TRNG I HC NGOI THNG
KHOA KINH T V KINH DOANH QUC T
CHUYấN NGNH KINH T I NGOI
KHO LUN TT NGHIP
ti:
TC NG CA CC CAM KT GIA NHP WTO N
DCH V CHNG KHON TI VIT NAM
H v tờn sinh viờn
Lp
Khoỏ
Giỏo viờn hng dn
: Nguyễn Khánh Toàn
: Anh 6
: 44
: TS. Đỗ H-ơng Lan
H Ni, thỏng 5 nm 2009
0
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ chứng khoán và vấn đề tự
do hóa thƣơng mại dịch vụ chứng khoán trong khuôn khổ WTO 3
I. Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ chứng khoán 3
1. Một số khái niệm cơ bản 3
1.1. Chứng khoán và thị trường chứng khoán 3
1.1.1. Chứng khoán 3
1.1.2. Thị trường chứng khoán 4
1.2. Dịch vụ chứng khoán và các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng
khoán 4
1.2.1. Dịch vụ chứng khoán 4
1.2.2. Các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán 5
2. Thị trƣờng dịch vụ chứng khoán 5
2.1. Cung 5
2.2. Cầu 7
3. Các loại hình dịch vụ chứng khoán chính 8
3.1. Môi giới chứng khoán 8
3.2. Tự doanh chứng khoán 9
3.3. Bảo lãnh phát hành chứng khoán 11
3.4. Tư vấn đầu tư chứng khoán 13
3.5. Quản lý danh mục đầu tư 14
3.6. Quản lý quỹ chứng khoán 14
3.7. Lưu ký, bù trừ, thanh toán và đăng ký chứng khoán 15
II. Tự do thƣơng mại dịch vụ chứng khoán trong khuôn khổ WTO 16
1. Vài nét về WTO và hiệp định GATS 16
1.1. Tổ chức Thương mại Thế giới WTO 16
1.2. Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ GATS 17
2. Tự do hóa thƣơng mại dịch vụ chứng khoán trong khuôn khổ
WTO 19
2.1. Cung cấp qua biên giới 21
2.2. Tiêu dùng ngoài lãnh thổ 22
2.3. Hiện diện thương mại 22
2.4. Hiện diện thể nhân 22
2.5. Tính minh bạch của pháp luật 23
CHƢƠNG 2: Tác động của các cam kết gia nhập WTO đến dịch vụ
chứng khoán tại Việt Nam 24
I. Thị trƣờng dịch vụ chứng khoán ở Việt Nam trƣớc khi gia nhập
WTO 24
1. Các nhà cung cấp trên thị trƣờng dịch vụ chứng khoán 24
0
1.1. Công ty chứng khoán 24
1.2. Công ty quản lý quỹ 26
2. Các loại hình dịch vụ chứng khoán cung cấp trên thị trƣờng 27
2.1. Môi giới chứng khoán 27
2.1.1. Hoạt động môi giới cổ phiếu 29
2.1.2. Hoạt động môi giới trái phiếu 30
2.2. Tự doanh chứng khoán 31
2.3. Bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán 33
2.4. Tư vấn đầu tư chứng khoán 34
2.5. Quản lý danh mục đầu tư 35
II. Những tác động của các cam kết gia nhập WTO đến dịch vụ chứng
khoán tại Việt Nam 35
1. Các cam kết WTO của Việt Nam về dịch vụ chứng khoán 35
1.1. Mode 1 36
1.2. Mode 2 36
1.3. Mode 3 36
1.4. Mode 4 37
2. Thị trƣờng dịch vụ chứng khoán tại Việt Nam dƣới tác động của
các cam kết gia nhập WTO 37
2.1. Những nhận định ban đầu về các tác động 37
2.2. Các tác động thực tế 39
2.2.1. Sự gia tăng về quy mô và sức cạnh tranh giữa các tổ chức kinh
doanh dịch vụ chứng khoán 39
2.2.2. Sự gia tăng về nhu cầu và các loại dịch vụ chứng khoán 46
3. Đánh giá sự phát triển dịch vụ chứng khoán Việt Nam 51
3.1. Thành tựu đạt được 51
3.2. Những hạn chế còn tồn tại 53
CHƢƠNG 3: Giải pháp phát triển dịch vụ chứng khoán tại Việt Nam
thời kỳ hậu WTO 57
I. Kinh nghiệm phát triển dịch vụ chứng khoán ở một số nƣớc sau khi
gia nhập WTO 57
1. Hàn Quốc trong quá trình tự do hóa dịch vụ chứng khoán 57
1.1. Giai đoạn từ đầu thập niên 80 đến trước năm 1997 57
1.2. Giai đoạn thứ hai diễn ra từ 1997 tới nay 58
2. Trung Quốc trong quá trình tự do hóa dịch vụ chứng khoán 63
2.1. Trung Quốc với việc thực hiện các cam kết ban đầu 63
2.2. Đánh giá việc thực hiện cam kết khi gia nhập WTO của Trung
Quốc đến thời điểm này 74
3. Bài học từ việc nghiên cứu Hàn Quốc và Trung Quốc 76
II. Giải pháp phát triển dịch vụ chứng khoán ở Việt Nam thời kỳ hậu
WTO 77
0
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về chứng khoán, doanh nghiệp và
thị trƣờng chứng khoán 77
2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động của các tổ chức kinh
doanh dịch vụ chứng khoán 80
2.1. Công ty chứng khoán 80
2.1.1. Hoạt động môi giới chứng khoán 80
2.1.2. Hoạt động tự doanh chứng khoán 80
2.1.3. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán 81
2.1.4. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán 82
2.1.5. Các hoạt động khác 82
2.2. Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ 82
2.2.1. Một số quy định liên quan tới công ty quản lý quỹ 83
2.2.2. Các quy định về ngân hàng giám sát (người thụ ủy) 84
2.2.3. Các quy định khác 85
3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổ chức kinh doanh dịch vụ
chứng khoán tại Việt Nam 85
3.1. Cải thiện quy mô vốn 86
3.2. Nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô dịch vụ 86
3.3. Nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô nguồn nhân lực 87
3.4. Nâng cao và đổi mới cơ sở vật chất, công nghệ thông tin 88
3.5. Nâng cao khả năng quản trị, giám sát, kiểm soát nội bộ và hiệu
quả tác nghiệp 89
3.6. Các giải pháp khác 90
KẾT LUẬN 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
PHỤ LỤC 1 93
PHỤ LỤC 2 95
1
LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi ra đời đến nay, thị trường chứng khoán đã chứng minh vai trò
quan trọng của nó trong phát triển kinh tế Việt Nam. Một trong những nhân tố
cơ bản và có lớn nhất tác động đến sự phát triển của thị trường chứng khoán
là các loại hình dịch vụ chứng khoán. Dịch vụ chứng khoán là cầu nối giữa
nhà phát hành và nhà đầu tư và các nhà đầu tư với nhau. Dịch vụ chứng khoán
tại Việt Nam tuy không mới, nhưng vẫn chưa có những yếu tố cần thiết để
đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường.
Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành xu thế tất yếu và khách quan của
các nền kinh tế trên thế giới. Việc hội nhập là cơ hội cho các nền kinh tế thực
sự tạo ra một bước tiến mới, đồng thời cũng là một sự thử thách hiệu quả,
năng lực cạnh tranh, khả năng tự chủ của các nền kinh tế. Điều này trở nên rõ
ràng hơn đối với Việt Nam khi vào 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở
thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Sau nhiều năm đàm
phán, việc gia nhập WTO đã tạo ra một thách thức lớn cho nền kinh tế Việt
Nam. Theo các cam kết với WTO, thị trường chứng khoán và đồng thời dịch
vụ chứng khoán Việt Nam là những vấn đề chịu ảnh hưởng trực tiếp của việc
mở cửa.
Thực tế cho thấy sau các cam kết WTO, dịch vụ chứng khoán Việt Nam
vẫn chưa tạo ra một chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới trong hoàn
cảnh hội nhập. Nếu tình trạng kéo dài thì việc cung cấp loại hình dịch vụ
chứng khoán tại Việt Nam đều rơi vào tay các tổ chức nước ngoài sau khi thời
gian thực hiện cam kết kết thúc.
Từ những vấn đề này, đề tài “Tác động của các cam kết gia nhập
WTO đến dịch vụ chứng khoán tại Việt Nam” được thực hiện với mục
đích phân tích tình hình và đưa ra hướng giải quyết phù hợp nhất trong thời
điểm hiện tại. Những hướng giải quyết này không những giúp cho hoạt động
2
dịch vụ chứng khoán tại Việt Nam có hiệu quả hơn mà thực sự sẽ tạo ra
những biến chuyển mới cho thị trường dịch vụ chứng khoán trong thời gian
sắp tới, tạo nền tảng cho các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán trong
nước có chỗ đứng trong môi trường cạnh tranh gay gắt.
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu các khái niệm cơ bản liên quan đến dịch vụ chứng khoán và
vấn đề tự do hoá dịch vụ chứng khoán trong khuôn khổ WTO
- Tìm hiểu về thực trạng dịch vụ chứng khoán tại Việt Nam trước và sau
khi Việt Nam gia nhập WTO, đánh giá các tác động của các cam kết tới dịhc
vụ chứng khoán ở Việt Nam
- Đề xuất giải pháp phát triển dịch vụ chứng khoán tại Việt Nam thời kỳ
hậu WTO
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự phát triển của dịch vụ chứng khoán
Việt Nam dưới tác động của các cam kết gia nhập WTO về dịch vụ chứng
khoán. Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi dịch vụ chứng khoán tại Việt
Nam chủ yếu trong khoảng từ năm 2005 đến nay.
Ngoài Lời mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, tài liệu tham khảo,
khoá luận bao gồm 3 chương sau:
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ chứng khoán và vấn đề tự
do hóa thương mại dịch vụ chứng khoán trong khuôn khổ WTO
- Chương 2: Tác động của các cam kết gia nhập WTO đến dịch vụ chứng
khoán tại Việt Nam
- Chương 3: Giải pháp phát triển dịch vụ chứng khoán tại Việt Nam thời
kỳ hậu WTO
3
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ CHỨNG KHOÁN
VÀ VẤN ĐỀ TỰ DO HÓA THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ CHỨNG KHOÁN
TRONG KHUÔN KHỔ WTO
I. Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ chứng khoán
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Chứng khoán và thị trường chứng khoán
1.1.1. Chứng khoán
Việc xác định cái gì là chứng khoán hay không dựa vào luật pháp của
từng nước. Theo Luật Chứng khoán Việt Nam, chứng khoán là bằng chứng
xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc
phần vốn của tổ chức phát hành [2]. Tổ chức phát hành là tổ chức thực hiện
phát hành chứng khoán ra công chúng. Chứng khoán là công cụ đại diện cho
giá trị tài chính và có thể được thay thế hay thỏa thuận
[ Đó là những tài sản tài chính vì
nó mang lại thu nhập và khi cần người sở hữu nó có thể bán nó để thu tiền về
[1, tr72]. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi
sổ hoặc dữ liệu điện tử.
Chứng khoán là hàng hóa của thị trường chứng khoán. Do sự phát triển
của thị trường, hàng hóa chứng khoán ngày càng phong phú và đa dạng.
Chứng khoán thường được chia thành hai loại là chứng khoán cổ phần (như
cổ phiếu) và chứng khoán nợ (như trái phiếu, trái khoán, các công cụ phái
sinh). Ngoài ra còn có loại chứng khoán lai giữa hai loại trên (như các công
cụ chuyển đổi, quyền mua cổ phần). Ở các nền kinh tế phát triển, loại chứng
khoán nợ có tỷ trọng giao dịch áp đảo trên các thị trường chứng khoán. Còn ở
những nền kinh tế kém phát triển, nơi mà thị trường chứng khoán mới được
4
thành lập, thì loại chứng khoán cổ phần lại chiếm tỷ trọng giao dịch lớn hơn.
Điều này giải thích tại sao ở Việt Nam cuối thập niên 1990 và đầu thập niên
2000, thị trường chứng khoán được nhiều người hiểu là nơi trao đổi các cổ
phiếu.
1.1.2. Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán
chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường
sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát
hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán
đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy, xét về mặt hình thức, thị
trường chứng khoán bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, và chỉ
là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng
khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán [1, tr45].
Thị trường chứng khoán còn được phân chia thành thị trường tập trung
và phi tập trung. Tính tập trung ở đây là muốn nói đến việc các giao dịch
được tổ chức tập trung theo một địa điểm vật chất. Hình thái điển hình là Sở
giao dịch chứng khoán. Tại Sở giao dịch chứng khoán, các giao dịch được tập
trung tại một địa điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia
vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch. Thị trường phi tập
trung còn gọi là thị trường OTC (over the counter). Trên thị trường này, các
giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán và được nối
với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường này được hình thành theo
phương thức thoả thuận.
1.2. Dịch vụ chứng khoán và các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng
khoán
1.2.1. Dịch vụ chứng khoán
5
Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu thế nào là dịch vụ tài chính. Dịch vụ tài
chính là một dạng dịch vụ kinh doanh được cung cấp bởi ngành tài chính, có
liên quan trực tiếp đến huy động vốn, dàn xếp vốn và quản lý các nguồn vốn.
Trong Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ của GATS, các dịch vụ tài
chính được chia thành hai loại chính là: bảo hiểm và các dịch vụ liên quan
đến bảo hiểm; ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác. Một lượng lớn các tổ
chức tham gia vào việc cung cấp dịch vụ tài chính bao gồm các ngân hàng,
các công ty tín dụng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, công ty chứng khoán và
rất nhiều các tổ chức có tính chuyên môn khác. Ở Việt Nam, chiếm số lượng
áp đảo về cung cấp dịch vụ tài chính là hệ thống các ngân hàng thương mại.
Dịch vụ chứng khoán là loại hình dịch vụ tài chính có liên quan đến đến
các hoạt động trong thị trường chứng khoán, nhờ đó hàng hóa trên thị trường
chứng khoán được lưu thông và có tính thanh khoản cao.
1.2.2. Các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán
Các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán là các tổ chức cung cấp
loại hình dịch vụ chứng khoán ra thị trường. Nó đóng vai trò là tổ chức trung
gian có tác dụng như dầu bôi trơn cho guồng máy vận hành của toàn bộ thị
trường chứng khoán [3, tr4].
2. Thị trƣờng dịch vụ chứng khoán
2.1. Cung
Các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán là những đối tượng cung
cấp dịch vụ chứng khoán ra thị trường. Mặc dù có thể có nhiều tên gọi và hình
thức tổ chức khác nhau nhưng về cơ bản các tổ chức kinh doanh, dịch vụ
chứng khoán ở các nước đều có những chức năng và hoạt động dịch vụ giống
nhau. Hiện tại phổ biến nhất ở Việt Nam là hình thức công ty chứng khoán và
công ty quản lý quỹ đầu tư. Mô hình ngân hàng đầu tư cũng được chú ý trong
những năm gần đây.
6
Các chủ thể kinh doanh dịch vụ chứng khoán là một trong những chủ thể
quan trọng bậc nhất của thị trường chứng khoán. Do tổ chức kinh doanh dịch
vụ chứng khoán là một loại hình định chế tài chính đặc biệt nên vấn đề xây
dựng mô hình cũng nhiều điểm khác nhau ở các nước. Mô hình tổ chức của tổ
chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán ở mỗi nước đều có những đặc điểm
riêng tùy theo đặc điểm của hệ thống tài chính và sự cân nhắc lợi hại của
những người làm công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên, ta có thể khái quát
lên ba mô hình cơ bản là: ngân hàng đa năng toàn phần, ngân hàng đa năng
một phần và công ty chuyên doanh chứng khoán.
Mô hình thứ nhất là mô hình ngân hàng đa năng toàn phần. Trong mô
hình này không có bất kỳ sự tách biệt nào giữa các hoạt động ngân hàng và
chứng khoán. Trong hệ thống ngân hàng đa năng, các ngân hàng thương mại
cung cấp một danh mục đầy đủ các dịch vụ ngân hàng, chứng khoán và bảo
hiểm, tất cả trong một pháp nhân duy nhất. Do vậy, các rủi ro phát sinh từ hai
hoạt động này được dồn chung lại và chỉ có một cơ quan quản lý đưa ra quy
định chung về khả năng thanh toán cho cả hai loại hình kinh doanh. Đó là
phương thức hoạt động ngân hàng đa năng cổ truyền mà điển hình là ở Cộng
Hòa Liên Bang Đức. Đây cũng là mô hình tổ chức và hoạt động của các ngân
hàng tại hầu hết các nước thuộc Lục địa Châu Âu trước khi có các quy định
về vốn của EU.
Mô hình thứ hai là hệ thống ngân hàng đa năng kiểu Anh hay còn gọi là
mô hình đa năng một phần, được áp dụng tại Anh và một số nước có quan hệ
gần Anh như Canada và Úc. Các ngân hàng đa năng kiểu Anh tham gia vào
các hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng khoán, nhưng nó khác với ngân
hàng đa năng kiểu Đức ở điểm việc tham gia vào lĩnh vực chứng khoán được
thực hiện thông qua các công ty con có tư cách pháp nhân độc lập.
Mô hình thứ ba thể hiện sự khác biệt pháp lý giữa hai ngành ngân hàng
và chứng khoán như ở Mỹ và Nhật, đó là mô hình chuyên doanh. Theo mô
7
hình này, các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán là các công ty chuyên
doanh độc lập, các ngân hàng không được phép tham gia vào hoạt động kinh
doanh chứng khoán. Mặc dù các hoạt động ngân hàng và chứng khoán tách
rời nhau về mặt pháp lý theo Đạo luật Glass Steagall tại Mỹ và Điều 65 của
Luật Chứng khoán Nhật, trong hai nước này, các ngân hàng thương mại tham
gia ngày càng nhiều hơn vào hoạt động kinh doanh chứng khoán và mô hình
này có xu hướng trở thành các ngân hàng đa năng kiểu Anh.
Về mặt pháp lý, các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán có thể
được thành lập dưới nhiều hình thức khác nhau như công ty hợp danh, công ty
trách nhiệm hữu hạn, hay công ty cổ phần. Việc lựa chọn hình thức pháp lý
của tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán như trên tùy thuộc vào điều kiện
thực tế về kinh tế xã hội và môi trường pháp lý của từng nước. Tuy nhiên,
một xu thế rõ nhất hiện nay là các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán
được thành lập dưới dạng các công ty cổ phần. Lý do chỉ đơn giản là mô hình
công ty cổ phần có rất nhiều ưu thế nổi trội hơn so với các mô hình khác như
cơ cấu quản trị và điều hành chặt chẽ, linh hoạt và dễ dàng trong việc huy
động vốn.
Cho dù được tổ chức dưới bất kỳ hình thức nào, các tổ chức kinh doanh
dịch vụ chứng khoán cũng phải tuân thủ chặt chẽ hai nguyên tắc cơ bản trong
tổ chức và hoạt động là nguyên tắc tài chính (quy định về mức vốn, sử dụng
vốn và hạn mức kinh doanh) và nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp. Đặc trưng
của các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán nhân tố con người có vai trò
quyết định và chịu ảnh hưởng lớn từ trình độ phát triển của thị trường tài
chính.
2.2. Cầu
Những đối tượng có nhu cầu về dịch vụ chứng khoán chính là những nhà
phát hành và nhà đầu tư chứng khoán. Các dịch vụ chứng khoán được cung
cấp đóng vai trò cầu nối giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, giúp cho các hoạt
8
động trong thị trường chứng khoán diễn ra thuận tiện và nhanh chóng. Các
nhà phát hành cần các dịch vụ chứng khoán để việc đưa chứng khoán của họ
ra với công chúng dễ dàng hơn. Các nhà đầu tư cần các dịch vụ chứng khoán
vì họ cần có thông tin và những sự trợ giúp trong việc đưa ra các quyết định
đầu tư.
3. Các loại hình dịch vụ chứng khoán chính
Có rất nhiều loại dịch vụ chứng khoán khác nhau. Theo thời gian, do đòi
hỏi của thị trường và nhu cầu phát triển của bản thân các tổ chức kinh doanh,
dịch vụ chứng khoán, xuất hiện ngày càng nhiều các loại hình dịch vụ như
cho vay ký quỹ, tư vấn tài chính cá nhân quản lý thu nhập chứng khoán, v.v.
Một số loại hình dịch vụ chứng khoán phổ biến hiện nay là: môi giới, tự
doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư, quản lý
quỹ, v.v.
3.1. Môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong
đó một công ty chứng khoán đứng ra làm trung gian đại diện cho khách hàng
tiến hành các giao dịch chứng khoán thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao
dịch chứng khoán hay thị trường OTC [1, tr260].
Trong hoạt động này, công ty chứng khoán được hưởng một khoản phí
môi giới. Khách hàng sẽ phải tự chịu trách nhiệm về mặt kinh tế của việc giao
dịch đó. Rủi ro duy nhất mà nhà môi giới hay công ty chứng khoán gặp phải
là các khách hàng của mình hoặc nhà môi giới giao dịch khác có thể không
thực hiện nghĩa vụ thanh toán đúng hạn. Có thể nói, môi giới là một hoạt
động dịch vụ quan trọng của các công ty chứng khoán. Dịch vụ này vừa đem
lại một phần thu nhập (bình quân từ 30-50% tổng thu nhập), vừa tạo ra một cơ
sở khách hàng quan trọng cho các công ty chứng khoán khi thực hiện phân
phối các loại chứng khoán mới phát hành trong các đợt bảo lãnh phát hành.
Một số chức năng chính của dịch vụ môi giới chứng khoán là:
9
- Cung cấp dịch vụ với hai tư cách:
+ Nối liền khách hàng với bộ phân nghiên cứu đầu tư: cung cấp cho
khách hàng các báo cáo nghiên cứu và khuyến nghị đầu tư.
+ Nối liền những người bán và những người mua: đem đến cho khách
hàng tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ tài chính.
- Đáp ứng những nhu cầu tâm lý của khách hàng khi cần thiết: trở thành
người bạn, người chia sẻ những lo âu căng thẳng và đưa ra những lời động
viên kịp thời
- Khắc phục trạng thái xúc cảm quá mức (điển hình là sự sợ hãi và tham
lam), giúp khách hàng có những quyết định tỉnh táo.
- Đề xuất thời điểm bán hàng.
Những nét đặc trưng của nghề môi giới chứng khoán:
- Lao động cật lực, thù lao xứng đáng.
- Những phẩm chất cần có: kiên nhẫn, giỏi phân tích tâm lý và ứng xử.
- Nỗ lực cá nhân là quyết định, đồng thời không thể thiếu sự hỗ trợ của
công ty trong việc cung cấp thông tin và kết quả phân tích cũng như việc
thực hiện các lệnh của khách hàng.
Trong hoạt động môi giới chứng khoán, các công ty phải tuân thủ nguyên
tắc minh bạch, công khai và tận tụy với khách hàng, vì quyền lợi của khách
hàng. Đồng thời, không được đưa ra những ý kiến tư vấn mang tính chất
khẳng định về tiềm năng lợi nhuận hoặc phao tin đồn nhằm thu hút khách
hàng vào các mục đích riêng.
3.2. Tự doanh chứng khoán
Tự doanh là hoạt động kinh doanh trong đó các công ty chứng khoán tự
mua bán chứng khoán cho chính mình [1, tr287].
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán có thể được thực hiện trên
các thị trường giao dịch tập trung (trung tâm giao dịch chứng khoán, sở giao
dịch chứng khoán), hoặc trên thị trường OTC, v.v. Trên thị trường giao dịch
10
tập trung, lệnh giao dịch của các công ty chứng khoán được đưa vào hệ thống
và thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của các khách hàng. Trên thị trường
OTC, các hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty với các
đối tác hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin. Tại một số nước, hoạt
động tự doanh của các công ty chứng khoán còn được thực hiện thông qua
hoạt động tạo lập thị trường (ví dụ như ở Mỹ). Trong hoạt động này, công ty
chứng khoán đóng vai trò nhà tạo lập thị trường, nắm giữ số lượng nhất định
một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán với các khách hàng nhằm
hưởng phí giao dịch và chênh lệch giá.
Mục đích của hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán là nhằm
thu lợi cho chính mình, nhưng vẫn được xếp vào các ngàng dịch vụ chứng
khoán. Với hoạt động này, công ty chứng khoán cũng là một nhà đầu tư trên
thị trường chứng khoán như những nhà đầu tư khác. Các rủi ro phát sinh từ
hoạt động tự doanh do chính công ty chứng khoán tự gánh chịu. Việc có lãi
hay chịu lỗ sẽ tùy vào chênh lệch giữa giá mua và giá bán chứng khoán và
biến động chung của giá chứng khoán do họ nắm giữ.
Vốn và con người là hai điều kiện cơ bản để thực hiện các nghiệp vụ
trong kinh doanh chứng khoán. Để thực hiện hoạt động tự doanh, các công ty
chứng khoán phải có đủ một sô vốn nhất định theo quy định của pháp luật.
Việc quy định mức vốn nhằm mục đích đảm bảo rằng các công ty chứng
khoán thực sự có vốn và dùng vốn của họ để kinh doanh. Nhân viên thực hiện
nghiệp vụ tự doanh của công ty phái có trình độ chuyên môn, khả năng tự
quyết cao và đặc biệt là tính nhạy cảm trong công việc. Tại một số nước như
Thái Lan, Mỹ, nhân viên tự doanh của công ty chứng khoán phải đáp ứng
được một số tiêu chuẩn nhất định như kinh nghiệm làm việc lâu năm trong
ngành, có bằng thạc sĩ trở lên và có một số chứng chỉ chuyên môn nhất định.
Khi thực hiện hoạt động tự doanh, các công ty chứng khoán phải có sự
tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và các nghiệp vụ khác, đặc biệt là nghiệp vụ
11
môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Các công ty
chứng khoán phải có đội ngũ nhân viên riêng biệt để thực hiện nghiệp vụ tự
doanh và đảm bảo sự tách bạch về tài sản của khách hàng với các tài sản của
chính công ty. Các công ty chứng khoán còn phải ưu tiên khách hàng trong
việc tự doanh chứng khoán, không được phép mua, hoặc bán chứng khoán
tranh của khách hàng. Để đảm bảo hạn chế rủi ro, các công ty chứng khoán
cũng phải chịu một số hạn chế nhất định khi đầu tư vào các loại chứng khoán.
Các hạn chế này thường được cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán cũng phải có nghĩa vụ bình ổn thị
trường trong một số trường hợp cần thiết, đặc biệt là đối với hình thức tạo lập
thị trường. Thực tế cho thấy pháp luật của hầu hết các nước đều quy định các
công ty chứng khoán phải dành một tỷ lệ phần trăm nhất định giao dịch của
mình (ở Mỹ là 60%) cho hoạt động bình ổn thị trường. Các công ty có nghĩa
vụ mua vào khi giá chứng khoán lên và bán ra khi giá chứng khoán giảm
nhẳm ổn định giá chứng khoán.
3.3. Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức
phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua
một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua
số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết [3, tr11].
Bảo lãnh phát hành là một hoạt động dịch vụ rất quan trọng của công ty
chứng khoán do đây là một trong những hoạt động mang lại nguồn thu nhập
và cơ sở khách hàng lớn nhất cho công ty. Về bản chất, bảo lãnh phát hành là
việc công ty chứng khoán hỗ trợ cho các đơn vị phát hành huy động vốn bằng
cách bán chứng khoán trên thị trường. Sự hỗ trợ đó giúp đơn vị phát hành
nắm chắc khả năng huy động vốn và có kế hoạch sử dụng vốn huy động.
Thông thường, khi thực hiện bảo lãnh phát hành, công ty chứng khoán sẽ áp
dụng một trong ba hình thức bảo lãnh sau:
12
- Bảo lãnh chắc chắn: là hình thức bảo lãnh mà công ty bảo lãnh phát hành
nhận mua toàn bộ số chứng khoán trong đợt phát hành của công ty phát
hành, sau đó sẽ bán ra công chúng, hoặc công ty bảo lãnh phải nhận mua
toàn bộ số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của đợt phát hành.
Giá mua của công ty bảo lãnh là một giá đã được ấn định, thường là thấp
hơn giá thị trường. Giá bán của công ty bảo lãnh là giá thị trường. Đây là
hình thức công ty bảo lãnh hoạt động tự doanh, hoạt động cho chính họ và
sẵn sàng chịu mọi rủi ro.
- Bảo lãnh cố gắng tối đa: là hình thức bảo lãnh mà công ty bảo lãnh phát
hành hứa sẽ cố gắng đến mức tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát
hành cho công ty phát hành. Trường hợp không bán hết, số chứng khoán còn
lại được trả về cho công ty phát hành. Người bảo lãnh được hưởng hoa hồng
trên số chứng khoán đã được bán ra.
- Bảo lãnh bảo đảm tất cả hoặc không: đây là trường hợp áp dụng khi công
ty phát hành chứng khoán cần một số vốn nhất định để giải quyết một mục
tiêu nhất định. Nếu huy động được đủ số vốn cần thiết đó thì sẽ thực hiện
phát hành, nếu không huy động đủ thì sẽ hủy bỏ. Cũng có thể, để cho việc
chào bán có hiệu quả, nhẹ nhàng hơn trong trách nhiệm của người bảo lãnh,
công ty phát hành yêu cầu phải phát hành được một số lượng chứng khoán
tối thiểu nào đó trong tổng số chứng khoán cần phát hành, nếu đạt được số
tối thiểu này thì số còn lại sẽ phát hành tiếp, nếu không đạt được số tối thiểu
đó thì sẽ hủy bỏ toàn bộ.
Khi thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán, các công ty
chứng khoán phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc này
thường được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, chẳng hạn như,
các quy định về hạn mức bảo lãnh, nghĩa vụ bình ổn thị trường của các loại
chứng khoán nhận bảo lãnh, tách bạch nghiệp vụ, công khai thông tin, nghĩa
13
vụ liên đới trong các hoạt động gian lận liên quan đến việc phát hành chứng
khoán, v.v.
3.4. Tư vấn đầu tư chứng khoán
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán cung cấp các
thông tin, loại chứng khoán và cách thức, thời điểm mua bán chứng khoán và
các vấn đề có tính quy luật của hoạt động đầu tư chứng khoán cho người đầu
tư [3, tr13]. Giống như các dịch vụ tư vấn khác, nội dung của tư vấn chứng
khoán là đưa ra lời khuyên, phân tích các tình huống hay thực hiện một số
công việc có tính chất dịch vụ cho khách hàng [1, tr312]. Dịch vụ tư vấn đầu
tư có thể được công ty chứng khoán cung cấp qua các hình thức: khuyến cáo,
lập báo cáo, tư vấn trực tiếp, thông qua ấn phẩm về chứng khoán.
Các công ty chứng khoán có thể thu phí hoặc miễn phí khi cung cấp dịch
vụ tư vấn cho khách hàng, tùy theo tính chất và mức độ phức tạp của hoạt
động tư vấn. Theo thông lệ, các công ty chứng khoán chỉ chịu trách nhiệm về
những ý kiến tư vấn của mình, khách hàng phải tự chịu trách nhiệm về mặt tài
chính khi quyết định thực hiện theo lời tư vấn. Các công ty chứng khoán và
nhân viên của mình phải tuân thủ rất nghiêm ngặt những chuẩn mực về đạo
đức nghề nghiệp nhằm tránh gây ra những tổn hại về vật chất cho khách hàng,
không được phép đưa ra những cam kết hoặc dụ dỗ khách hàng về kết quả của
khoản đầu tư khi thực hiện những ý kiến tư vấn. Do đặc điểm riêng của ngành
là giá cả luôn biến động nên việc tư vấn về giá trị chứng khoán là rất khó
khăn, có thể xảy ra nhiều mâu thuẫn về lợi ích. Các nhà tư vấn có thể gây ra
những hiểu lầm đáng tiếc về giá trị và xu hướng giá cả của các loại chứng
khoán – việc này có thể do khả năng của họ hoặc do họ cố tình gây hiểu lầm
để kiếm lợi. Do vậy, hoạt động nghiệp vụ này cần được quản lý chặt chẽ và
đòi hỏi phải có những giới hạn nhất định trong khi thực hiện công việc.
Vì hoạt động tư vấn là hoạt động kinh doanh hiểu biết nên yêu cầu về
vốn tối thiểu là không lớn, chỉ cần đủ để duy trì các hoạt động bình thường
14
như thuê băn phòng, trả lương nhân viên, chi phí hành chính khác… Nhưng
những yêu cầu về nhân sự lại rất chặt chẽ. Nhân viên tư vấn phải có kiến thức
chuyên môn rất sâu trong lĩnh vực của mình và thường phải có giấy phép
hành nghề tư vấn chứng khoán với các yêu cầu cao hơn những người làm môi
giới thông thường.
Tùy theo quy định của từng nước, các công ty quản lý quỹ cũng có thể
được phép tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán cho khách
hàng.
3.5. Quản lý danh mục đầu tư
Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là hoạt động tổ chức kinh doanh,
dịch vụ chứng khoán quản lý vốn giúp cho khách hàng thông qua việc mua,
bán và nắm giữ các loại chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng. Thông
thường, khách hàng ủy thác đầu tư ở đây là những tổ chức hoặc cá nhân có
tiềm lực tài chính lớn, có thể chấp nhận được rủi ro, và có nhu cầu tìm người
quản lý đầu tư, sinh lợi cho mình [3, tr14].
Hoạt động quản lý danh mục đầu tư thường do các ngân hàng hoặc công
ty quản lý quỹ thực hiện cho các khách hàng riêng lẻ. Tuy nhiên, một số nước
cũng cho phép các công ty chứng khoán cung cấp dịch vụ này.
Có thể nói, đây là một dạng nghiệp vụ tư vấn đầu tư của các tổ chức kinh
doanh dịch vụ chứng khoán nhưng ở mức độ cao hơn vì trong hoạt động này,
khách hàng ủy thác cho công ty quản lý quỹ hoặc công ty chứng khoán thay
mặt mình quyết định đầu tư theo một chiên lược hay những nguyên tắc đã
được khách hàng chấp thuận. Khi thực hiện hoạt động này, công ty quản lý
danh mục được nhận phí quản lý do khách hàng trả. Khoản phí này thường
được tính bằng một tỉ lệ phần trăm nhất định trên tổng giá trị của danh mục ủy
thác đầu tư. Bên cạnh phí, công ty quản lý danh mục đầu tư cũng có thể nhận
được phần tiền thưởng của khách hàng nếu danh mục đầu tư có lãi.
3.6. Quản lý quỹ chứng khoán
15
Quản lý quỹ là việc thực hiện quản lý các quỹ đầu tư. Quỹ đầu tư chứng
khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích kiếm lợi
nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác, kể
cả bất động sản, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hàng ngày đối
với việc ra quyết định đầu tư của quỹ [2]. Các tổ chức kinh doanh dịch vụ
chứng khoán phải đảm bảo một nguyên tắc là tách bạch hoạt động quản lý
quỹ đầu tư cho khách hàng so với các hoạt động khác. Một số nước thường
đưa ra quy định tổ chức quản lý quỹ đầu tư phải là một tổ chức độc lập,
thường gọi là công ty quản lý quỹ. Tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán
muốn tham gia hoạt động quản lý quỹ đầu tư phải thành lập một công ty con
để thực hiện. Ngược lại công ty quản lý quỹ cũng không được phép thực hiện
các nghiệp vụ khác như môi giới, tự doanh, hay bảo lãnh phát hành.
Thực chất, hoạt động của công ty quản lý quỹ là thực hiện chức năng về
quản lý vốn tài sản thông qua việc đầu tư theo danh mục đầu tư hiệu quả nhất
làm gia tăng giá trị của quỹ đầu tư. Quản lỹ quỹ bao gồm:
- Huy động và quản lý vốn và tài sản
- Tập trung đầu tư theo danh mục đầu tư
- Quản lý đầu tư chuyên nghiệp
Các quỹ đầu tư được quản lý bởi các chuyên gia có kỹ năng và giàu kinh
nghiệm người mà được lựa chọn định kỳ căn cứ vào tổng lợi nhuận họ làm ra.
Những chuyên gia không tạo ra lợi nhuận sẽ bị thay thế. Một trong những
nhân tố quan trọng trong việc chọn lựa quỹ đầu tư tốt là quỹ đó phải được
quản lý tốt nhất.
3.7. Lưu ký, bù trừ, thanh toán và đăng ký chứng khoán
Lưu ký chứng khoán là hoạt động lưu giữ, bảo quản chứng khoán của
khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng
khoán được lưu ký [1, tr411]. Lưu ký chứng khoán là một trong những điều
kiện cần thiết để thực hiện giao dịch trên thị trường chứng khoán. Nói đơn
16
giản, lưu ký là việc gửi chứng chỉ chứng khoán như tờ cổ phiếu, trái phiếu,
hoặc các loại giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sở hữu chứng khoán vào hệ
thống lưu ký.
Bù trừ là việc xử lý thông tin về các giao dịch chứng khoán nhằm đưa ra
con số ròng cuối cùng mà các đối tác tham gia phải thanh toán sau khi giao
dịch. Kết quả bù trừ sẽ chỉ ra bên nào phải trả tiền, bên nào phải giao chứng
khoán [1, tr411].
Thanh toán là hoạt động hoàn tất các giao dịch chứng khoán, trong đó
các bên sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình: bên phải trả chứng khoán thực hiện
việc giao chứng khoán, bên phải trả tiền thực hiện việc chuyển tiền [1, tr412].
Đăng ký chứng khoán là việc đăng ký các thông tin về chứng khoán,
quyền sở hữu chứng khoán của người nắm giữ chứng khoán [1, tr412].
II. Tự do hoá thƣơng mại dịch vụ chứng khoán trong khuôn khổ WTO
1. Vài nét về WTO và hiệp định GATS
1.1. Tổ chức Thương mại Thế giới WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization, viết tắt là
WTO) là một tổ chức quốc tế đặt trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ, có chức năng
giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo
các quy tắc thương mại
[ Hoạt động
của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để
tiến tới tự do thương mại. Ngày 13 tháng 5 năm 2005, ông Pascal Lamy được
bầu làm Tổng giám đốc thay cho ông Supachai Panitchpakdi, người Thái Lan,
kể từ ngày 1 tháng 9 năm 2005. Tính đến ngày 23 tháng 7 năm 2008, WTO có
153 thành viên
WTO có các chức năng sau:
- Quản lý việc thực hiện các hiệp định của WTO
- Diễn đàn đàm phán về thương mại
17
- Giải quyết các tranh chấp về thương mại
- Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia
- Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển
- Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác
WTO là tổ chức duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương mại giữa các
quốc gia trên thế giới. Các nguyên tắc của WTO là:
- Không phân biệt đối xử:
+ Đãi ngộ quốc gia: Không được đối xử với hàng hóa và dịch vụ nước
ngoài cũng như những người kinh doanh các hàng hóa và dịch vụ đó
kém hơn mức độ đãi ngộ dành cho các đối tượng tương tự trong nước.
+ Đãi ngộ tối huệ quốc: Các ưu đãi thương mại của một thành viên
dành cho một thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất cả các
thành viên trong WTO.
- Tự do mậu dịch hơn nữa: dần dần thông qua đàm phán
- Tính Dự đoán thông qua Liên kết và Minh bạch: Các quy định và quy
chế thương mại phải được công bố công khai và thực hiện một cách ổn định.
- Ưu đãi hơn cho các nước đang phát triển: Giành những thuận lợi và ưu
đãi hơn cho các thành viên là các quốc gia đang pháp triển trong khuôn khổ
các chỉ định của WTO.
- Thiết lập môi trường cạnh tranh bình đẳng cho thương mại giữa các
nước thành viên
Trọng tâm của WTO chính là các hiệp định đã và đang được các nước
đàm phán và kí kết. Hoạt động của WTO được điều tiết bởi 16 Hiệp định
chính, trong đó khoá luận sẽ quan tâm nhiều hơn đến Hiệp định chung về
thương mại dịch vụ GATS vì có liên quan đến lĩnh vực dịch vụ chứng khoán.
1.2. Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ GATS
Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (General Agreement on Trade
in Services, viết tắt là GATS) là một hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế
18
giới (WTO). Hiệp định được ký kết sau khi kết thúc Vòng đàm phán Uruguay
và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Hiệp định được thiết
lập nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của hệ thống thương mại đa phương
sang lĩnh vực dịch vụ chứ không chỉ điều chỉnh một mình lĩnh vực thương
mại hàng hóa như trước đó
[vi.wikipedia.org/wiki/Hiệp_định_chung_về_Thương_mại_Dịch_vụ]. Hiệp
định được soạn thảo trong bối cảnh ngành dịch vụ đạt mức tăng trưởng nhanh
chóng và đang có tiềm năng phát triển nhờ cuộc cách mạng công nghệ thông
tin. Tất cả các thành viên của WTO đều tham gia GATS.
Điểm đặc biệt là GATS chia ra bốn phương thức cung cấp dịch vụ mang
tính thương mại quốc tế:
- Cung cấp qua biên giới (Phương thức 1): việc cung cấp dịch vụ được
tiến hành từ lãnh thổ của một nước này sang lãnh thổ của một nước khác. Ví
dụ: Gọi điện thoại quốc tế, khám bệnh từ xa trong đó bệnh nhân và bác sỹ
khám ngồi ở hai nước khác nhau.
- Tiêu dùng ngoài lãnh thổ (Phương thức 2): người sử dụng dịch vụ mang
quốc tịch một nước đi đến một nước khác và sử dụng dịch vụ ở nước đó. Ví
dụ: Sửa chữa tàu biển, Lữ hành, Du học, chữa bệnh ở nước ngoài.
- Hiện diện thương mại (Phương thức 3): người cung cấp dịch vụ mang
quốc tịch một nước đi đến một nước khác, lập ra một pháp nhân và cung cấp
dịch vụ ở nước đó. Ví dụ: một ngân hàng thương mại mở một chi nhánh ở
nước ngoài.
- Hiện diện thể nhân (Phương thức 4): người cung cấp dịch vụ là thể nhân
mang quốc tịch một nước đi đến một nước khác và cung cấp dịch vụ ở nước
đó. Ví dụ: Một giáo sư được mời sang một trường đại học ở nước ngoài để
giảng bài.
Những nguyên tắc cơ bản của GATS là:
- Điều chỉnh tất cả các loại dịch vụ
19
- Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc được áp dụng cho tất cả các dịch vụ,
trừ các trường hợp ngoại lệ tạm thời và mang tính hạn chế.
- Đối xử quốc gia chỉ được áp dụng trong lĩnh vực có cam kết.
- Các nước phải đảm bảo tính minh bạch về mặt luật pháp, thiết lập các
điểm thông tin.
- Luật pháp quốc gia trong lĩnh vực này phải khách quan và hợp lý.
- Về nguyên tắc, thanh toán quốc tế không phải chịu hạn chế.
- Cam kết của các nước phải được đàm phán và được ràng buộc.
- Quá trình tự do hóa từng bước được tiến hành thông qua các cuộc đàm
phán mới.
Theo quy định của GATS ngành dịch vụ chứng khoán là một phân ngành
của dịch vụ tài chính và dịch vụ tài chính đã đạt được mức độ cam kết nhất
định của các nước thành viên khi vòng đàm phán Urugoay kết thúc. Theo phụ
lục về dịch vụ tài chính thì các chính phủ có toàn quyền áp dụng các biện
pháp phòng ngừa, chẳng hạn để bảo vệ các nhà đầu tư, người gửi tiền và
người mua bảo hiểm, để đảm bảo tính thống nhất và ổn định của hệ thống tài
chính. Phụ lục cũng quy định rõ hiệp định không áp dụng đối với các dịch vụ
được cung cấp nhằm thực thi quyền lực của chính phủ đối với hệ thống tài
chính, ví dụ như các dịch vụ do các ngân hàng trung ương cung cấp.
2. Tự do hóa thƣơng mại dịch vụ chứng khoán trong khuôn khổ WTO
Sự có mặt của các nhà kinh doanh dịch vụ chứng khoán nước ngoài góp
phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán bất kể thông qua
phương thức hiện diện thương mại hay cung cấp hàng hóa qua biên giới.
Thực tế đã chứng minh việc này làm gia tăng cạnh tranh. Họ đưa thêm vốn,
các sản phẩm tài chính và công nghệ tiên tiến cùng kiến thức chuyên môn vào
thị trường. Từng nhân tố này có thể làm giảm đáng kể chi phí của dịch vụ tài
chính và từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty cung cấp trong
nước.
20
Những quy định pháp lý về dịch vụ tài chính thường bao gồm các quy
chuẩn mà các nhà cung cấp phải đáp ứng thì mới được phép hoạt động trên thị
trường (các quy định cấp phép). Chẳng hạn như các tiêu chuẩn về kiến thức,
nguồn lực, kỹ năng và các thủ tục quản lý đối với các công ty kinh doanh dịch
vụ. Các quy định này còn đưa ra các hướng dẫn về cách quản lý như là việc
cung cấp thông tin khách hàng, thông tin nhà cung cấp, thực hiện các đơn
hàng và việc bảo vệ tài sản của khách hàng cũng như các quy định về gian lận,
giao dịch nội bộ hay thâu tóm thị trường (các quy định quản lý doanh nghiệp
và thị trường).
Một hệ thống pháp lý hiệu quả (có liên quan đến các cam kết của GATS)
sẽ tối đa hóa việc tham gia của các nhà cung cấp và khách hàng mà không
làm mất đi những mục tiêu trọng tâm. Tổ chức Quốc tế của các Uỷ ban
Chứng khoán (International Organization of Securities Commissions, viết tắt
là IOSCO) đã chỉ ra rằng một nhà hoạt động pháp lý thường thực hiện các
hoạt động phân tích chi phí – lợi nhuận để giúp cho việc tìm hiểu về các vấn
đề tài chính trở nên dễ dàng hơn. Các chi phí khác bắt nguồn từ việc ra các
quy định đối với các tổ chức trung gian, khi so sánh với lợi ích đạt được từ
những quy định này, được trông đợi là sẽ đóng góp cho các nhà đầu tư và
những thành phần tham gia thị trường.
Dưới sự điều chỉnh của GATS, các thành viên WTO có thể cam kết theo
cách phù hợp với các quy định pháp lý trong nước. Hơn nữa, có hai ngoại lệ
mà các thành viên có thể áp dụng: điều khoản về các biện pháp thận trọng
(cho phép các thành viên thực hiện những biện pháp bảo vệ nhà đầu tư và
đảm bảo tính trung thực và ổn định của hệ thống tài chính) và điều khoản về
cán cân thanh toán (cho phép các thành viên áp dụng những hạn chế trong
việc chuyển vốn trong trường hợp cán cân thanh toán và tài chính đối ngoại
gặp khó khăn nghiêm trọng).
21
Một giao dịch trong thị trường chứng khoán ngày này thường bao gồm
nhiều nghiệp vụ và liên quan đến một trong bốn phương thức cung cấp dịch
vụ. Ví dụ như việc bảo lãnh các chứng khoán nợ có thể cần đến việc gặp mặt
trực tiếp với quản lý của nhà phát hành, cùng với đó là trao đổi thông tin qua
điện thoại hoặc thư tín (Phương thức 1, 2, 3 và 4). Nhà phát hành còn có thể
thực hiện một hợp đồng chứng khoán phái sinh với người bảo lãnh nhằm
giảm bớt rủi ro về lãi. Các thành viên nên có cam kết trong tất cả loại hình
dịch vụ và bốn phương thức cung cấp dịch vụ để thực sự hội nhập khách hàng
với thị trường tài chính thế giới và đảm bảo những lợi ích của thị trường
chứng khoán tự do. Sau đây là một số cam kết gợi ý của tổ chức tài chính
Securities Industry and Financial Markets Association (viết tắt là SIFMA) đưa
ra cho các thành viên WTO vào năm 2005 nhằm tối đa hóa lợi ích từ việc tự
do hóa thị trường dịch vụ chứng khoán.
2.1. Cung cấp qua biên giới
Các thành viên nên cho chép các tổ chức kinh doanh và khách hàng của
dịch vụ chứng khoán giao dịch qua biên giới, và những nhà cung cấp này
cùng với những dịch vụ của họ phải được hưởng nguyên tắc đãi ngộ quốc gia.
Theo báo cáo của IOSCO, nhiều thành viên WTO đang tạo điều kiện
cho việc cung cấp dịch vụ thông qua một số ngoại lệ trong các quy định cấp
phép, như:
- xem xét nhà đầu tư có “lão luyện” hay không (được định nghĩa theo luật
quốc gia), bằng cách đó thừa nhận rằng luật chứng khoán không cần bảo vệ
các “nhà đầu tư lão luyện” trong một số trường hợp nhất định;
- xem xét các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài có được điều hành tốt
trong phạm vi luật pháp quốc gia đó hay không (nghĩa là đơn phương hay
cùng thừa nhận luật pháp quốc gia khác);