật “lỗi lạc” mà chỉ vì giai cấp phong kiến đã suy tàn đã
cần thiết phải đổi mới các hệ tư tưởng cũng suy tàn như nó. Nho giáo lúc đó hầu như đã
kiệt sức và được bổ sung bằng giáo lý của Phật, Lão.
Những tư tưởng triết học bản thể luận và những tư tưởng biến dịch của vũ trụ có
thể xem Khổng Tử đứng trên quan điểm triết học của Kinh Dịch. Theo tư tưởng của kinh
này thì uyên nguyên của vũ trụ, của vạn vật là thái cực. Thái cực chứa đựng một năng lực
nội tại mà phân thành lưỡng nghi. Sự tương tác giữa hai thế lực âm - dương mà sinh ra tứ
tượng. Tứ tượng tương thôi sinh ra bát quái và bát quái sinh ra vạn vật. Vậy là sự biến đổi
có gốc rễ ở sự biến đổi âm - dương.
Những tư tưởng triết học về chính trị - đạo đức của Nho gia được khảo sát chủ yếu
trong sách “luận ngữ”. Ngoài ra, còn có thể bổ cứu thêm trong Ngũ kinh: “Thi, Thư, Lễ,
Dịch và Xuân Thu” và các sách khác như “đại học”, “Trung dung”
Qua hệ thống kinh điển có thể thấy hầu hết là các kinh, các sách viết về xã hội,
chính trị - đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho giáo.

7



Quan điểm về chính trị - đạo đức của Nho gia được thể hiện ở những tư tưởng chủ
yếu sau:
Một là: Xã hội là một tổng thể những quan hệ xã hội giữa con người với con
người nhưng Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền tảng
của xã hội, đề cao vai trò của những quan hệ ấy và thâu tóm những quan hệ này vào ba
rường mối chủ đạo (gọi là tam cương). Trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha
- con và chồng - vợ. Nếu xếp theo “tôn ti trên - dưới” thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu
xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ. ”… Điều này
phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia.
Để giải quyết đúng đắn các quan hệ xã hội, mà trước hết là mối quan hệ “tam
cương”, Khổng Tử đã đề cao tư tưởng “chính danh”. Để thực hiện chính danh, Khổng Tử
đặc biệt coi trọng “Nhân trị” chức không phải “pháp trị”
Hai là: Xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã
hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh. Lý tưởng của Nho gia là xây dựng một
“xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự trên dưới, có vua sáng - tôi hiền, cha từ con thảo, trong ấm - ngoài êm; trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua
chúa, quan lại đến thứ dân.Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc, thị tộc cũ cũng
như của giai cấp địa chủ phong kiến đang lớn lên.
Đối với quan hệ vua - tôi, Khổng Tử chống việc duy trì ngôi vua theo huyết thống
và chủ trương “thượng hiền” không phân biệt đẳng cấp xuất thân của người ấy. Trong
việc chính trị vua phải biết “trọng dụng người hiền đức, tài cán và rộng lượng với những
kẻ cộng sự...”.
Trong việc trị nước cũng như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được đức nhân,
“lễ” được Khổng Tử rất mực chú trọng. Lễ ở đây là những quy phạm nguyên tắc đạo đức.
Ông cho rằng do vua không giữ đúng đạo vua, cha không giữ đúng đạo cha, con không
giữ đúng đạo con... nên thiên hạ vô đạo. Phải dùng lễ để khôi phục lại chính danh.

8



Về đạo cha con, Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ hiếu làm đầu và
cha đối với con phải lấy lòng tự ái làm trọng. Trong đạo hiếu của con đối với cha mẹ, dù
rất nhiều mặt, nhưng cốt lõi phải ở tâm thành kính. “Đời nay hễ thấy ai nuôi được cha mẹ
thì người ta khen là có hiếu. Nhưng loài thú vật như chó, ngựa người ta cũng nuôi được
vậy. Cho nên, nuôi cha mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì nuôi thú vật đâu.”
Còn Mạnh Tử, ông kịch liệt lên án những ông vua không lấy điều nhân nghĩa làm
gốc, chỉ vui thú lợi lộc riêng, tà dâm bạo ngược, dùng sức mạnh để đàn áp dân; ông gọi
đó là “bá đạo” và thường tỏ thái độ khinh miệt: “kẻ hại nhân là tặc, kẻ hại nghĩa là
tàn”.Người tàn tặc là một kẻ thất phu. Nghe nói giết tên Trụ, chứ chưa nghe nói giết vua
Trụ.
Ba là: Nho giáo lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng
“đại đồng”. Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội, cho nên, nền giáo
dục dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong bảng giá trị
đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là “Nhân”. Những chuẩn mực khác như: Lễ,
nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu... đều là những biểu hiện của Nhân. Chữ Nhân trong triết học
Nho gia được Khổng Tử đề cập với ý nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo
đức cơ bản, quy định bản tính con người và những quan hệ giữa người với người từ trong
gia tộc đến xã hội. Nó liên quan đến các phạm trù đạo đức chính trị khác như một hệ
thống triết lý chặt chẽ, nhất quán tạo thành bản săc riêng trong triết lý nhân sinh của ông.
Theo ông, đạo sống của con người là phải “trung dung”, “trung thứ” nghĩa là sống
đúng với mình và sống phải với người. Xã hội thời xuân thu là thời kỳ đang trải qua
những biến động lịch sử sâu sắc, Khổng Tử đã chủ trương dùng nhân đức để giáo hoá con
người, cải tạo xã hội. Người có đức nhân là người làm được năm điều trong thiên hạ
“cung, khoan, tín mẫu, huệ”. Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín
thì người tin cậy, mẫu thì có công, huệ thì đủ khiến được người. Người có nhân theo
Khổng Tử là người “trước làm những điều khó, sau đó mới nghĩ tới thu hoạch hết quả”.

9



Như vậy, nhân là đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của con người, nên
“nhân” chính là đạo làm người. Đạo làm người hết sức phức tạp, phong phú nhưng chung
quy lại chỉ là những điều sống với mình và sống với người. là “mình muốn lập thân thì cũng
giúp người lập thân, mình muốn mình thành đạt thì cũng giúp người thành đạt”, “việc gì mình
không muốn chớ đem cho người”.
Người muốn đạt đức nhân phải là người có “trí” và “dũng”. Nhờ có trí, con người
mới có sự sáng suốt, minh mẫn để hiểu biết đạo lý, xét đoán được sự việc, phân biệt được
phải trái, thiện ác, để trau dồi đạo đức và hành động hợp với “thiên lý”. Nhưng người
muốn đạt “nhân” chỉ có “trí” thôi chưa đủ, mà cần phải có dũng khí nữa. Người nhân có
dũng phải là người có thể tỏ rõ ý kiến của mình một cách cao minh, có thể hành động một
cách thanh cao, khi vận nước loạn lạc, khi người đời gặp phải hoạn lạn. Người nhân có
dũng mới tự chủ đựoc mình, mới quả cảm xả thân vì nhân nghĩa. Khi cơn thiếu thốn cực
khó không nao núng làm mất nhân cách của mình, khi đầy đủ sung túc không ngả
nghiêng xa rời đạo lý.
Bốn là: Vấn đề bản tính con người. Việc giải quyết những vấn đề chính trị – xã
hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học thuyết khác của Trung hoa thời cổ phải đặt ra và
giả quyết vấn đề bản tính con người. Trong Nho gia không có sự thống nhất quan điểm
về vấn đề này nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông “bản tính người vốn là
thiện”. Thiện là tổng hợp những đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh như,
Nhân, Lễ, Nghĩa...
Mạnh Tử thần bí hoá những giá trị chính trị - đạo đức đến mức coi chúng là tiên
thiên. Do quan niệm bản tính con người là thiện nên Nho gia đề cao sự giáo dục để con
người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo đức sẵn có.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là thiện, Tuân Tử lại coi bản tính con người
vốn là ác. Mặc dù bản thân con người ác, nhưng có thể giáo hoá thành thiện. Xuất phát từ
quan điểm đó về tính người, Tuân tử đã chủ trươngđường lối trị nước kết hợp Nho gia với
pháp gia.

10



So với các học thuyết khác, nho gia là học thuyết có nội dung phong phú và mang
tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa nó còn là hệ tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị
Trung Hoa suốt hai ngàn năm của xã hội phong kiến.
Để trở thành tư tưởng chính thống, Nho Gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua
nhiều giai đoạn lịch sử trung Đại; Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh nhưng tiêu biểu hơn
cả là dưới triều đại hán và Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng
Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di (thời Tống).
1.3.Tư tưởng Nho giáo tác động như thế nào tới văn hóa làng Việt:
Thuyết “thiên mệnh”, “đạo trời” : Gắn quyền lực của giai cấp thống trị với thần
quyền. Song, người Việt đã vận dụng chính tư tưởng này để chống lại chủ nghĩa bành
trướng Hoa Hạ (“Nam quốc sơn hà nam đế cư – Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”); gắn
mệnh trời với lòng dân, làm giảm tính thần bí và tăng sự dân chủ.
Thuyết “nhân chính”: Nền chính trị của bậc vương giả cai trị bằng đạo đức.
“Nhân” là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người và con người, “nghĩa” là trách nhiệm của
cá nhân với cộng đồng.
Thuyết “chính danh” với những khái niệm cơ bản : “Đạo” của người “quân tử”,
tam cương, ngũ thường và tinh thần cai trị bằng pháp luật.
Tầng lớp nho sĩ trí thức người Việt hầu hết đều xuất thân từ thôn quê. Cho đến
cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, số lượng thành thị, nhất là thành thị phát triển ở Việt
Nam là rất hạn chế. Từ đầu thế kỷ XIX đến 1919 số lượng 555 vị tiến sĩ với 39 khoa thi
đời Nguyễn đều ở nông thôn, đó là chưa kể tới 5226 cử nhân của 47 khoa thi mà hầu hết
đều sống ở làng quê (2). Những người có địa vị, chức sắc, khi về hưu cũng trở về quê
hương. Điều này đã khiến nho sĩ Việt Nam mang đặc điểm nông thôn rõ nét. Các sinh
hoạt làng xã đều ít nhiều ảnh hưởng tới nho giáo – nho sĩ, tầng lớp ở nông thôn vừa làm
thầy đồ dạy học vừa bốc thuốc đưa ảnh hưởng của Nho giáo thâm nhập vào làng quê.

11



- Xây dựng gia đình, họ hàng và cộng đồng theo thể chế tông pháp với các yếu tố
dòng họ, với tang chế cửu tộc, với đạo thờ cúng tổ tiên,…Trong ngũ luân của Nho giáo :
“quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự, huynh đệ hữu cung, bằng hựu
hữu tín” thì đã có ba điều thuộc về gia đình. Cơ sở của chế độ tông pháp thừa kế tài sản,
chủ yếu là ruộng đất.
Trong xã hội cận hiện đại, chế độ tông pháp có nhiều nhược điểm, nó hạn chế tự
do bình đẳng giới, coi thường phụ nữ, gia trưởng, thậm chí kết bè kết phái ở làng xã.
Song, với tình hình Việt Nam hiện nay đang bước vào quá trình hội nhập thì việc giữ
vững các giá trị truyền thống, đạo đức, đạo làm con, làm vợ, xây dựng gia đình vững
mạnh ngày càng có ý nghĩa tích cực.
- Xây dựng, củng cố mối quan hệ “liên làng”, “siêu làng” trên cơ sở tư tưởng
“trung quân ái quốc”, “Nhân chính, đức trị”, lấy dân làm gốc. Đây chính là sức mạnh
thần kỳ giúp dân tộc ta đoàn kết chống giặc ngoại xâm.
- Xây dựng và bồi đắp tinh thần hiếu học dựa trên truyền thống coi trọng tri thức
“ngọc bất trác bất thành khí”. Chú trọng rèn luyện đạo đức, lối sống, cách ứng xử giữa
người với người.
Biến đổi trong kiến trúc, nghệ thuật, trang phục, nhất là văn học nghệ thuật. Sự
truyền bá chữ Hán rộng rãi đã tạo điều kiện xây dựng một nền văn học rực rỡ sẽ phát
triển ở các thời đại sau.
Như vậy, sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, chúng ta đã có đủ cơ sở và điều kiện hình
thành nên một tầng lớp xã hội mới, những nho sĩ trí thức quan liêu được kính trọng và nể
phục. Tầng lớp này hết sức quan trọng và là rường cột của nước nhà trong thời kỳ phong
kiến.
- Sự chống đối lại các thiết chế ngặt nghèo, thiếu tính thực tế và tích cực của Nho
giáo. Các nhà nước không đủ lực để tổng hợp các làng thành một mối, phải dựa vào cộng
đồng các làng, do vậy sinh ra truyền thống “phép vua thua lệ làng”.

12



Truyền thống này đã bảo tồn các giá trị văn hóa làng xã, làm cho làng là hạt nhân,
thành trì của nhà nước chống ngoại xâm, chống phong kiến, chống tư tưởng “tam cương”
của phong kiến Trung Quốc. Trên thực tế, nó đã bảo tồn được không nhỏ các di sản văn
hóa từ thời Văn Lang –Âu Lạc, một số tục lệ cổ truyền được gìn giữ dưới những hình
thức khác nhau. Song, mặt khác, nó lại tăng tính bảo thủ, khép kín, giới hạn tầm nhìn sau
lũy tre làng, kém cởi mở với bên ngoài. Trong thời đại toàn cầu hóa, mở cửa nền kinh tế
ngày nay thì đó là một hạn chế rất lớn.
1.4. Tích cực và tiêu cực của tác động, truyền bá Nho giáo tới văn hóa làng xã người
Việt:
* Về mặt tích cực:
- Tư tưởng Đức, Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người đối xử nhân ái,
khoan dung với nhau, Đức lễ với hệ thống các quy định chặt chẽ đã giúp con người có
thái độ và hành vi ứng xử theo khuôn phép, thứ bậc…
- Trong xã hội, đạo lý làm người được đề cao tới mức tuyệt đối, người đàn ông
luôn gánh trên mình đạo lý Tam Cương, Ngũ thường. Tức là phải tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ và quan niệm nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Còn người phụ nữ thì luôn luôn phải sống
theo đạo lý Tam tòng, Tứ đức. trong đó Tam tòng là: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,
phu tử tòng tử” còn Tứ đức là: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
- Với mối quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ thì phải tuyệt đối trung thành
với mối quan hệ một chiều.
+ Bề tôi phải tuyệt đối trung thành với vua.
+ Con không được bất hiếu với cha (mẹ)
+ Vợ phải tuyệt đối chung thuỷ với chồng.

13


- Mọi tập tục của làng xã đều được duy trì và chấn chỉnh theo điển lệ của Nho gia.
Đó là sự chấn chỉnh mọi phép tắc, lễ nghi từ dòng họ đến làng xã và cả việc thờ phụng

chung của làng xã.
- Để giữ gìn gia phong, các gia đình đều có phép tắc riêng, bắt nguồn từ “Gia lễ”, tác
phẩm kinh điển của Nho giáo. Trong gia đình, mọi nề nếp, gia phong, điều lệ được các
nho gia châm chước điển lệ Nho giáo mà cụ thể hóa và gọt giũa nhằm răn dạy, lưu truyền
đời này sang đời khác. Trong làng xóm, các tập tục, quy ước để hình thành các lệ làng, lai
lịch sự tích thần làng đều được những nhà nho văn bản hóa. Nho giáo có vai trò rất lớn
trong các hoạt động tín ngưỡng và văn hóa-xã hội làng xã từ thời xưa.
- Trong làng xã cổ truyền Việt Nam từng tồn tại phổ biến hương ước- lệ làng thành
văn- sản phẩm văn hóa phi vật thể khá đặc sắc. Hương ước là kết quả của quá trình phát
triển làng xã, vừa chịu sự tác động và tiếp thu Nho giáo.
* Về mặt tiêu cực:
- Thực chất về mối quan hệ cương – thường trong Nho giáo có phần thể hiện thói
gia trưởng. Trong gia đình thì cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Trong quan hệ vợ chồng thì
“phu xướng phụ tòng”, trong xã hội luôn đề cao vai trò của người cha, người chồng. Ở
trong quan trường thì vua quan luôn là người cao nhất, và kẻ dưới nhất nhất phải nghe
theo.
- Trong gia đình đến làng xã đều ảnh hưởng sâu sắc khuôn phép nho giáo về tư
tưởng trưởng quyền, tộc quyền, phụ quyền và nam quyền. Ngay cả những làng được vua
ban biển “Mĩ tục khả phong” cũng là theo tiêu chí mĩ tục của Nho giáo.
- Làng xã Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn từ tư tưởng Nho giáo, và ngày càng trở
lên khép kín với các “lệ làng” có nhiều khác biệt, thậm chí cả đối lập với “phép nước”.

2. Ảnh hưởng của Đạo giáo tới đời sống văn hóa làng xã người Việt:

14


2.1. Sơ lược về Đạo giáo:
Đạo giáo là một nhánh triết học và tôn giáo Trung Quốc, được xem là tôn giáo đặc
hữu chính thống của xứ này. Đạo giáo xuất hiện vào thế kỉ IV TCN với việc ra đời tác

phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử. Người ta không biết rõ Đạo giáo khởi phát lúc nào, chỉ
thấy được là tôn giáo này hình thành qua một quá trình dài, thâu nhập nhiều trào lưu
thượng cổ khác. Đạo giáo thâu nhiếp nhiều tư tưởng đã phổ biến từ thời nhà Chu (1040256 trước CN). Thuộc về những tư tưởng này là vũ trụ luận về thiên địa, ngũ hành, thuyết
về năng lượng, chân khí), thuyết âm dương và Kinh Dịch. Nhưng, ngoài chúng ra, những
truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí công, Thiền
định, thiết tưởng linh ảnh, thuật luyện kim và những huyền thuật cũng được hấp thụ với
mục đích đạt trường sinh bất tử. Việc tu luyện đạt trường sinh có bắt nguồn có lẽ từ
những khái niệm rất cổ xưa, bởi vì trong Nam Hoa chân kinh của Trang Tử, một tác
phẩm trứ danh của Đạo giáo thế kỉ thứ 4 trước CN thì các vị tiên trường sinh bất tử đã
được nhắc đến, và đại diện tiêu biểu cho họ chính là Hoàng Đế và Tây Vương Mẫu,
những hình tượng đã có trong thời nhà Thương, thiên niên kỉ 2 trước CN.
2.2. Những luân lý trong Đạo giáo:
- Quan niệm về vũ trụ và vạn vật: theo Đạo giáo, trước khi vũ trụ thành hình, trong
khoảng không gian hư vô bao la, có một chất sinh rất huyền diệu, gọi là ĐẠO. Đạo biến
hóa ra Âm Dương. Âm Dương xô đẩy và hòa hiệp tạo ra vũ trụ và vạn vật.
- Quan niệm về nhân sinh: khuyên người đời không nên quá tôn trọng và thiên về
đời sống vật chất, phải tiết chế lòng ham muốn, nên chú trọng tinh thần, lấy cái tâm đè
nén cái khí, thà bỏ cái thân nầy mà giữ được Đạo và Đức.
- Lý vô vi: Vô Vi nghĩa là không làm, tức là không can thiệp và tự nhiên, để con
người sống theo tự nhiên và cùng với tự nhiên tiến hóa. Lý Vô Vi gồm: Vô cầu, Vô tranh,
Vô đoạt, Vô chấp.

15


Đạo trong sự trình bày của Lão Tử là một khái niệm trừu tượng chỉ cái tự nhiên, cái
có sẵn một cách tự nhiên: "Người ta bắt chước Đất, Đất bắt chước Trời, Trời bắt chước
Đạo, Đạo bắt chước Tự nhiên". Nó là nguồn gốc của vạn vật. Đức là biểu hiện cụ thể của
Đạo trong từng sự vật. Đạo sinh ra vạn vật, nhưng làm cho vật nào hình thành ra vật ấy
và tồn tại được trong vũ trụ là do Đức. Nếu Đạo là cái Tĩnh vô hình thì Đức là cái Động

hữu hình của Đạo. Nếu Đạo là bản chất của vũ trụ thì Đức là sự cấu tạo và tồn tại của vũ
trụ. Đạo giáo thờ "Đạo" và tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là "Thái Thượng Lão Quân", coi
ông là hóa thân của "Đạo" giáng sinh xuống cõi trần. Nếu mục đích của việc tu theo Phật
giáo là thoát khổ thì mục đích của việc tu theo Đạo giáo là sống lâu. Đạo giáo có hai
phái: Đạo giáo phù thủy dùng các pháp thuật trừ tà trị bệnh, chủ yếu giúp cho dân thường
khỏe mạnh; Đạo giáo thần tiên dạy tu luyện, luyện đan, dành cho các quý tộc cầu trường
sinh bất tử. Kinh điển của Đạo giáo gọi là Đạo tạng kinh; ngoài sách về nghi lễ, giáo lý,
Đạo tạng còn bao gồm cả các sách thuốc, dưỡng sinh bói toán, tướng số, coi đất, thơ văn,
bút ký… tổng cộng lên đến trên 50 vạn quyển. Đạo giáo thần tiên hướng tới việc tu luyện
thành thần tiên trường sinh bất tử. Tu tiên có hai cách: nội tu và ngoại dưỡng. Phái Nội tu
(cũng gọi là Nội đan) là phái phổ biến hơn. Nội tu tức là luyện tập, dùng Tinh và Khí làm
dược liệu Phái Nội tu (cũng gọi là Nội đan) là phái phổ biến hơn. Nội tu tức là luyện tập,
dùng Tinh và Khí làm dược liệu, vận dụng Thần, trải qua trình tự tu luyện nhất định, làm
cho Tinh - Khí - Thần biến thành nội đan, kết lại ở đan điền (“đan điền” có nghĩa là
“ruộng đan”, tức là nơi luyện đan). Nội đan kết tụ ở đan điền này còn gọi Thánh thai, có
tác dụng trường sinh bất tử, trở thành thần tiên. Nói đến phái Nội tu phải kể đến Chử
Đồng Tử, người được coi là ông tổ của Đạo giáo ở Việt Nam (gọi là Chử Đạo Tổ). Phái
Ngoại dưỡng (cũng gọi là phái Ngoại đan) là phái ít phổ biến hơn ở Việt Nam. Phái này
cho rằng con người có thể thành tiên sống lâu bất tử nhờ uống thuốc trường sinh (kim
đan) Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ thứ 2. Đạo giáo có hai phái
tu là nội tu và ngoại dưỡng, phái nội tu phổ biến ở Việt Nam hơn. Chử Đồng Tử được coi
là ông tổ của Đạo giáo Việt Nam nên còn có tên Chử Tổ Đạo. Điều này thể hiện tính tổng
hợp của các tôn giáo khi vào Việt Nam vì Chử Đồng Tử còn được coi là người đầu tiên tu
thành Phật.

16


2.3 Tác động của truyền bá Đạo giáo tới văn hóa làng xã Việt thời Bắc thuộc:
Đạo giáo từ Trung Quốc xâm nhập vào Việt Nam được biết đến dưới dạng Đạo

giáo phù thủy. Nó có nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của người dân Việt
nên dễ dàng ăn sâu vào tâm lý, tập quán của người Việt thông qua các dạng bùa phép,
thần chú để chữa bệnh tật và trị tà ma. Để phân biệt rạch ròi đâu là dấu hiệu của Đạo giáo
trong các tín ngưỡng mang tính dân gian thì rất khó. Bởi vì tín ngưỡng dân gian từ xa xưa
của người Việt cũng mang rất nhiều yếu tố phù thủy, và cũng rất nhiều yếu tố thần tiên.
Vì vậy, điều dễ thấy hơn là sự dung hòa Tam giáo trong tâm linh người Việt. Ví như biểu
tượng chim hạc, linh quy xuất hiện rất nhiều trong đình chùa miếu mạo ở các làng xã và
cả từ đường của tư gia. Hạc hay rùa là các biểu tượng của tiên đạo, trường sinh. Hoặc như
thuật ngữ “buddha” vốn có nghĩa là “phật”, nhưng khi du nhập vào nước ta và được bản
địa hóa thành “bụt” thì lại không được dùng để chỉ “phật” mà dùng để chỉ một ông tiên
với nhiều phép biến hóa cứu giúp người nghèo khổ. Hình tượng ông bụt, ông tiên, bà
tiên, hay cô tiên đã trở nên rất quen thuộc và phổ biến trong các câu chuyện cổ tích dành
cho trẻ em và cũng xuất hiện khá phổ biến trong các hình thức văn học dân gian khác,
như “Việt điện u linh”, “lĩnh nam chích quái”, “truyền kỳ mạn lục”, “truyền kỳ tân phả”
và các tác phẩm tương tự như thế. Các khái niệm vốn đặc hữu của Đạo giáo như Bồng
Sơn, Nhược Thủy, Bồng Lai (nơi tiên ở) cũng xuất hiện khá nhiều trong đời sống của
người Việt, đặc biệt là đối với giới sỹ phu, có chữ nghĩa. Tương tự, khái niệm “tiên” cũng
vậy. Những thành ngữ kiểu như “được voi đòi tiên” hay “sướng như tiên” hoặc có liên
quan tới “tiên” được sử dụng khá thường xuyên trong đời sống. Thậm chí trong nhiều bài
văn khấn gia tiên, câu kết thường là “xin tiễn vong linh, lại về tiên giới”. Đạo giáo phù
thủy thờ các vị thần là Ngọc Hoàng Thượng Đế (Ngọc Hoàng), Thái Thượng Lão Quân
(Lão Tử), Quan Thánh Đế (Quan Công), người Việt còn thờ các vị thánh của riêng mình
như Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo) và Bà Chúa Liễu (Liễu Hạnh Công chúa). Việc
thờ đức Thánh Trần với tam phủ (nữ thần trời-đất-nước) và tứ phủ (nữ thần mây-mưasấm-chớp) đi liền với tín ngưỡng đồng bóng. Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam với tư cách là
một tôn giáo không còn tồn tại nữa, tuy nhiên những ảnh hưởng của nó đến đời sống xã

17


hội, nhất là tại các vùng kém phát triển thì vẫn còn rất mạnh mẽ. Và chính vì giáo lý Đạo

Lão ít được biết đến một cách tường tận, mà chỉ được hiểu một cách mơ hồ qua những
yếu tố mang tính phù thủy nên ở nhiều người Việt hiện nay nó thể hiện bằng sự mê tín dị
đoan, đồng bóng thái quá.
2.4 Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Đạo giáo:
Đạo giáo nhàn tản dạy con người “vô vi”, “biết đủ”, sống hài hòa với thiên nhiên, với
mọi người trong xã hội, không đua tranh, làm điều ác. Tuy nhiên, về mặt nào đó, tư tưởng
này bị xem là tiêu cực, khuyến khích con người “xuất thế”, không đấu tranh. Tuy nhiên,
trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể nó lại có giá trị hạn chế những điều xấu, những tệ
nạn trong xã hội, bảo vệ tự nhiên, môi trường.
3. Ảnh hưởng của đạo Phật tới đời sống văn hóa làng xã người Việt:
3.1 Thời gian hình thành và người sáng lập:
Đạo Phật (Buddhism) xuất hiện vào thế kỷ thứ VI trước CN ở Ấn Độ, có nguốn gốc
chính thống là do Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập và truyền dạy.
3.2 Giáo lý đạo Phật:
- Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là dạy con người hướng thiện, có tri thức để xây
dựng cuộc sống tốt đẹp yên vui trong hiện tại. Đạo Phật không công nhận có một đấng tối
cao chi phối đời sống của con người, không ban phúc hay giáng hoạ cho ai mà trong cuộc
sống mỗi người đều phải tuân theo luật Nhân - Quả, làm việc thiện thì được hưởng phúc
và làm việc ác thì phải chịu báo ứng. Đạo Phật không có thái độ phân biệt đẳng cấp. Kinh
sách của Phật giáo được chia làm 3 tạng (Tam tạng kinh điển):
+ Kinh tạng: là những sách ghi chép lời Phật giảng dạy về giáo lý.
+ Luật tạng: là sách ghi chép những giới luật của Phật chế định.

18


+ Luận tạng: là sách giảng giải ý nghĩa về kinh, luật. Giáo lý cơ bản của đạo Phật
có 2 vấn đề quan trọng, đó là Lý Nhân duyên và Tứ Diệu đế (4 chân lý). Cơ sở tư tưởng
và cốt lõi của Phật pháp là Tứ diệu đế. Bốn chân lý giải thích bản chất của sự khổ trong
luân hồi, nguyên nhân của sự khổ, và làm thế nào để giải trừ đau khổ. Bao gồm: Khổ đế:

chân lý về sự Khổ: đau trên thân gồm: sinh, già, bệnh, chết; khổ tâm gồm: sống chung
với người mình không ưa, xa lìa người thân yêu, mong muốn mà không được, chấp vào
thân ngũ uẩn. Khổ đau là một hiện thực, không nên trốn chạy, không nên phớt lờ, cũng
không nên cường điệu hóa. Muốn giải quyết khổ đau trước tiên phải thừa Tập đế: chân lí
về sự phát sinh của khổ: khổ đau đều có nguyên nhân nhận nó, thường thấy do tham ái,
sân hận, si mê, chấp thủ. Cần truy tìm đúng nguyên nhân sinh ra khổ, nguồn gốc sâu xa
sinh ra khổ trong sinh tử luân hồi là do vô minh và ái dục, những mắt xích liên quan nằm
trong 12 nhân duyên. Diệt đế: chân lí về diệt khổ: là trạng trạng thái không có đau khổ,
là một sự an vui giải thoát chân thật, là một hạnh phúc tuyệt vời khi chấm dứt lòng ham
muốn, và có sự hiểu biết của trí tuệ chấm dứt vô minh. Đạo đế: chân lí về con đường dẫn
đến diệt khổ: Phương pháp để đi đến sự diệt khổ là con đường diệt khổ tám nhánh, Bát
chính đạo. Phương tiện hay pháp môn để thành tựu con đường Bát chánh đạo là 37 phẩm
trợ đạo.
- Nền tảng Đạo Phật: là tứ thánh đế. Đạo Phật là đạo giải quyết khổ đau với 2 khái
niệm quan trọng là Nhân Quả và Luân hồi. Nhân Quả:
+ Đạo Phật giải thích là mọi sự việc đều có lý do từ Nhân Quả. Nghĩa là mọi sự
việc đều là kết quả từ nguyên nhân trước đó. Và sự việc đó chính nó lại sẽ là một nguyên
nhân của kết quả sau này. Các sự việc tương tác Nhân Quả phức tạp lẫn nhau gọi là trùng
trùng duyên khởi. Nhân có khi còn gọi là Duyên hay Nghiệp, và một khi đã gieo Duyên
hay Nghiệp thì ắt sẽ gặt Quả (để phân biệt tích cực với tiêu cực một cách tương đối thì có
khái niệm "thuận duyên", "nghịch duyên" hoặc "Thiện nghiệp", "Ác nghiệp"). Từ Nhân
đến Quả có yếu tố Duyên. Duyên là điều kiện thuận lợi cho phép Quả tới nhanh hơn dự
kiến (thuận duyên) hoặc điều kiện cản trở trì hoãn Quả tới chậm hơn, đôi khi triệt tiêu
Quả (nghịch duyên).

19


+ Nhân quả tương tác theo luật hạt giống: hạt táo không thể sinh ra quả bưởi, hạt
xoài không thể sinh ra quả đào. Nhân quả đạo đức là một ứng dụng của duyên khởi

(nguyên lí duyên khởi là quy luật vận hành của vạn vật). Các nhân cùng loại nhưng trái
chiều sẽ tương tác, bù trừ nhau, cái nào mạnh hơn sẽ trổ quả sau khi bù trừ xong, ví dụ:
về nghiệp tuổi thọ của một người, thiện nghiệp (trồng cây, phóng sanh, cứu mạng người
khác) và ác nghiệp (sát sanh, giết người) đã gieo sẽ bù trừ nhau, nếu ác nghiệp nhiều hơn
thì người đó sẽ nhận phần ác nghiệp sau khi đã được trừ với thiện nghiệp, bị bệnh tật
hoặc tai nạn làm giảm tuổi thọ. Học thuyết nhân quả dựa trên kinh tạng nguyên thủy lí
giải rằng nghiệp đã gieo có thể chuyển được do gieo nhân mới đối lập với nhân cũ. + Dù
con người dù không thể thấy được toàn bộ, không thể lý giải được hoàn toàn nhân quả
này thì mối quan hệ Nhân Quả vẫn là một quy luật tự nhiên khách quan. Con người dù
không thể hiểu hết, thấy hết, thậm chí có thể họ không tin Nhân Quả, nhưng quy luật này
vẫn vận hành và chi phối vạn vật. Thời gian giữa Nhân và Quả là xuyên suốt thời gian vũ
trụ chứ không chỉ trong một kiếp sống. Việc này dẫn đến 1 khái niệm là Luân hồi. Luân
hồi: Luân hồi chỉ cho việc tâm thức trải qua nhiều kiếp sống. Chết là hết 1 kiếp, tâm thức
mang theo nghiệp đi tái sinh kiếp mới. Hình thức của 1 kiếp sống là khác nhau, có thể
chuyển đổi giữa các loài, các thế giới (cõi súc sinh, cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la…).
Quan hệ Nhân Quả quyết định cách thức Luân hồi, hay nói cách khác tùy theo Duyên hay
Nghiệp đã tạo mà sẽ Luân hồi tương ứng để nhận Quả. Chết là hết một kiếp, nhưng lại là
khởi đầu của một kiếp khác, nối tiếp vô cùng tận. Dù có hết 1 kiếp sống thì vẫn sẽ tiếp
tục Luân hồi sang kiếp khác để nhận Quả. Còn Luân hồi là còn khổ và Đạo Phật chỉ rằng
Luân hồi chỉ có thể bị phá vỡ nếu đạt Giác ngộ. Nghĩa là có thể thoát khỏi Luân hồi sinh
tử nếu biết cách "đoạn diệt" các nguyên nhân dẫn dắt Luân hồi. Đạo Phật gọi đó là giải
thoát và toàn bộ Phật pháp đều nhằm chỉ ra con đường giải thoát, như Phật đã nói "Như
mặn là vị của nước biển, còn vị của đạo ta là giải thoát’’. Cốt lõi của giáo luật Phật giáo
là “Ngũ giới” và “Thập thiện”. (‘’Ngũ giới’’ là 5 giới cấm: Không sát sinh; Không nói
sai sự thật; Không tà dâm; Không trộm cắp; Không uống rượu.‘’Thập thiện’’ là mười
điều thiện nên làm, trong đó: + Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp,
không tà dâm.)

20



+ Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, không nói hai chiều, không nói điều ác,
không nói thêu dệt;
+ Ba điều thiện về ý: không tham lam, không giận dữ, không tà kiến. Phật giáo
được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Lịch sử
Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn: Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc
thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp; Thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai
đoạn cực thịnh; Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái; Từ đầu thế kỷ
20 đến nay là giai đoạn chấn hưng.
3.3. Ảnh hưởng giáo lý đạo Phật tới đời sống văn hóa làng Việt:
Từ xa xưa phật giáo đã có vai trò rất lớn trong gia đình, dòng họ, làng xã Việt Nam.
Điều đó thể hiện qua nếp sống, nếp sinh hoạt hằng ngày của người dân từ vật chất đến
tinh thần. Văn hóa phật giáo dần dần in đậm trong tâm thức người Việt. Nếu như trong
gia đình, dòng họ, làng xã Việt Nam ta có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thì Phật Quan Âm
trong tâm thức dân gian người Việt cổ cũng được xem như là tổ tiên. Nếu như thần linh
được xem là những người phù hộ độ trì cho nhân dân ta từ xa xưa thì Phật cũng được họ
xem như là thần linh. Điều này cho thấy phật đóng vai trò quan trọng trong tâm linh
người Việt cổ truyền. Phật giáo đến với nước ta trong bối cảnh đất nước bị ngoại xâm,
phương Bắc đô hộ, và trong làng xã Việt Nam ta lúc này chịu sự ảnh hưởng rất lớn cả về
mặt vật chất lẫn tinh thần. Phật giáo đến mang đến cho họ sự giải thoát. Dưới sự cai trị
khắc nghiệt của phương Bắc đời sống nhân dân ta rất cơ cực, chính vì vậy phật giáo là
chổ dựa tinh thần cho họ. Đạo phật không phân biệt đẳng cấp, tư tưởng này giúp con
người biết đấu tranh để dành lại quyền lợi của mình trước các thế lực ngoại xâm. Phật
giáo len lỏi vào đời sống thường nhật của bộ mặt làng xã. Giúp con người có niềm tin vào
cuộc sống, con người tin rằng “ở hiền thì sẽ Vai trò của phụ nữ được nâng lên trong xã
hội. Đối với tư tưởng Nho “gặp lành, sống tốt” thì Phật sẽ phù hộ độ trì. Đạo giáo thì
quyền lợi của người phụ nữ ở làng xã không có. Điển hình như ở Đình làng, người phụ
nữ không được phép đặt chân đến, không được phép tham gia bất kì hoạt động nào của

21



làng. Còn đối với ngôi chùa làng thì đây là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của mọi
người, phụ nữ được tham gia và hầu như là đóng vai trò rất quan trọng tại đây. Chỉ có ở
chùa thì họ mới có tiếng nói, có được sự giải thoát về tình thần. Các nhà sư ngày xưa học
theo Phật không những truyền dạy Phật pháp cho người dân mà họ còn dạy văn hóa, chữa
bệnh cho những người trong làng, dần dần nó hình thành nên mối liên hệ rất gần gũi giữa
đời sống nhân dân với phật giáo. Và chùa làng trở thành nơi sinh hoạt văn hóa của người
dân trong làng. Con người ai ai cũng luôn mong muốn được bình yên, sức khỏe, mọi
điều tốt đẹp sẽ đến với họ và họ tìm đến đạo phật tìm đến chùa để cầu may mắn cho
mình, cầu duyên phận, cầu đảo, cầu siêu…. Khi người dân cần thì đạo Phật lại đáp ứng
nhu cầu đó, các nhà sư sẽ tham gia cúng cho người dân. Nhân dân ta có tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên và khi đạo Phật đến đã dung hòa với tín ngưỡng đó. Phật giáo dạy cho con
người phải biết nhớ đến cội nguồn, nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục. Đạo làm con
là phải hiếu thảo với cha mẹ…Và cách giáo duc của đạo phật mang tính hiền hòa dễ tiếp
nhận chứ không áp đặt giống như Nho giáo. Phật giáo mang lại tính cố kết cộng đồng rất
lớn cho đời sống làng xã Việt Nam cổ truyền. Tính chất của Phật giáo là từ bi, bác ái... rất
dể tiếp thu. Vì vậy dần dần Phật giáo đã gắn kết con người lại với nhau. Phật giáo Việt
Nam trong gia đình, dòng họ, làng xã Việt Nam cổ truyền phát triển rất mạnh trãi qua bao
nhiêu thăng trầm lịch sử, từ giai đoạn manh nha du nhập, đến thời kì cực thịnh ở thời nhà
Lý nhà Trần. Đến giai đoạn thời Lê sơ, Nho giáo được tôn sùng và đạo Phật không được
coi trọng, tuy nhiên trong làng xã Việt Nam thì nó vẫn phát triển rất mạnh mẽ, bởi lẽ cơ
sở vững vàng của Phật giáo là lãng xã- nơi đã thấm nhuần các tư tưởng từ bi hỷ xạ, bình
đẳng, độ lượng, khoan dung.
3.4 Những tác động tích cực và tiêu cực của đạo Phật:
Về mặt tích cực, người Việt Nam tìm thấy trong lời dạy của Phật những con đường
thoát tục, hướng tới điều thiện, tránh xa cái ác, sống khoan dung nhân ái độ lượng,…Nhìn
chung, những yếu tố tích cực của Phật giáo được nhắc đến ở trên đều tìm được chỗ đứng
trong hệ tư tưởng của cộng đồng làng xã, nó cố kết các mối quan hệ xã hội, rèn luyện đạo


22


đức cá nhân và nhất là giúp nhân dân ta bảo tồn được một số phong tục và quan niệm từ
thời ký trước, chống lại nền văn hóa Hán và việc Hán hóa.
Tuy vậy, tư tưởng dung hòa, thủ tiêu đấu tranh, không bận tâm đến những công việc
chung của xã hội lại là tư tưởng hạn chế cần tránh.
III.Kết luận:
Đặc điểm tôn giáo của người Việt là đồng thuận và dung hợp. Dung hợp giữa Nho,
Phật, Đạo và tín ngưỡng dân gian tồn tại trong gia đình, làng xã. Tất cả đều dung hòa mà
linh hoạt đáp ứng những nhu cầu tinh thần, tình cảm, tâm linh của con người. Ba tôn giáo
mang màu sắc riêng, đặc trưng riêng, tuy nhiên không đối chọi nhau mà hoà quyện, bổ
sung, hỗ trợ cho nhau. Ba tôn giáo bên ngoài du nhập vào Việt Nam không làm mất đi tín
ngưỡng dân gian ở làng xã bản địa mà hoà quyện vào nhau làm cho cả hai phía đều có
những biến đổi nhất định. Ví dụ Nho giáo không hạ thấp được vai trò người phụ nữ, việc
thờ Mẫu ở Việt Nam rất thịnh hành. Tính đa thần, dân chủ, cộng đồng được thể hiện ở
việc thờ tập thể gia tiên, thờ nhiều cặp thần thánh, vào một ngôi chùa thấy không chỉ thờ
Phật mà thờ cả nhiều vị khác, thấn linh có mà người thật cũng có. Đây chính là những nét
riêng của tín ngưỡng Việt Nam. Tất cả những điều này đều là những ảnh hưởng của tôn
giáo đến đời sống làng xã người Việt.

23



×