Tải bản đầy đủ (.pdf) (203 trang)

Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 203 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

VÕ KHẮC THƯỜNG

LUẬNVĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2001


MỤC LỤC
Trang
- MỤC LỤC
- BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
- MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH .................... 3
1.1- Bản chất của tài chính .......................................................................... 3
1.1.1 Tài chính là phạm trù kinh tế khách quan .................................... 3
1.1.2 Bản chất của tài chính .................................................................. 5
1.2- Chức năng của tài chính ....................................................................... 9
1.2.1 Chức năng phân phối của tài chính ............................................. 9
1.2.2 Chức năng giám đốc ................................................................... 10
1.3- Cơ chế tài chính và cơ chế quản lý tài chính .................................... 13
1.3.1 Cơ chế tài chính .......................................................................... 13
1.3.2 Cơ chế quản lý tài chính ............................................................. 18
1.4- Nội dung của cơ chế quản lý tài chính ............................................... 21
1.4.1 Cơ chế quản lý động viên tài chính ............................................ 21
1.4.2 Cơ chế quản lý thuế ................................................................... 28
1.4.3 Cơ chế quản lý và điều hành ngân sách nhà nước ..................... 32
1.4.4 Cơ chế quản lý thò trường tài chính ........................................... 43


1.4.5 Cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp ...................................... 45
KẾT LUẬN CHƯƠNG I ............................................................................ 48
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TỪ SAU CHUYỂN ĐỔI CƠ CHẾ KINH TẾ ............................ 49
2.1- Thực trạng của việc áp dụng cơ chế quản lý tài chính

-49-


trong thời kỳ chuyển sang cơ chế thò trường có sự
quản lý của nhà nước ......................................................................... 50
2.1.1 Thực trạng của việc áp dụng cơ chế huy động
các nguồn tài chính trong nước ............................................................ 50
2.1.2 Thực trạng của việc áp dụng cơ chế huy động
vốn nước ngoài .................................................................................... 58
2.2- Thực trạng của việc vận dụng cơ chế và chính sách thuế ............... 61
2.3- Thực trạng của việc áp dụng cơ chế quản lý và
điều hành NSNN ................................................................................. 69
2.3.1 Các kết quả đạt được .................................................................. 69
2.3.2 Các mặt hạn chế và tồn tại của cơ chế quản lý ..............................
và điều hành Ngân sách Nhà nước ..................................................... 79
2.4- Thực trạng hoạt động quản lý thò trường tài chính .......................... 80
2.4.1 Thực trạng cơ chế quản lý các tổ chức tài chính
trung gian còn hạn chế, chỉ chi phối các tổ chức tín dụng .................. 81
2.4.2 Khiếm khuyết một cơ chế quản lý thò trường
tài chính phi chính thức ....................................................................... 82
2.4.3 Cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt bò buông lỏng ............. 84
2.4.4 Cơ chế tạo vốn trong dài hạn chưa phát huy tác dụng ............... 84
2.4.5 Cơ chế điều hành lãi suất, tỉ giá hối đoái .................................. 86
2.4.6 Cơ chế tái cấp vốn ...................................................................... 87

2.4.7 Thò trường chứng khoán - bộ phận trọng yếu của thò trường tài
chính chậm được ra đời .......................................................................................... 88
2.5- Thực trạng của việc áp dụng cơ chế quản lý
tài chính doanh nghiệp ...................................................................... 88
KẾT LUẬN CHƯƠNG II ........................................................................... 98
CHƯƠNG III : CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ
TÀI CHÍNH TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA ... 99
-50-


3.1- Các nguyên tắc đònh hướng hoàn thiện cơ chế quản lý
tài chính phục vụ tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất nước ....................................................................................... 99
3.1.1 Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính phải hướng vào
khaithác tối đa mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho
sự nghiệp CNH và HĐH đất nước gắn với bối cảnh
toàn cầu hóa kinh tế ............................................................................ 99
3.1.2 Cơ chế quản lý tài chính phải thể hiện đầy đủ
vai tròđiều tiết kinh tế vó mô và là đòn bẩy kích thích
tăng trưởng kinh tế ............................................................................ 101
3.1.3 Cơ chế quản lý tài chính phải tạo môi trường pháp lý
bền vững cho sự lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế ....................... 102
3.1.4 Xây dựng chính sách tài chính quôc gia lành mạnh
làm nền tảng để phát huy tác động tích cực của cơ chế
quản lý tài chính ................................................................................ 103
3.2- Các giải pháp chủ yếu về hoàn thiện cơ chế quản lý
tài chính trong điều kiện phát triển kinh tế thò trường
theo đònh hướng xã hội chủ nghóa .................................................... 104
3.2.1 Các giải pháp về động viên các nguồn lực tài chính ............... 104
3.2.2 Tăng cường hiệu lực của hệ thống thuế trong cơ chế

thò trường ở Việt Nam ........................................................................ 114
3.2.3 Hoàn thiện cơ chế quản lý hệ thống NSNN ............................. 129
3.2.4 Giải pháp đẩy nhanh sự phát triển thò trường tài chính
trong cơ chế kinh tế thò trường .......................................................... 144
3.2.5 Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính các doanh nghiệp ........... 151
KẾT LUẬN CHƯƠNG III ....................................................................... 161
KẾT LUẬN LUẬN ÁN ............................................................................ 162

-51-


MỞ ĐẦU
Sau hơn mười năm thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa, nền kinh tế
nước ta đã vượt qua khủng hoảng và đạt được sự ổn đònh. Thành tích quan trọng
và nổi bật nhất là nước ta đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong nhiều năm
liền. Kể từ năm 1976 đến nay, Việt Nam đã trải qua ba giai đoạn tăng trưởng :
nếu trong hai giai đoạn 1976-1985 và 1986-1991 chỉ tăng trưởng lần lượt là 3,7%
/ năm và 4,7% / năm thì ở vào giai đoạn cao điểm 1992-1995 tăng trưởng đạt tới
8,86%. Có nhiều nguyên nhân để lý giải cho tốc độ tăng trưởng cao song một
trong những lý do cơ bản và bao trùm là chúng ta đã sử dụng một cách có hiệu
quả cơ chế và chính sách tài chính - tiền tệ mà trước hết là một cơ chế quản lý
tài chính linh hoạt và hợp lý. Cơ chế quản lý tài chính này đã góp phần làm
giảm lạm phát từ ba con số xuống vòn một con số; ngân sách nhà nước (NSNN)
đã xoay chuyển từ vò thế thâm hụt lớn, triền miên lệ thuộc từ ngoại viện sang
trạng thái lành mạnh, độc lập; đồng tiền Việt Nam từ chỗ bò không ổn đònh do
lạm phát cao nay đã từng bước lấy lại được uy tín và niềm tin trong xã hội; tỷ giá
hối đoái tương đối ổn đònh và tiến gần hơn với tỷ giá hối đoái trong thò trường
trong và ngoài nước; cán cân thanh toán được cải thiện một bước, quan hệ kinh
tế đối ngoại phát triển mạnh cả về qui mô và chất lượng, đặc biệt xuất khẩu
tăng nhanh (trên 25%/năm).

Tính cấp thiết của đề tài luận án được quyết đònh bởi nhu cầu đạt được sự
ổn đònh và tiến tới tăng trưởng kinh tế bền vững thông qua việc xác lập một cơ
chế quản lý tài chính mà trên thực tế các bộ phận trong cơ chế này có sự vận
hành thiếu đồng bộ và không có sự gắn kết chặt chẽ.

-52-


Mục tiêu của đề tài luận án là nhằm vào việc xác lập cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính thích ứng với điều kiện
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong một nền kinh tế thò
trường theo đònh hướng XHCN.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng được xác đònh là phù
hợp với mục tiêu nói trên.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng xuyên suốt trong luận án là
phương pháp duy vật biện chứng. Dựa vào phương pháp này, cơ chế quản lý tài
chính luôn được xem xét như là một hệ thống luôn biến đổi, vận động thường
xuyên và được hoàn thiện. Một số các nguyên tắc và phương pháp sau đây cũng
được quán triệt và vận dụng : nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện,
nguyên tắc thống nhất giữa lòch sử và lôgic, nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ
thể, phương pháp diễn dòch - quy nạp, phương pháp hệ thống v.v…
Những đóng góp mới của luận án
• Làm sáng tỏ khái niệm về cơ chế quản lý tài chính trong nền kinh tế thò
trường và vai trò điều tiết kinh tế vó mô của nó, trên cơ sở đó có biện pháp sử
dụng hiệu quả hơn cơ chế quản lý tài chính để tác động tích cực vào quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
• Phân tích một cách có hệ thống thực trạng và hiệu quả của việc vận dụng
cơ chế quản lý tài chính hiện hành và rút ra những hạn chế của nó để hướng tới
xây dựng một cơ chế quản lý tài chính thích ứng với quá trình vận hành của nền
kinh tế mở và đồng bộ.

• Đề xuất những giải pháp hoàn thiện một cách toàn diện cơ chế quản lý tài
chính nhằm góp phần kích thích, điều chỉnh các quan hệ kinh tế cho phù hợp với
tiến trình Công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước trong xu thế khu vực hóa và
toàn cầu hóa nền kinh tế.

-53-


Nguồn số liệu
Luận án được sử dụng các số liệu qua các niên giám thống kê, các tạp chí,
báo chí và số liệu báo cáo tài chính qua các thời kỳ của Bộ tài chính.
Bố cục của luận án
Nội dung của luận án, ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm ba
chương:
Chương I

: Tổng quan về cơ chế quản lý tài chính

Chương II : Thực trạng cơ chế quản lý tài chính từ sau chuyển đổi cơ chế
kinh tế.
Chương III : Các giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính trong điều
kiện kinh tế thò trường ở nước ta.

-54-


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
1.1. Bản chất của tài chính
1.1.1. Tài chính là phạm trù kinh tế khách quan

Quá trình tái sản xuất xã hội được thể hiện trong sự vận động hữu cơ của các
yếu tố : Sản xuất - phân phối - trao đổi và tiêu dùng. Có sản xuất tất yếu có phân
phối. Như vậy quan hệ phân phối có từ thời cộng đồng nguyên thủy, nhưng phân
phối của tài chính theo quan điểm truyền thống, chỉ xuất hiện khi phân chia tổng
sản phẩm xã hội được diễn ra dưới hình thái giá trò. Điều đó có nghóa là tài chính chỉ
có thể ra đời ở một giai đoạn phát triển nhất đònh của lòch sử nhân loại. Trong tư
cách là phạm trù khách quan, tài chính có nguồn gốc phát sinh, tồn tại và phát triển
của nó gắn với quá trình lòch sử đó. Từ cách nhìn trên, và cũng để chứng minh rằng,
tài chính là phạm trù kinh tế khách quan, cần thiết phải đi ngược lại dòng lòch sử
hình thành và sự vận động của nó.
Như đã biết, quan hệ phân phối sản phẩm đã có trong chế độ cộng sản
nguyên thủy, nhưng phân phối dưới hình thái hiện vật và mang tính chất bình
quân; bởi lẽ lúc bấy giờ phân công lao động còn ở trình độ thấp, sản xuất còn
thô sơ, sản phẩm làm ra không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trực tiếp của
cộng đồng. Như vậy, cũng có nghóa là phạm trù tài chính chưa xuất hiện trong
điều kiện nói trên. Phân công lao động xã hội ngày càng sâu rộng thì nhiều
ngành nghề, theo đó phát triển đa dạng, phong phú và nhu cầu trao đổi hàng
hóa được mở rộng vượt qua khỏi ranh giới cộng đồng truyền thống. Khi đó
cần phải hình thành vật ngang giá chung để thực hiện các quan hệ trao đổi
mua bán. Vật ngang giá chung đi từ qui ước đơn giản đến phức tạp và khi

-55-


kinh tế phát triển đến một trình độ nhất đònh, thì đồng tiền (giá trò) xuất hiện
làm vật ngang giá chung trong quan hệ phân phối trao đổi của đời sống kinh
tế - xã hội. Đây vừa là nguồn gốc vừa là tiền đề cho sự ra đời của phạm trù
tài chính. Mặt khác, phân công lao động xã hội phát triển, tất yếu dẫn đến sự
phân hóa kẻ giàu, người nghèo và đây cũng là nguyên nhân của sự phân chia
xã hội thành giai cấp : Giai cấp thống trò của người giàu và giai cấp bò trò

thuộc về những người nghèo. Nhà nước xuất hiện như một yêu cầu tất yếu để
bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trò hay là công cụ của giai cấp thống trò
và nhà nước là phạm trù lòch sử gắn với việc hình thành giai cấp đối kháng
về giai cấp. Để bộ máy Nhà nước tồn tại và hoạt động cần phải có điều kiện
và cơ sở vật chất bảo đảm. Thuế là hình thức phân phối đầu tiên của tài
chính xuất hiện để tạo ngân quỹ quốc gia phục vụ việc thực hiện các chức
năng của Nhà nước thống trò. Xã hội càng phát triển, bộ máy Nhà nước càng
phình ra, nhu cầu chi tiêu của Nhà nước cũng tăng lên, thuế không thể bảo
đảm đủ khả năng trang trải, thì hình thức động viên tài chính bằng công trái
và nhiều hình thức khác được hình thành, và trở thành nguồn thu bổ sung của
Ngân sách nhà nước. Khi thông thương, kinh tế thế giới phát triển lại tiếp tục
xuất hiện các hình thức vay nợ nước ngoài (như Ngân hàng thế giới, Q tiền
tệ quốc tế, Ngân hàng phát triển Châu Á, Vay nợ chính thức của Chính phủ
ODA …). Với xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế, thì các quan hệ vay
mượn này ngày càng phát triển hơn và là một bộ phận cấu thành nguồn bổ
sung quan trọng thu quan trọng của ngân sách quốc gia.
Từ những phân tích trên, cho phép rút ra :
• Kinh tế hàng hóa ra đời trên cơ sở phát triển của phân công lao động xã
hội là nguyên nhân sâu xa quyết đònh sự ra đời của phạm trù tài chính.

-56-


Trên góc độ này, tài chính được coi là phạm trù kinh tế, bởi nó gắn chặt
với sự ra đời, tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hóa.
• Nhà nước là nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện phạm trù tài chính,
bởi nó gắn với sự ra đời và phát triển của Nhà nước.
Như vậy, tài chính là phạm trù kinh tế lòch sử khách quan. Phạm trù tài
chính chỉ chấm dứt vai trò lòch sử của nó khi kinh tế hàng hóa và Nhà nước
không còn lý do tồn tại.

Từ khi xuất hiện, phạm trù tài chính đã được nhận thức vận dụng và sử
dụng nó như công cụ phục vụ đắc lực cho việc thực hiện các chức năng của Nhà
nước đương quyền. Trải qua các chế độ xã hội của Nhà nước nô lệ, Nhà nước
phong kiến, Nhà nước TBCN và Nhà nước XHCN (đònh hướng XHCN). Các
công cụ tài chính ngày càng được nâng cao hơn vai trò của nó trong đời sống
kinh tế xã hội. Nó không dừng lại ở vai trò động viên các nguồn lực tài chính,
mà còn là công cụ có hiệu lực tham gia trong đầu tư phát triển, xác lập cơ cấu
kinh tế, điều tiết, kích thích và kiểm soát các hoạt động kinh tế cũng như tác
động tích cực trong kinh tế đối ngoại. Nói cách khác, trong điều kiện kinh tế
hiện đại, tài chính đã trở thành công cụ kinh tế đa chức năng, và là một bộ phận
quan trọng cấu thành cơ chế quản lý kinh tế của các quốc gia.
1.1.2. Bản chất của tài chính
Về bản chất của tài chính có thể xem xét từ 2 góc độ.
Thứ nhất, nhìn trên góc độ quản lý hay tác nghiệp, thì : tài chính thể hiện
như các khoản thu - chi bằng tiền và các quan hệ giao dòch thanh toán của các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế với các cơ quan hữu quan theo các chức năng
được xác đònh.
Thứ hai, đứng trên góc độ là phạm trù kinh tế, hiện nay cũng tồn tại 3
quan điểm (1)

-57-


- Theo quan điểm thứ nhất, “Tài chính là hệ thống quan hệ phân phối
dưới hình thái giá trò, phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ
tiền tệ tập trung và không tập trung, nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã
hội trong từng thời kỳ”.
- Quan điểm thứ hai cũng tương tự nhưng thay vì quan hệ phân phối là
quan hệ tiền tệ …
- Quan điểm thứ ba, thì “Tài chính là hệ thống (tổng thể) quan hệ kinh

tế, gắn với việc phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân và các
nguồn tiền tệ khác trong quá trình hình thành và sử dụng các q tiền tệ nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội được xác đònh”.
Theo chúng tôi, với cách nhìn toàn diện và biện chứng, thì việc xem xét
bản chất của tài chính phải nhìn từ góc độ nó là phạm trù kinh tế. Bắt nguồn từ
đó chúng tôi cho rằng quan điểm thứ ba trong cách nhìn nhận về bản chất tài
chính là hội đủ các yếu tố khoa học và thực tiễn hơn cả. Bởi lẽ, quan điểm này
hàm chứa nguyên lý kinh tế quyết đònh tài chính, sản xuất quyết đònh phân phối,
mà sản xuất lại là yếu tố cốt lõi của kinh tế. Tài chính, một mặt phản ánh mọi
quan hệ kinh tế, mặt khác giữ vai trò điều chỉnh thường xuyên các quan hệ kinh
tế phát sinh. Đònh nghóa này vừa phản ảnh được nguồn gốc đích thực của tài
chính, vừa thể hiện được sự tác động hữu cơ của tài chính trong quá trình vận
hành kinh tế. Mặt khác, ở đònh nghóa này cũng không dừng lại ở tài chính chỉ
phân phối “tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân” mà còn cả “các nguồn
tiền tệ khác”. Điều này phản ảnh đúng những đặc trưng vốn dó của nền kinh tế
thò trường.

(1) Những quan điểm này phát sinh trong tranh luận tại các cuộc hội thảo khoa học của
Trường Đại học kinh tế và Trường Đại học Tài chính Kế toán vào cuối những năm 80 đến
nay.

-58-


Chúng tôi cho rằng đònh nghóa “tài chính là hệ thống quan hệ tiền tệ
…”, thực chất chưa mở ra được nội dung thực thể của tài chính, bởi quan hệ
tiền tệ chỉ là sự biểu hiện hình thức vận động của các quan hệ tài chính, mặc
dù trong điều kiện kinh tế thò trường quan hệ tiền tệ biểu hiện khá nổi bật và
đa dạng. Chúng tôi cũng không đồng tình với quan điểm “tài chính là hệ
thống các quan hệ phân phối …”. Vì quan hệ phân phối chỉ là đặc trưng vốn

có nằm trong thuộc tính vò trí của tài chính mà thôi.
Trở lại nội dung chính yếu của tài chính theo đònh nghóa lựa chọn của
chúng tôi : Tài chính là hệ thống quan hệ kinh tế …….. Vậy các quan hệ kinh tế
cấu thành của phạm trù tài chính là gì ?
Hệ thống các quan hệ đó, gồm :
- Quan hệ giữa Nhà nước (thông qua ngân sách nhà nước) với các tổ chức
kinh tế. Quan hệ này được thể hiện trong hoạt động thực tiễn thông qua các hình
thức động viên tích lũy tiền tệ như : thuế, phí ; các chính sách đòn bẩy của Nhà
nước : miễn giảm thuế, trợ giá, bao tiêu, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, các
ngành kinh tế mũi nhọn của tiến bộ khoa học công nghệ, góp phần hình thành cơ
cấu kinh tế tối ưu trong từng thời kỳ, cũng như tạo những “đột biến” trong phát
triển kinh tế quốc dân.
Quan hệ này được coi như là yếu tố trung tâm của các quan hệ tài
chính. Bởi nó là quan hệ giữa khâu chỉ đạo và khâu cơ sở của tài chính, đồng
thời cũng là khởi điểm phân phối tài chính, vì thế nó là cơ sở để giải quyết
các quan hệ lớn như: quan hệ giữa tích lũy tiêu dùng xã hội, quan hệ tích tụ
tập trung vốn …. Từ các quan hệ có tính chất quyết đònh đó trong phân phối
tài chính, nó cũng là cơ sở để hình thành cơ chế quản lý tài chính, giúp cho
Nhà nước thực hiện điều tiết vó mô nền kinh tế.

-59-


- Quan hệ giữa Nhà nước với các cơ quan chức năng của Nhà nước, thông
qua cấp phát, tài trợ vốn và kinh phí để thực hiện các chức năng của chúng. Suy
cho cùng đây cũng là tác động gián tiếp vào quá trình kinh tế.
- Quan hệ giữa các tổ chức kinh tế với nhau, thông qua thực hiện các hợp
đồng kinh tế và quan hệ thanh toán thương mại. Đây là quan hệ giữa những khâu
cơ sở của hệ thống tài chính; nó có ý nghóa quyết đònh trong việc tổ chức, chu
chuyển vốn cũng như là yếu tố quyết đònh hình thành thò trường tài chính cho

nền kinh tế quốc dân.
Quan hệ giữa Nhà nước với các tầng lớp dân cư, thông qua thuế đối với
các thể nhân, các quan hệ tín dụng Nhà nước như : trái phiếu, xổ số kiến
thiết và các hình thức đóng góp tự nguyện của các cá nhân và đoàn thể trong
việc xây dựng các công trình văn hóa xã hội. Về phía Nhà nước là kiến tạo
các công trình phúc lợi công cộng và thực hiện an sinh xã hội, bảo đảm công
bằng giữa các tầng lớp dân cư.
- Quan hệ giữa các tổ chức kinh tế với các thành viên trong các tổ chức
đó. Quan hệ này thể hiện trách nhiệm và các lợi ích kinh tế thông qua trả công
lao động, tiền thưởng, phân phối và sử dụng các quỹ doanh nghiệp… Trong đó
tiền lương và tiền thưởng là yếu tố động lực trực tiếp trong hoạt động của các tổ
chức kinh tế.
Qua những phân tích trên, cho thấy rõ, tài chính là hệ thống các quan hệ
kinh tế. Và các quan hệ kinh tế đó, được thể hiện tập trung các khía cạnh sau :
Thứ nhất, Mọi nguồn tài chính được động viên để hình thành các quỹ tiền
tệ tập trung và không tập trung đều được quyết đònh bằng kết quả của các hoạt
động kinh tế.
Thứ hai, Các quan hệ phân phối của tài chính phản ảnh toàn diện các lónh
vực hoạt động kinh tế trực tiếp hoặc gián tiếp.

-60-


Thứ ba, Đầu tư của tài chính tập trung chủ yếu cho phát triển kinh tế.
Đây cũng chính là quan hệ hữu cơ trong tồn tại, tăng trưởng và phát triển kinh tế
và cũng là nhân tố quyết đònh sự vận động của mọi nguồn lực tài chính.
Trên góc độ khác, để phân tích toàn diện về nội dung kinh tế - xã hội sâu
xa của tài chính, cũng cần gắn nó với các nhân tố tác động hữu cơ, như phương
thức sản xuất mà trong đó phạm trù tài chính hoạt động. Trong phương thức sản
xuất nói trên thì quan hệ sản xuất là yếu tố tác động trực tiếp. Cấu thành của

quan hệ sản xuất gồm quan hệ sở hữu, quan hệ phân phối và quan hệ quản lý.
Với nội dung cấu thành đó, quan hệ sản xuất gây tác động trực tiếp đến việc
hình thành cơ cấu tổ chức hệ thống tài chính, cơ chế vận hành của các quan hệ
tài chính và tính chất hoạt động của chúng.
- Bản chất chức năng của Nhà nước chi phối bản chất của tài chính thông
qua các chiến lược, chính sách tài chính, bởi tài chính là công cụ của Nhà nước.
- Sự hoạt động của các qui luật giá trò, qui luật Cung - Cầu và qui luật
cạnh tranh - Các qui luật này có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phương thức vận động
của các quan hệ tài chính và quyết đònh đến hiệu lực của chúng trong tư cách
kích thích, điều tiết các hoạt động kinh tế.
Sự kết hợp đan xen các yếu tố nói trên là căn cứ để phân tích một cách
toàn diện, có căn cứ khoa học và thực tiễn vững chắc trong phương pháp nhìn
nhận bản chất của tài chính, đồng thời cũng hình thành cơ sở về kinh tế - xã hội
cho việc đònh hình cơ chế quản lý tài chính mang tính toàn diện, hệ thống và
đồng bộ nhằm tác động có hiệu quả đến quá trình vận hành kinh tế.

1.2. Những chức năng của tài chính
Chức năng của tài chính, là đặc tính vốn dó của phạm trù tài chính. Nói
cách khác, chức năng của tài chính được hình thành bởi nội tại của phạm trù

-61-


tài chính và như vậy, nó cũng thể hiện những vốn tính khách quan của phạm
trù tài chính. Trong hoạt động thực tiễn, sự vận dụng các chức năng này để
đề ra các nhiệm vụ của tài chính phù hợp với những điều kiện và đặc điểm
kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Theo quan điểm chính thức hay quan điểm truyền thống ở Việt Nam hiện
nay, tài chính có 2 chức năng : Chức năng phân phối và Chức năng giám đốc.
1.2.1. Chức năng phân phối của tài chính

Phân phối là đặc tính chủ yếu của tài chính. Phân phối của tài chính là
phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Quan hệ phân phối này,
một mặt do kết quả hoạt động kinh tế quyết đònh, mặt khác phục vụ cho các
nhiệm vụ kinh tế - xã hội được xác lập. Nói cách khác, cơ sở của phân phối tài
chính là các quan hệ kinh tế - xã hội. Phân phối của tài chính đa dạng và phong
phú nhưng suy cho cùng là hình thành nên quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng xã hội,
nhằm thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế và bảo đảm phúc lợi an sinh xã
hội.
Để đáp ứng toàn diện các mục tiêu kinh tế - xã hội, phân phối của tài
chính được diễn ra bởi quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại (tái phân
phối).
1.2.1-1 Phân phối lần đầu của tài chính được coi như việc thực hiện
phân phối phần thu nhập cơ bản được sáng tạo trong nền kinh tế quốc dân
giữa những thành viên (kể cả cá nhân và tổ chức) hoạt động trong lónh vực
sản xuất kinh doanh. Nói cách khác, đó là sự “dự phần” phân phối của những
chủ thể tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế và tạo ra của cải xã hội.
Kết quả của phân phối lần đầu sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, đại bộ
phận được hình thành các quỹ tiền tệ tập trung (của Nhà nước), không tập

-62-


trung (của các tổ chức kinh tế) và phân phối theo kết quả lao động dưới hình
thức tiền lương (tiền công) hoặc lợi tức cổ phần v.v…
1.2.1-2 Phân phối lại (tái phân phối) : Nếu chỉ dừng ở phân phối lần đầu, thì
sản phẩm xã hội (biểu hiện dưới hình thái giá trò) không thể thâm nhập vào mọi lónh
vực hoạt động xã hội. Do đó, trong quan hệ tài chính có khái niệm về tái phân phối
(hay phân phối lại). Tái phân phối là sự tiếp tục phân phối những phần thu nhập đã
được hình thành trong phân phối lần đầu để đáp ứng mọi nhu cầu của xã hội. Tái phân
phối có ý nghóa xã hội rất lớn:

• Đảm bảo nhu cầu của các hoạt động thuộc lónh vực phi sản xuất vật chất.
• Điều hòa thu nhập giữa các vùng các ngành kinh tế và lónh vực hoạt
động của đất nước.
• Thông qua tái phân phối thực hiện sự đóng góp công bằng hợp lý giữa
các tầng lớp dân cư để góp phần thực hiện an sinh xã hội.
• Huy động các nguồn vốn nhàn rỗi tham gia thò trường tài chính, phục vụ
quá trình tái sản xuất xã hội.
Thông qua phân phối lần đầu và tái phân phối, các quan hệ tài chính thâm
nhập vào mọi lónh vực của đời sống xã hội và thúc đẩy chu trình tái sản xuất xã
hội ngày càng mở rộng. Cũng chính trong quá trình thực hiện các quan hệ phân
phối nói trên, các công cụ tài chính thể hiện rõ tác động của mình và được Nhà
nước sử dụng ưu thế vốn có để thực hiện điều tiết vó mô nền kinh tế như : thuế,
chính sách tài trợ, chính sách đầu tư trọng điểm, chính sách động viên nguồn lực
trong dân cư, dự trữ quốc gia và kết hợp với các công cụ hữu quan khác như : giá
Nhà nước, hối suất, bao tiêu, trợ giá, ưu đãi tín dụng v.v… hình thành một hệ
thống điều tiết đồng bộ của Nhà nước trong điều hành kinh tế quốc gia.
1.2.2. Chức năng giám đốc

-63-


Tính hợp lý và hiệu quả của phân phối tài chính chỉ có thể được xác nhận
thông qua giám đốc tài chính. Giám đốc tài chính thực chất là sự giám sát các
hoạt động kinh tế thông qua sự vận động của vốn tiền tệ từ khâu sáng tạo ra sản
phẩm quốc dân đến nơi có nhu cầu về chúng, nhằm bảo đảm cho các q tiền tệ
và các quan hệ tiền tệ được phân phối và sử dụng một cách tối ưu. Trong thực
tế, giám đốc tài chính được thực hiện ở tất cả các khâu của hệ thống tài chính và
ở các giai đoạn vận động của đồng tiền, thuộc phạm trù tài chính. Giám đốc tài
chính được hướng tới mục đích cuối cùng là : bảo đảm tính hiệu quả, tiết kiệm
trong sử dụng đồng tiền cũng như đề cao sự tôn trọng kỷ cương pháp luật tài

chính và chống tham nhũng. Ngoài ra, Giám đốc tài chính còn là căn cứ để điều
chỉnh các kế hoạch kinh tế - xã hội ở ngay khâu lập kế hoạch (dự toán) hoặc
trong quá trình thực thi chúng.
Hai chức năng này có mối quan hệ hữu cơ. Trong mối quan hệ đó, phân
phối là chức năng chính yếu, hoặc là nội dung cốt lõi của tài chính; còn giám
đốc là điều kiện đảm bảo cho phân phối tài chính hoạt động đúng hướng và hiệu
quả.
Nhân phân tích về chức năng của tài chính, chúng tôi xin được đề cập đến
quan điểm của mình về vấn đề này. Như chúng ta đã biết, theo quan điểm hiện
hành thì tài chính doanh nghiệp có 3 chức năng :
- Chức năng tổ chức vốn
- Chức năng phân phối
- Chức năng Giám đốc
Theo chúng tôi quan điểm trên là xác đáng và có cơ sở khoa học. Điều đó
được lý giải bởi, tài chính các doanh nghiệp - là khâu cơ sở của hệ thống tài
chính, là nơi góp phần trực tiếp sáng tạo ra thu nhập quốc dân. Khi chưa sáng tạo
được thu nhập quốc dân hoặc đã sáng tạo nhưng không đủ tích lũy để mở rộng

-64-


kinh doanh, thì việc tổ chức vốn huy động vốn là yêu cầu khách quan. Vậy tại
sao khâu cơ sở của hệ thống tài chính có 3 chức năng mà tài chính chung (gồm
toàn bộ hệ thống tài chính). Chỉ có 2 chức năng ? Khi mà chức năng tổ chức vốn
trong thực tế đều có phát sinh trong mỗi khâu của hệ thống tài chính, đặc biệt
được thể hiện rất rõ rệt trong cơ chế kinh tế thò trường. Ví dụ tài chính của Nhà
nước (NSNN) là q tiền tệ tập trung chủ yếu của Nhà nước - Khâu chủ đạo của
hệ thống tài chính, trong quá trình thực hiện cân đối ngân sách nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế xã hội được xác đònh trong từng thời kỳ, cũng phải thực
hiện chức năng tổ chức vốn như : Vay nợ và viện trợ nước ngoài, vay nợ trong

nước (trái phiếu từ dân cư, các tổ chức kinh tế hoặc vay của hệ thống Ngân
hàng …), huy động vốn cổ phần, huy động vốn đầu tư nước ngoài trong liên
doanh với kinh tế nhà nước và các hình thức huy động tự nguyện khác (xổ số
kiến thiết, dân góp vốn dưới hình thức Nhà nước và dân cùng làm …). Những
nguồn tài chính được huy động như trên, theo chúng tôi không thỏa khái niệm
phân phối sản phẩm xã hội của tài chính mà là tổ chức huy động các nguồn vốn
(gọi tắt là tổ chức vốn). Để làm rõ điều này, cũng cần xác đònh khách quan nội
dung và giới hạn của chức năng phân phối. Theo chúng tôi khái niệm về chức
năng phân phối (gồm phân phối lần đầu và tái phân phối) của tài chính chỉ giới
hạn trong 2 điều kiện sau :
- Việc phân chia sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sáng tạo
giữa những cá nhân hoặc tổ chức tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp trong quá
trình sản xuất kinh doanh.
- Phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân giữa các thành viên có
quan hệ về quyền lợi và nghóa vụ kinh tế - xã hội mang tính pháp đònh, bao gồm
các hình thức và quan hệ phân phối như : thuế, lệ phí, phân phối và điều hòa vốn
giữa các vùng, các ngành, các lónh vực bởi Nhà nước hoặc đầu tư phát triển kinh

-65-


tế xã hội của Nhà nước thông qua ngân sách, thực hiện tái phân phối trong các
ngành các tổ chức kinh tế - xã hội. Nói tóm lại, phân phối tài chính thông qua
ngân sách nhà nước chỉ diễn ra trong điều kiện : Nhà nước trong tư cách là chủ
thể hoặc có vai trò gián tiếp trong quá trình tái sản xuất và phân phối … hoặc sử
dụng quyền lực để chi phối trong quan hệ phân phối tài chính.
Từ cách nhìn đó, chúng tôi cho rằng sự huy động vốn bằng hình thức tự
nguyện hay vay nợ viện trợ từ nước ngoài không nằm trong chức năng phân phối
mà là chức năng tổ chức vốn. Như vậy ngân sách Nhà nước - khâu chủ đạo của
hệ thống tài chính, với quan điểm của chúng tôi cũng có 3 chức năng như đã nói

trên. Điều này có thể cho phép rút ra rằng, tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở,
ngân sách nhà nước là khâu chủ đạo, quan hệ giữa hai khâu này là quan hệ trung
tâm và chi phối toàn bộ hệ thống tài chính, do vậy nếu tài chính doanh nghiệp có
3 chức năng và ngân sách nhà nước cũng có 3 chức năng, thì tài chính tổng thể
cũng không thể không bao hàm các chức năng đó.
Chúng tôi đề cập vấn đề trên không thuần túy đứng trên góc độ học thuật,
mà điều chủ yếu là muốn rút ra những ý nghóa thực tiễn để xây dựng cơ chế
quản lý tài chính. Việc đưa ra luận chứng về chức năng tổ chức vốn của tài
chính xuất phát từ ý tưởng là : sự thu hút các yếu tố tài chính thuộc chức năng tổ
chức vốn, hầu như không phụ thuộc vào sự chi phối bởi vai trò kinh tế hoặc
quyền lực của Nhà nước, mà chủ yếu nhờ vào các chính sách và biện pháp hợp
thời, hợp lý của Nhà nước.
Do đó, trong thu hút các nguồn tài chính thuộc chức năng tổ chức vốn,
Nhà nước cần có chính sách, biện pháp linh hoạt, mềm dẻo thích ứng với những
đặc điểm và điều kiện kinh tế - chính trò - xã hội trong từng thời kỳ phát triển.

-66-


1.3. Cơ chế tài chính và cơ chế quản lý tài chính
Đến nay vẫn còn những quan niệm khác nhau về cơ chế tài chính và cơ
chế quản lý tài chính cũng như cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế. Trong
thực tế, không ít chúng ta còn đồng nhất hai khái niệm này hoặc sử dụng thuật
ngữ "cơ chế" không phản ảnh đích thực với nội dung của nó. Do vậy, ở đây
chúng tôi xin mạnh dạn đưa ra những quan điểm của mình về cơ chế tài chính và
cơ chế quản lý tài chính nhìn trên góc độ là phạm trù kinh tế và ở góc độ là công
cụ kinh tế.
1.3.1. Cơ chế tài chính
Tài chính, như đã được xem xét, bao gồm nhiều nội dung, tác động đến
nhiều mối quan hệ khác nhau, một khi đã trở thành một công cụ lợi hại trong tay

Nhà nước thì từng bộ phận cấu thành, từng tác động của nó trong quá trình tái
sản xuất xã hội không thể tồn tại một cách riêng lẻ mà được kết nối, đan xen với
nhau trong một cơ chế thống nhất. Theo từ điển thuật ngữ Tài chính - tín dụng thì
cơ chế tài chính được đònh nghóa như sau: “ Cơ chế tài chính là hệ thống các hình
thức, phương pháp, biện pháp và tổ chức quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng
các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế quốc dân”.
Xét về một khía cạnh nào đó hai khái niệm “cơ chế tài chính” và “cơ chế
quản lý tài chính” có thể được xem là đồng nhất. Thật vậy, điều này xảy ra khi
chúng ta quan niệm “tài chính” là công cụ để quản lý kinh tế ở tầm vó mô lẫn ở
phạm vi vi mô. Tuy nhiên, trên thực tế, mặc dù 2 khái niệm này được sử dụng
khá rộng rãi trên các công trình nghiên cứu, sách báo, chính sách chế độ, nhưng
chưa có sự phân biệt rạch ròi về nội dung của chúng, thậm chí dùng khái niệm
này thay cho khái niệm kia và ngược lại trong cùng một nội dung nghiên cứu.
Theo một số tác giả, sự phân biệt này chỉ mang tính chất tương đối, bởi lẽ:

-67-


• Khi dùng khái niệm “cơ chế tài chính” chúng ta có hàm ý các bộ phận
cấu thành, tác động của tài chính là một thể thống nhất, được đònh hướng
theo một mục tiêu nhất đònh và tài chính lúc này mới chỉ “có khả năng”
trở thành công cụ để “quản lý” kinh tế.
• Khi sử dụng khái niệm “cơ chế quản lý tài chính” thì ngoài nội dung của
“cơ chế tài chính” như đã nêu trên, tài chính được khẳng đònh rõ nét là
một công cụ để “quản lý”ù kinh tế.
Nhưng theo chúng tôi, cách nhìn nhận như trên chưa phải là một lý giải
thỏa đáng, bởi hai khái niệm này, nếu qua thuật ngữ được sử dụng thì rõ ràng
giữa chúng có một nguồn gốc kinh tế và có mối quan hệ hữu cơ, song không thể
đồng nhất hoàn toàn về nội dung, cơ cấu, vai trò, cũng như phương thức tồn tại
và vận động. Từ cách nhìn đó, theo chúng tôi “cơ chế tài chính” có thể hiểu đó

là một phạm trù kinh tế khách quan phản ánh sự hình thành tồn tại và vận động
của một phương thức sản xuất tương ứng, trong đó cơ chế tài chính chòu sự chi
phối trực tiếp bởi quan hệ sản xuất mà cốt lõi là quan hệ sở hữu hoặc chế độ sở
hữu cấu thành của quan hệ sản xuất đó. “Cơ chế quản lý tài chính” là phương
thức tác động vào sự vận hành của các quan hệ kinh tế thuộc phạm trù “cơ chế
kinh tế” tương ứng, thông qua nhận thức của con người nhằm đạt tới những mục
tiêu quản lý đã được xác đònh.
Để làm sáng tỏ thuật ngữ “cơ chế tài chính” và “cơ chế quản lý tài chính”
cần được thông qua khái niệm về “cơ chế kinh tế” và “cơ chế quản lý kinh tế”
tương ứng ở Trung Quốc gọi là "thể chế kinh tế" và "cơ chế vận hành kinh tế"
hoặc "thể chế tài chính" và "cơ chế vận hành tài chính", bởi lẽ kinh tế quyết
đònh tài chính hay nói cách khác, tài chính phản ánh các quan hệ kinh tế. Trong
mối quan hệ này kinh tế là gốc. Song cũng cần nhấn mạnh rằng tài chính không
thụ động phản ánh các quan hệ kinh tế mà nó gây ra các tác động tích cực,

-68-


ngược lại đối với các quan hệ kinh tế tài chính có thể điều chỉnh được các quan
hệ kinh tế đồng hành.
Như vậy, phương thức sản xuất, trực tiếp là quan hệ sản xuất, trong đó,
cốt lõi là quan hệ sở hữu hay chế độ sở hữu tác động đến việc hình thành “cơ
chế kinh tế” và “cơ chế quản lý kinh tế”. Với cách nhìn đó trong điều kiện kinh
tế hiện nay, “cơ chế kinh tế” tồn tại dưới hai dạng chủ yếu: “Cơ chế kinh tế kế
hoạch tập trung” và “cơ chế kinh tế thò trường”, ứng với các chế độ sở hữu “tập
quyền” hoặc “phân quyền” trong một chế độ xã hội.
Nói cách khác, chế độ sở hữu tác động trực tiếp đến nội dung của “cơ chế
kinh tế” bao gồm: cơ cấu kinh tế (trong đó cơ cấu các thành phần kinh tế), các
quan hệ kinh tế, quan hệ phân phối và các phương thức quản lý nền kinh tế… Có
thể đi sâu hơn vào hai dạng cơ chế kinh tế nói trên:

Về cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Do chòu sự chi phối bởi chế độ sở hữu “tập quyền”, cơ chế kinh tế kế
hoạch tập trung được hình thành với cơ cấu kinh tế đơn nhất, các quan hệ kinh tế
thiếu tính đa phương, đa dạng, quan hệ phân phối ít tính đến sự tác động của qui
luật giá trò, qui luật cung cầu và qui luật cạnh tranh. Yếu tố kích thích kinh tế bò
hạn chế và phương thức quản lý kinh tế dựa vào quyền lực của Nhà nước, có
nghóa là sử dụng mệnh lệnh hành chính để điều hành các quan hệ kinh tế, gây
nên sự lẫn lộn giữa quản lý Nhà nước về mặt kinh tế với quản lý kinh doanh của
các doanh nghiệp…
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế quản lý tài chính chỉ
đơn thuần là cơ chế “cấp phát và giao nộp”, “phân phối dưới hình thức giá trò
đan xen với phân phối bằng hiện vật” tập trung toàn bộ vào khâu tài chính Nhà
nước.

-69-


Đặc điểm của cơ chế quản lý tài chính được áp dụng trong thời kỳ kế
hoạch hóa tập trung (tức là từ năm 1986 trở về trước) được nhận xét một cách
ngắn gọn nhưng rất xác đáng như sau:
Một là, đề cao tính kế hoạch, coi tính kế hoạch là đặc trưng số một;
tiền tệ, các quỹ tiền tệ chỉ là thứ yếu. Tư tưởng này được pháp luật hóa thành
cơ chế cưỡng bức "coi kế hoạch là pháp lệnh của Nhà nước". Ai vi phạm kế
hoạch là vi phạm pháp luật Nhà nước. Đi liền với tính pháp lệnh, về phía
Đảng, kế hoạch được coi là cương lónh thứ hai. Đi liền với tính kế hoạch là
tính hiện vật hóa nền kinh tế, chứ không phải là tiền tệ hóa nền kinh tế. Do
vậy mà các công cụ tài chính, tiền tệ, ngân hàng, giá cả, giá trò chỉ là thứ yếu
để phục vụ kế hoạch. Một khi đã có chỉ tiêu kế hoạch thì bất chấp mọi hiệu
quả, tài chính phải cấp phát tiền, ngân hàng phải cho vay vốn. Tóm lại, công
cụ tài chính, tiền tệ bò vô hiệu hóa tới mức tối đa, bò mất tác dụng điều hòa,

điều tiết và kiểm kê, kiểm soát nền kinh tế.
Hai là, tài chính, tiền tệ, hạch toán kinh tế, lợi nhuận, thuế, bảo hiểm,
NSNN ..., đáng lẽ là công cụ chủ yếu để quản lý vó mô, phân bố vốn và sử
dụng hiệu quả đồng vốn trong nền KTQD, thì nó lại bò tước mất linh hồn sống
bởi các việc phân bố nguồn vốn chòu ảnh hưởng của một hệ thống hành chính
bao cấp:
• NSNN chỉ được dùng để bù giá, bù lỗ, bù chênh lệch xuất, nhập khẩu và
trả lương cho bộ máy hành chính. Trong việc phân phối vốn đầu tư, NSNN
chỉ là thủ quỹ của Ủy ban kế hoạch Nhà nước, phải cấp phát theo lệnh.
• Thuế chỉ chiếm 30% tổng thu NSNN, còn thu NSNN lại chủ yếu là thu
quốc doanh chiếm 50-60% tổng số thu. Thực chất thu quốc doanh lại là
thu chênh lệch giá hàng nhập bao cấp với giá hàng đó bán trong nước.
Đây là một ngân sách phụ thuộc vào nước ngoài kiểu bao cấp theo cơ chế

-70-


kế hoạch tập trung. Vai trò NSNN trong việc điều hành và quản lý hầu
như rất ít ỏi.
• Hạch toán kinh tế bằng văn bản đã có từ năm 1955, nhưng trên thực tế,
các xí nghiệp chỉ đơn thuần là những đơn vò thừa hành, nhận vật tư, sản
xuất, tính giá thành, giá bán và lợi nhuận theo kế hoạch. Bán theo kế
hoạch và đòa chỉ cấp trên cho phép, nếu lỗ Nhà nước bù, ngân sách cấp,
lãi nộp 80% cho NSNN; quyền tự chủ tài chính gần như bằng không.
• Bảo hiểm là công cụ tài chính sắc bén để "chống rủi ro", san bằng rủi ro
trong kinh doanh rủi ro. Nhưng kinh doanh rủi ro lại được tồn tại một cách
đơn điệu và rất hạn hẹp bởi vì mọi rủi ro đã có Nhà nước gánh chòu. Bảo
hiểm xã hội cũng mang nặng tính bao cấp, nằm trong ngân sách, không
tách thành quỹ riêng, nếu có thì đó cũng chỉ là hình thức mà thôi.
• Ngân hàng, một nội dung quan trọng của quan hệ tài chính, sinh ra chỉ để

tài trợ cho sự thiếu hụt của ngân sách, một công cụ được dùng thông qua
tín dụng bao cấp để thực hiện các chỉ tiêu sản lượng của kế hoạch. Còn
việc cho vay và đi vay không cần quan tâm đến việc có hay không có
hiệu quả.
• Về quan hệ tài chính đối ngoại và cán cân thanh toán thì theo cơ chế bao
cấp, thông qua viện trợ không hoàn lại là chủ yếu và nhất là quan hệ với
khối SEV. Cán cân thanh toán chủ yếu là nhập siêu, từ chỗ không có xuất
vẫn có nhập, đến chỗ xuất 1 nhập 3. Tài chính đối ngoại do đó chủ yếu là
phân phối vốn nhập siêu, vốn viện trợ với giá bao cấp để thu chênh lệch
giá.
Ba là, công cụ tài chính được sử dụng để tạo ra các nguồn thu ảo như thu
quốc doanh, thu chênh lệch giá... Hễ có sản phẩm sản xuất ra là phải nộp thu

-71-


quốc doanh, dù cho sản phẩm đó không bán được, không được thò trường chấp
nhận, do vậy sinh ra thu ảo.
Từ những thực trạng đó, gây nên bội chi ngân sách triền miên và dẫn đến
lạm phát trầm trọng của nền kinh tế.
Thực chất việc chống lạm phát trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trong
thời gian qua là chống bao cấp qua tài chính, giá và lãi suất ngân hàng. Trước
đây, do giá bao cấp, tài chính bao cấp, lãi suất bao cấp, nên các doanh nghiệp
tìm mọi cách khai thác các khoản tài chính bao cấp về giá trò hàng hóa, vật tư để
ăn "chênh lệch giá." - là nguyên nhân dẫn đến sự bế tắc trong phát triển kinh tế.
Chuyển sang kinh tế thò trường
Việt Nam thực hiện đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo hướng “tự chủ,
tự chòu trách nhiệm và thực hiện hạch toán kinh doanh”, Nhà nước quản lý tài
chính bằng pháp luật.
Khác với cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung, cơ chế kinh tế thò trường chòu

sự chi phối bởi chế độ sở hữu “phân quyền”, do vậy cơ cấu kinh tế đa dạng, các
quan hệ kinh tế mở và đa phương, quan hệ phân phối dựa trên cơ sở của qui luật
giá trò, qui luật cung - cầu và qui luật cạnh tranh, tạo nên động lực kích thích
mạnh mẽ đối với các quan hệ kinh tế, coi phương pháp kinh tế là phương pháp
trọng yếu để điều hành nền kinh tế với sự phân đònh rõ ràng ranh giới giữa quản
lý Nhà nước về kinh tế với quản lý kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các
công cụ đòn bẩy và hệ thống pháp luật. Phù hợp với các dạng “cơ chế kinh tế”
nói trên, cần có một phương thức tác động để cơ chế đó vận hành một cách thích
ứng. Phương thức tác động đó được tiến hành bằng “cơ chế quản lý kinh tế”.
Như vậy, dựa trên đạo lý kinh tế quyết đònh tài chính, hay nói cách khác
cơ chế kinh tế nào thì có cơ chế tài chính đó, rõ ràng đây là mối quan hệ hữu cơ
trên cùng một nguồn gốc kinh tế. Từ cách nhìn về mối tương quan đó giữa cơ

-72-


×