Tải bản đầy đủ (.pdf) (210 trang)

Sinh kế của người Mnông dưới tác động của thủy điện Buôn Tua Srah ở huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.95 MB, 210 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

PHẠM TRỌNG LƯỢNG

SINH KẾ CỦA NGƯỜI MNÔNG DƯỚI TÁC ĐỘNG
CỦA THỦY ĐIỆN BUÔN TUA SRAH
Ở HUYỆN LẮK, TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN ÁN TIẾN SĨ DÂN TỘC HỌC

HUẾ, NĂM 2019


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

PHẠM TRỌNG LƯỢNG

SINH KẾ CỦA NGƯỜI MNÔNG DƯỚI TÁC ĐỘNG
CỦA THỦY ĐIỆN BUÔN TUA SRAH
Ở HUYỆN LẮK, TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành : Dân tộc học
Mã số :
931 03 10

LUẬN ÁN TIẾN SĨ DÂN TỘC HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Văn Mạnh



HUẾ, NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
được trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận án đã được cảm
ơn, các thông tin trích dẫn trong luận án này được chỉ rõ nguồn gốc.
Huế, ngày tháng năm 2019
Tác giả

Phạm Trọng Lượng

i


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của quý thầy cô giáo khoa Lịch sử, Phòng Đào tạo Sau
đại học - Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.
Tôi xin cảm ơn Công ty Thủy điện Buôn Kuốp, Nhà máy thủy điện Buôn Tua
Srah; Huyện ủy và Ủy ban Nhân dân huyện Lắk; các phòng: Thống kê, Dân tộc - Tôn
giáo, Kinh tế - Hạ tầng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên - Môi trường,
Giáo dục và Đào tạo; Ban quản lý Dự án giảm nghèo; cán bộ và nhân dân các xã Krông
Nô, Nam Ka, Ea Rbin, Buôn Triết, Đắk Nuê, Đắk Phơi, Buôn Tría, Bông Krang (nơi
thực hiện điều tra số liệu, thu thập thông tin) đã tận tình cung cấp thông tin, tài liệu, số
liệu để tôi nghiên cứu, hoàn thành luận án này.
Đặc biệt, cho phép tôi được bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS.

Nguyễn Văn Mạnh đã tận tình hướng dẫn, dành nhiều công sức, thời gian, cho tôi nhiều
lời khuyên và kinh nghiệm quý báu để tôi hoàn thành luận án.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện
thuận lợi, giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận án này.

ii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT
CNH

VIẾT ĐẦY ĐỦ

Công nghiệp hóa
VNU-Central Institute For Natural Resource Inviromental Studies
CRES
Viện Tài nguyên Môi trường – Đại học Quốc gia Hà Nội
CSHT
Cơ sở hạ tầng
CTTĐ
Công trình thủy điện
Department for International Development
DFID
Cơ quan Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh
HĐH
Hiện đại hóa
HĐND
Hội đồng Nhân dân
International Fund for Agricultural Development

IFAD
Quỹ Phát triển Nông nghiệp quốc tế
International Institute for Sustainable Development
IISD
Viện Quốc tế Phát triển bền vững
International Union for Conservation of Nature and Natural Resources
IUCN
Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên thiên nhiên
KHCN
Khoa học Công nghệ
KHXH&NV Khoa học Xã hội và Nhân văn
MW
Mê ga oát/megawatt
NLSK
Nguồn lực sinh kế
NMTĐ
Nhà máy thủy điện
Non-governmental organization
NGOs
Tổ chức Phi chính phủ
Nxb
Nhà xuất bản
Oxford Committee for Famine Relief
OXFAM
Ủy ban Oxford cho cứu trợ nạn đói
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông


Thủy điện
TĐC
Tái định cư
tp.
Thành phố
tr.
Trang
SK
Sinh kế
SKBV
Sinh kế bền vững
UB MTTQ
Ủy ban Mặt trận tổ quốc
UBND
Ủy ban Nhân dân
United States Agency for International Development
USAID
Cơ quan Phát triển Quốc tế của Hoa Kỳ

iii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................................ ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ............................................................................................... vi
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ ........................................................................................................ vii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ ................................................................................................... viii
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................................................... 1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................................. 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu............................................................................................................. 3
4. Nguồn tư liệu của luận án....................................................................................................................... 4
5. Đóng góp của luận án ............................................................................................................................. 5
6. Bố cục của luận án................................................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN, CÁC
PHƯƠNG PHÁP VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ....................................... 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................................................ 7
1.2. Cơ sở lý luận ....................................................................................................................................... 19
1.3. Các phương pháp nghiên cứu........................................................................................................... 29
1.4. Khái quát về địa bàn nghiên cứu ...................................................................................................... 33
Tiểu kết chương 1 ...................................................................................................................................... 38
Chương 2. SINH KẾ CỦA NGƯỜI MNÔNG TRƯỚC KHI XÂY DỰNG CÔNG
TRÌNH THỦY ĐIỆN BUÔN TUA SRAH HUYỆN LẮK, TỈNH ĐẮK LẮK............ 40
2.1. Các nguồn lực sinh kế của người Mnông trước khi xây dựng thủy điện ................... 40
2.2. Các hoạt động sinh kế của người Mnông trước khi xây dựng thủy điện ................... 52
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................................................. 74
CHƯƠNG 3. SINH KẾ CỦA NGƯỜI MNÔNG TỪ KHI XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH
THỦY ĐIỆN BUÔN TUA SRAH HUYỆN LẮK, TỈNH ĐẮK LẮK............................. 75
3.1. Biến đổi các nguồn lực sinh kế của người Mnông tái định cư và vùng chịu tác động
thủy điện .................................................................................................................................................... 75
3.2. Tác động của các nguồn lực sinh kế đến biến đổi sinh kế người Mnông tái định cư
iv


và vùng chịu tác động thủy điện ....................................................................................................... 94
3.3. Sinh kế thích ứng hiện nay của người Mnông tái định cư và vùng chịu tác động thủy điện.104
Tiểu kết chương 3 ....................................................................................................................................112
CHƯƠNG 4. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SINH KẾ BỀN VỮNG CHO NGƯỜI

MNÔNG TÁI ĐỊNH CƯ VÀ VÙNG CHỊU TÁC ĐỘNG CỦA THỦY ĐIỆN BUÔN
TUA SRAH HUYỆN LẮK, TỈNH ĐẮK LẮK .................................................................. 113
4.1. Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức các nguồn lực sinh kế của người Mnông ........113
4.2. Phân tích các hoạt động sinh kế hiện nay của người Mnông.....................................................119
4.3. Một số giải pháp cụ thể phát triển sinh kế bền vững cho người Mnông ..................................122
Tiểu kết chương 4 ....................................................................................................................................136
KẾT LUẬN ................................................................................................................................ 138
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................................... 140
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 142

v


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Hiện trạng sử dụng đất ở xã Buôn Triết, Krông Nô, Nam Ka, Ea Rbin ............... 41
Bảng 2.2. Số trường, phòng học, giáo viên và trẻ bậc mầm non huyện Lắk.......................... 43
Bảng 2.3. Số trường, phòng học, giáo viên và học sinh các bậc học phổ thông huyện Lắk. 43
Bảng 2.4. Tình hình y tế và chăm sóc sức khỏe tại các xã nghiên cứu ................................... 45
Bảng 2.5. Tài sản cộng đồng xã Buôn Triết, Krông Nô, Nam Ka, Ea Rbin .......................... 49
Bảng 2.6. Lịch làm nương rẫy của người Mnông ..................................................................... 61
Bảng 2.7. Hoạt động nông nghiệp và lễ hội của người Mnông ............................................... 62
Bảng 3.1. Diện tích đất sản xuất và tình hình sử dụng ............................................................. 76
Bảng 3.2. Hỗ trợ của các tổ chức đoàn thể địa phương ............................................................ 84
Bảng 3.3. Tiếp cận các dịch vụ xã hội của người Mnông ........................................................ 87
Bảng 3.4. Nhu cầu và nguyện vọng vay vốn của nông hộ ....................................................... 90
Bảng 3.5. Sở hữu tài sản vật chất của người Mnông ................................................................ 95
Bảng 3.6. Đặc trưng hình thái lưu vực sông ............................................................................ 104
Bảng 3.7. Diện tích gieo trồng trung bình các loại cây trước và sau khi xây dựng thủy điện .. 105
Bảng 4.1. Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức các nguồn lực sinh kế của người Mnông ... 114

Bảng 4.2. Phân tích các hoạt động sinh kế hiện nay của người Mnông ............................... 119

vi


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1. Khung sinh kế bền vững của DFID ......................................................................... 27
Sơ đồ 1.2. Khung sinh kế bền vững của IFAD ......................................................................... 28

vii


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Tỉ lệ lao động theo lứa tuổi .................................................................................... 78
Biểu đồ 3.2. Truyền dạy tri thức bản địa .................................................................................... 79
Biểu đồ 3.3. Cơ cấu nghề nghiệp ................................................................................................ 80
Biểu đồ 3.4. Trình độ học vấn ..................................................................................................... 80
Biểu đồ 3.5. Kiến thức và kỹ năng làm việc .............................................................................. 81
Biểu đồ 3.6. Tỉ lệ học sinh bỏ học trong độ tuổi đến trường.................................................... 81
Biểu đồ 3.7. Trình độ học vấn của lao động phổ thông ............................................................ 82
Biểu đồ 3.8. Quan hệ gia đình, dòng họ, buôn làng, tôn giáo của người Mnông .................. 82
Biểu đồ 3.9. Các tổ chức địa phương mà người Mnông tham gia ......................................... 83
Biểu đồ 3.10. Nguồn thông tin được người Mnông chia sẻ .................................................... 84
Biểu đồ 3.11. Mức độ hiểu biết và tổ chức lễ nghi truyền thống của người Mnông ............. 85
Biểu đồ 3.12. Mức độ hỗ trợ của các tổ chức địa phương ....................................................... 86
Biểu đồ 3.13. Đánh giá hiệu quả các khóa bồi dưỡng, tập huấn ............................................ 86
Biểu đồ 3.14. Đánh giá những biến động của các hoạt động kinh tế ...................................... 89
Biểu đồ 3.15. Nguyên nhân không vay được vốn ngân hàng .................................................. 90
Biểu đồ 3.16. Chất lượng nguồn tư liệu sản xuất ...................................................................... 92
Biểu đồ 3.17. Chất lượng hệ thống thủy lợi ............................................................................... 93

Biểu đồ 3.18. Tình hình khai thác lâm sản, thủy sản năm 2004 và năm 2018 ..................... 100
Biểu đồ 3.19. Mức sống của người Mnông hiện nay so với trước khi xây dựng Thủy điên
Buôn Tua Srah ............................................................................................................................ 103
Biểu đồ 3.20. Những khó khăn trong trồng trọt ...................................................................... 106
Biểu đồ 3.21. Những thuận lợi trong trồng trọt ....................................................................... 107
Biểu đồ 3.22. Những khó khăn trong chăn nuôi ..................................................................... 109
Biểu đồ 3.23. Những thuận lợi trong chăn nuôi ...................................................................... 109

viii


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng các công trình thủy điện (CTTĐ) là những dự án cơ sở hạ tầng (CSHT)
có tác động to lớn đến sự phát triển quốc gia. Hơn nữa, các dự án này cũng là nguồn gốc
của những tranh luận giữa các nhà môi trường, đầu tư, kinh tế, nhà khoa học và cộng
đồng bị ảnh hưởng. Việt Nam là đất nước đang trong thời kì phát triển nên rất cần năng
lượng, tuy nhiên lại hạn chế về năng lượng điện mặt trời, điện hạt nhân, điện gió. Vì
vậy, việc lựa chọn xây dựng các nhà máy thủy điện (NMTĐ) là một giải pháp hợp lý để
cung cấp năng lượng. Mặt khác, TĐ thường được coi là "sạch" và "tái tạo". Ngoài cung
cấp nguồn năng lượng, các đập TĐ còn được sử dụng để trữ nước, ngăn lũ, điều tiết sản
xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cho thấy TĐ đã gây ra một số hệ quả khá nghiêm
trọng đến môi trường và dân sinh trong khu vực dự án. Hậu quả mà các NMTĐ gây ra
là những mâu thuẫn từ cộng đồng địa phương, bao gồm không có đất, tình trạng thất
nghiệp, gạt ra ngoài lề, an ninh lương thực, gia tăng bệnh tật, mất quyền truy cập vào
các nguồn tài sản chung, chia cắt cộng đồng.
Các NMTĐ ở Việt Nam được chú ý đầu tư, xây dựng từ những năm 1970 (1) và
nhất là từ sau thời kì đổi mới. Thực hiện kế hoạch chiến lược đảm bảo năng lượng phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước, hàng trăm NMTĐ
lớn nhỏ được xây dựng. Các nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách đã/đang nghiên

cứu và đánh giá những tác động từ các CTTĐ đến đời sống những cư dân bị ảnh hưởng.
Vấn đề này hiện đang được xem xét, cân nhắc có tiếp tục lập các dự án xây dựng nữa
hay không hoặc tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế khác. Tuy nhiên, để giải quyết
hậu quả từ các NMTĐ đã được xây dựng, tìm ra các giải pháp khả quan hơn đang là
thách thức đối với nhiều ngành và nhà khoa học, trong lúc cộng đồng người dân vẫn
đang gánh chịu hằng ngày. Việc người dân thích ứng hoặc cố gắng để thích nghi với
cuộc sống và môi trường mới, những yếu tố nào giúp họ phục hồi và phát triển sinh kế
(SK) thì cần có hướng tiếp cận thực tế, hiệu quả trên cơ sở lý thuyết phù hợp.
Sông Sêrêpôk (hay Srêpôk) được hợp thành bởi 2 phụ lưu chính là sông Krông
Ana và Krông Nô. Đây là con sông lớn nhất ở tỉnh Đắk Lắk với chiều dài 126 km. Trên
hệ thống sông Sêrêpôk đã xây dựng, vận hành 9 NMTĐ gồm: Đức Xuyên, Buôn Tua
(1)

Nhà máy TĐ đầu tiên ở Việt Nam là TĐ Thác Bà hoàn thành năm 1970, do Liên Xô giúp thiết kế, xây dựng.

1


Srah, Buôn Kuốp, Đray H’Linh 1, Đray H’Linh 2, Hòa Phú, Sêrêpôk 3, Sêrêpôk 4,
Sêrêpôk 4A. Thủy điện Buôn Tua Srah là NMTĐ thuộc bậc thứ hai có tác động trực tiếp
đến người Mnông. Để xây dựng nhà máy, một bộ phận người Mnông buộc phải tổ chức
tái định cư (TĐC), một bộ phận khác chịu tác động hiện đang có những biến đổi lớn về
không gian sống, văn hóa, SK, … Những biến đổi có tính tích cực như: buôn làng được
quy hoạch và có CSHT tương đối khang trang, giao thông, giáo dục, y tế, thông tin liên
lạc được cải thiện; biến đổi tiêu cực như: điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu, nhiệt độ
có nhiều biến đổi, chất lượng các loại hình đất canh tác ngày càng suy giảm, nguồn nước
sinh hoạt và phục vụ sản xuất không đảm bảo, quan hệ dòng tộc, cộng đồng thay đổi, …
Trong những biến đổi đó, biến đổi về SK là hết sức phức tạp và đa dạng.
Mnông là tộc người tại chỗ cư trú lâu đời tại đây, có hoạt động kinh tế khá đa
dạng trong đó khai thác nguồn lợi tự nhiên là tương đối điển hình. Từ khi TĐ Buôn Tua

Srah được xây dựng, nguồn lực tự nhiên bị thu hẹp và suy giảm, các nguồn lực khác gia
tăng chậm, người Mnông buộc phải thay đổi SK để đảm bảo đời sống. Môi trường sống
thay đổi đã có những tác động to lớn đến SK, gây ra những khó khăn, bất cập cho người
dân TĐC. Ngoài ra, một bộ phận cư dân Mnông sống tại khu vực ảnh hưởng của NMTĐ
Buôn Tua Srah cũng chịu nhiều tác động từ công trình này. NMTĐ Buôn Tua Srah đã
và đang có những tác động to lớn, làm thay đổi các nguồn lực tự nhiên, con người, xã
hội, tài chính, vật chất của người Mnông TĐC và vùng chịu tác động. Chính những yếu
tố trên dẫn đến SK và sự thích ứng SK của người Mnông gặp nhiều khó khăn.
Trong thực tế, sinh kế của người dân TĐC và vùng chịu tác động không chỉ là
vấn đề đặt ra đối với người Mnông ở huyện Lắk mà còn là vấn đề đặt ra đối với các tộc
người khác cư trú tại khu vực này. Ngoài ra, đây cũng là một vấn đề lớn ở hầu hết các
CTTĐ trên cả nước. Mức độ tác động đến SK sẽ khác nhau, đời sống của người dân bị
ảnh hưởng trong lúc SK truyền thống không còn được duy trì, các nguồn hỗ trợ sinh
hoạt, sản xuất không thể kéo dài mãi. Do vậy, rất cần thực hiện những nghiên cứu cơ
bản, cụ thể về bảo đảm sinh kế bền vững (SKBV) đối với người Mnông TĐC và vùng
chịu tác động TĐ Buôn Tua Srah ở huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề tài “Sinh kế của người Mnông dưới
tác động của thủy điện Buôn Tua Srah ở huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận
án tiến sĩ dân tộc học của mình.
2


2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Qua nghiên cứu SK của người Mnông trước và sau khi xây dựng TĐ Buôn Tua
Srah ở huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk, luận án tìm hiểu các yếu tố thúc đẩy và cản trở nguồn
lực sinh kế (NLSK) do TĐ gây nên, đồng thời gợi ý các giải pháp phù hợp để phát triển
SK cho người Mnông khu TĐC và vùng chịu tác động TĐ Buôn Tua Srah trong bối
cảnh mới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để làm rõ mục tiêu trên, luận án sẽ có những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa lý thuyết về SK; nghiên cứu về SK của người Mnông trước và
sau khi xây dựng TĐ Buôn Tua Srah;
- Tìm hiểu các vấn đề về môi trường tự nhiên, xã hội, giáo dục, y tế và tình hình
chăm sóc sức khỏe đối với người Mnông TĐC, vùng chịu tác động TĐ Buôn Tua Srah
ở huyện Lắk;
- Đánh giá những NLSK; nhận diện những biến đổi về SK của người Mnông dưới
tác động của TĐ Buôn Tua Srah;
- Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp phù hợp để phát triển SKBV cho người
Mnông trong điều kiện chịu tác động của TĐ Buôn Tua Srah.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận án là hoạt động SK của người Mnông
trước và sau khi xây dựng TĐ Buôn Tua Srah, các NLSK, những tác động của NMTĐ
Buôn Tua Srah đến SK của họ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Khu TĐC và vùng chịu tác động TĐ Buôn Tua Srah, huyện
Lắk, tỉnh Đắk Lắk trong đó chủ yếu là 4 xã gồm: Krông Nô, Nam Ka, Ea Rbin, Buôn Triết.
- Phạm vi thời gian: Từ trước khi xây dựng TĐ đến hiện nay, chia làm 2 giai đoạn:
+ Năm 2004 về trước, tức là khi TĐ Buôn Tua Srah chưa được khởi công.
+ Từ năm 2005 đến năm 2018, là giai đoạn thi công, hoàn thành và đưa vào hoạt
động, gồm di dân TĐC, giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, dân sinh, môi trường cho
đến khi các chương trình của dự án kết thúc.
3


4. Nguồn tư liệu của luận án
4.1. Tư liệu thành văn
Để hoàn thành luận án, trước tiên chúng tôi sử dụng tư liệu từ các công trình
nghiên cứu của các tác giả nước ngoài. Về lý thuyết nghiên cứu SK, SKBV trong nhân

học thì có Ashley, Caroline, Diana Carney, Bebbington, Anthony, Chambers, Conway,
DFID, IFAD, … và các công trình biên khảo, bài viết khoa học được chúng tôi tham
khảo, trích dẫn để lý giải vấn đề luận án đặt ra. Ngoài ra, nội dung nghiên cứu “Sinh kế
của người Mnông dưới tác động của thủy điện Buôn Tua Srah ở huyện Lắk, tỉnh Đắk
Lắk” là sự tổng hợp và so sánh của các nguồn tư liệu đa ngành, đa lĩnh vực của các tác
giả nước ngoài.
Thứ hai, nguồn tài liệu trong nước của các cơ quan nghiên cứu được sử dụng
như: Viện Dân tộc học, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam, các đại học, đrường đại
học, ...; của các cá nhân như Ngô Văn Lệ, Bế Viết Đẳng, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn
Văn Sửu, Trần Văn Hà, Võ Văn Sen, Nguyễn Xuân Hồng, Ngô Phương Lan, Nguyễn
Văn Toàn, Trần Thọ Đạt, Ngô Đức Thịnh, Đoàn Văn Phúc, … và các nhà nghiên cứu
của Chế độ Việt Nam Cộng hòa trước đây như Bình Nguyên Lộc, Lân Đình, …
Thứ ba, các bài viết ở các tạp chí khoa học, hội thảo, website chuyên ngành như:
Tạp chí Dân tộc học, tạp chí Kinh tế phát triển, tạp chí Xã hội học, tạp chí Khoa học của
Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên, tạp chí Khoa học công nghệ (KHCN) của Sở
KHCN Đắk Lắk, Đắk Nông, các nghiên cứu của Viện Viễn đông Bác cổ, ... hay các hội
thảo khoa học liên quan đến sinh kế các tộc người Tây Nguyên, người Mnông; các
website thuộc các ngành Dân tộc học, Nhân học, Kinh tế, Luật, ... đều được chúng tôi
chắt lọc, khảo cứu khi thực hiện luận án.
4.2. Tư liệu điền dã
Đây là nguồn tư liệu quan trọng nhất được chúng tôi thu thập thông qua nhiều
cuộc điền dã dân tộc học, các khảo sát, điều tra, quan sát, thảo luận nhóm, … tại điểm
chọn lựa nghiên cứu là xã Krông Nô, Nam Ka, Ea Rbin, Buôn Triết và một số nơi khác
trong địa bàn huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk được ghi chép, phân loại cẩn thận. Những tư liệu
ảnh, ghi âm, phỏng vấn đồng bào Mnông từ người nông dân đến già làng, trưởng bản,
thầy cúng, cán bộ thôn/buôn, hội phụ nữ, chi bộ, … lãnh đạo xã, huyện, cán bộ viên
chức NMTĐ Buôn Tua Srah được phân loại, mã hóa, phân tích theo từng nội dung và
4



vấn đề cụ thể. Tất cả nguồn tư liệu sơ cấp được xử lý, phân tích và được chúng tôi so
sánh, đối chiếu và sử dụng trong quá trình thực hiện luận án.
5. Đóng góp của luận án
Với việc kế thừa kết quả của các tác giả đi trước, trên cơ sở lí thuyết Dân tộc
học/Nhân học và nguồn tư liệu nghiên cứu, luận án “Sinh kế của người Mnông dưới tác
động của thủy điện Buôn Tua Srah ở huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk ” có những đóng góp về
khoa học và thực tiễn, như sau:
- Đóng góp khoa học:
+ Bằng việc áp dụng khung SKBV, luận án đã góp phần nâng cao phương pháp
nghiên cứu về SK của tộc người, khác với cách nghiên cứu dân tộc học kinh tế truyền
thống ở Việt Nam.
+ Qua nghiên cứu biến đổi SK của dân tộc Mnông do tác động của TĐ Buôn Tua
Srah ở huyện Lắk, luận án góp phần tìm hiểu quá trình tộc người của dân tộc này trong
thời kỳ đổi mới.
+ Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung, sáng tỏ thêm lí thuyết và khung phân
tích về SK; mặt khác với việc tìm kiếm nguyên nhân biến đổi SK, phân tích các xu
hướng biến đổi SK tộc người Mnông dưới tác động của TĐ Buôn Tua Srah.
+ Luận án sẽ cung cấp cho khoa học Dân tộc học/Nhân học nguồn tư liệu thực
địa để vận dụng so sánh, đánh giá sự thay đổi SK của các cộng đồng cư dân dưới tác
động của các CTTĐ khác ở Tây Nguyên và cả nước.
- Đóng góp thực tiễn:
+ Cùng với những nghiên cứu khác về TĐC và tác động do xây dựng TĐ ở một
số khu vực trên cả nước, luận án góp phần chỉ ra sự bất cập có tính hệ thống của những
công trình này đến sự bền vững sinh kế của các tộc người có liên quan.
+ Luận án cung cấp luận chứng khoa học để các cấp quản lý có thẩm quyền điều
chỉnh, xây dựng các chính sách phát triển SKBV cho người Mnông TĐC, cộng đồng
người Mnông chịu tác động, các dân tộc bị ảnh hưởng do xây dựng TĐ Buôn Tua Srah
nói riêng và TĐ trên cả nước nói chung.
+ Cùng với những nghiên cứu khác, luận án góp phần xây dựng nguồn dữ liệu
phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu các chuyên đề về TĐC TĐ và với SKBV đối

với những cư dân bị tác động của các dự án TĐ.
5


6. Bố cục của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, phần nội dung của luận
án được chia thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận, các phương pháp và
khái quát địa bàn nghiên cứu
Chương 2. Sinh kế của người Mnông trước khi xây dựng Công trình thủy điện
Buôn Tua Srah huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk
Chương 3. Sinh kế của người Mnông từ khi xây dựng Công trình thủy điện Buôn
Tua Srah huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk
Chương 4. Giải pháp phát triển sinh kế bền vững cho người Mnông tái định cư
và vùng chịu tác động của Thủy điện Buôn Tua Srah huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk

6


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN,
CÁC PHƯƠNG PHÁP VÀ KHÁI QUÁT ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về sinh kế của các tác giả ngoài và trong nước
1.1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về sinh kế của các tác giả nước ngoài
Các công trình nghiên cứu SK của các tác giả nước ngoài được khởi đầu từ những
những năm 60 của thế kỉ XX. Theo Chambers (1969), Robert and Morris J. (1973) khi
dân di cư tị nạn ồ ạt từ Kenya và một số nước ở châu Phi do chiến tranh đã khiến cuộc
sống của họ khó khăn và chết chóc [98, 100]. Những nghiên cứu này đặt ra yêu cầu cấp
bách là phải đảm bảo ngay tức thời về đời sống từ ăn uống, chỗ ở đến điều kiện sống tối
thiểu cho những người tị nạn. Đây không chỉ là vấn nạn của một nhóm hay một cộng

đồng người mà còn là vấn nạn của các quốc gia châu Phi. Vấn đề này tương tự những
gì xảy ra trong thời gian vừa qua khi những người tị nạn chiến tranh Lybia, Syria và một
số quốc gia Bắc Phi bằng mọi cách vượt Địa Trung Hải đến với châu Âu, dân di cư các
quốc gia Nam Mỹ bằng mọi cách để được vào Mỹ. Thời kì này SK được ẩn trong các
khái niệm như: Hoạt động kinh tế, hoạt động mưu sinh, hoạt động sản xuất, ...
Đến năm 1983, trong tác phẩm “Phát triển nông thôn: Đặt lên hàng đầu” (Rural
development: Putting the last first), Robert Chambers đã đưa ra khái niệm SK [99]. Về
sau, khái niệm này xuất hiện thường xuyên hơn trong các nghiên cứu của Barrett,
Morrison, Dorward, … và có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau. Từ đó một
số nhà khoa học, cơ quan phát triển đã tiếp nhận và cố gắng hiện thực hóa khái niệm.
Năm 1999, Cơ quan Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh (DFID – Department for
international development) đã đưa ra khung SKBV trong khuôn khổ cam kết hỗ trợ nhằm
cố gắng đạt được mục đích đặt ra là xoá đói, giảm nghèo [106].
Trên cơ sở khung SK của DFID, IFAD (International Fund for Agricultural
Development - Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế) đã phát triển khung SK mới. IFAD
lấy người nghèo làm trung tâm của khung SK do người nghèo dễ bị mất năm nguồn lực
SK. Khung SK của IFAD có nhiều yếu tố và cách thể hiện mối quan hệ mới [112].
Như vậy, trong suốt hơn sáu thập kỉ qua, vấn đề SK trở thành nội dung tiếp cận
và phân tích ở cấp độ vĩ mô và vi mô theo các hướng khác nhau. Cụ thể:
7


Tiếp cận phát triển: Nổi bật trong cách tiếp cận này là các phân tích của Amartya
Sen, nhà kinh tế học người Ấn Độ về quyền lợi (entitlements) được thực thi trong mối
quan hệ với nạn đói nghèo. Với việc quan tâm đến tính hiệu quả, sự nhân văn của các
hoạt động và quá trình phát triển, Amartya Sen (2009) cho rằng các quyền lợi của những
bên liên quan và cả cộng đồng người, thậm chí mở rộng hơn trong vùng, khu vực phải
được đặt trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Không vì sự thịnh vượng của một nhóm
nào, một vùng, một khu vực hay một quốc gia mà một đối tượng nào đó bị bỏ quên, bị
gạt ra khỏi lề [124]. Theo đó, Parasuraman (2001) đánh giá, việc xây dựng những con

đập lớn ở Ấn Độ từ năm 1947 đến năm 2001 đã để lại hậu quả là làm cho gần 33 triệu
người bản địa buộc phải di cư khỏi vùng đất tộc người của họ và có cuộc sống đầy khó
khăn [119]. Robinson Courtland (2003) đã đánh giá về những rủi ro - thách thức và
quyền được biết - được tham gia của những người dân vào các dự án xây đập; nguyên
nhân, hậu quả và thách thức của sự phát triển - thay đổi - nơi mà họ buộc phải chuyển
đến. R.Courtland nhận định “Việc xây dựng đập đã lấy đi ngôi nhà, kế sinh nhai, sức
khoẻ và thậm chí là cuộc sống của hàng triệu người trên thế giới” [104, tr. 32].
Tiếp cận đồng đại: Theo Diana, Carney (1998), Ellis, Frank (2000), Kelly, F.
Philip (2003) thì SK của người dân sẽ bị ảnh hưởng bởi việc thực thi của các thể chế,
chính sách, cách thức tiếp cận và các tài sản của họ được sử dụng như thế nào. Cách tiếp
cận này cho rằng con người sống không cô lập mà bản thân họ có rất nhiều mối quan hệ
ràng buộc ở nhiều cấp độ. Họ nhấn mạnh trong nghiên cứu chúng ta phải nhận dạng và
chỉ ra những cơ hội, hạn chế và thách thức liên quan đến SK, cụ thể: (1) Áp dụng khung
phân tích SK xuyên các nhóm xã hội; (2) Thừa nhận công việc có liên quan đến nhau;
(3) Công nhận nhiều tác nhân; (4) Có nhiều chiến lược sử dụng để bảo đảm SK và cho
ra những kết quả SK khác nhau mà họ theo đuổi [97, 109, 115].
Tiếp cận sở hữu: Dưới góc độ này, sinh kế (livelihood) được hiểu như là các tài
sản hay/hoặc vốn mà người ta sở hữu nó. Ví như, khi tiếp cận về nông nghiệp hay nông
thôn, người ta nhầm lẫn SK đất đai (agrarian livelihoods) với SK nông thôn (rural
livelihoods), ... Có nhiều sự khác biệt trong việc hiểu về các loại vốn/nguồn lực. Cụ thể,
theo Scoones, Ian (1998) thì “SK nông thôn” (rural livelihoods) là đạt được mục tiêu
bền vững của những người ở khu vực nông thôn qua việc tiếp cận các nguồn lực SK
gồm: “vốn tự nhiên”, “vốn kinh tế/tài chính”, “vốn con người” và “vốn xã hội” trong
8


những bối cảnh khác nhau [122]. Còn Bebbington, Anthony (1999), khi phân tích SKBV
lại thay đổi bằng cách thay đổi tên khác cho năm loại vốn là “vốn sản xuất” (produced
capital), “vốn con người” (human capital), “vốn tự nhiên” (natural capital), “vốn xã hội”
(social capital), “vốn văn hóa” (cultural capital) [91].

Tiếp cận tổng hợp: Nghiên cứu của IUCN và IISD (2003), USAID (2009) về SK
trong bối cảnh biến đổi khí hậu đã đưa ra cách tiếp cận tổng hợp trong việc giải quyết
vấn đề SKBV. Đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa quản lý rủi ro và thiên tai, quản lý tài
nguyên thiên nhiên và tăng cường thực thi các biện pháp và năng lực thích ứng với biến
đổi khí hậu nhằm làm giảm khả năng bị tổn thương do biến đổi khí hậu gây ra, giảm
nghèo đói và cải thiện phúc lợi cho người dân [114, 126].
Tóm lại, các công trình nghiên cứu của các tác giả ngoài nước đều hướng đến
phương pháp tiếp cận SK lấy con người làm trung tâm của mọi sự phát triển. Kết quả SK
là: 1. Đời sống được cải thiện, 2. Giảm khả năng tổn thương, 3. An ninh lương thực được
tăng cường, 4. Sử dụng bền vững nguồn tài nguyên, 5. Môi trường sống được đảm bảo,
là một mối quan tâm lớn nhất và có tính chất hỗ trợ cho kết quả khác.
1.1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về sinh kế của các tác giả trong nước
Hiện nay, khái niệm SK được sử dụng rộng rãi trong khoa học và các phương
tiện thông tin ở Việt Nam. Thực chất nội hàm khái niệm SK giống với khái niệm hoạt
động mưu sinh, tìm kiếm thu nhập, hoạt động sản xuất, hoạt động kinh tế. Con người
thông qua hoạt động kiếm sống để đảm bảo được cuộc sống chính mình. SK chính là
các hoạt động kinh tế trong đời sống tộc người, có mối quan hệ mật thiết và có sự tác
động to lớn đến các thành tố khác như văn hóa, chính trị, xã hội.
Từ cuối những năm 90 của thế kỉ XX, thuật ngữ “Sinh kế” bắt đầu được sử dụng
trong các dự án liên kết giữa Việt Nam với các tổ chức quốc tế nhằm nghiên cứu, phát
triển bền vững về lâm nghiệp, kinh tế, giảm nghèo và SK nông thôn. Cụ thể:
Trần Đức Viên (2001), trong công trình “Phân cấp trong quản lý tài nguyên rừng
và sinh kế của người dân” đã nghiên cứu và đưa ra đánh giá tổng quát về ba cộng đồng
nghiên cứu (bản Huổi Toi, Na Bè, và Xiêng Hương) thuộc hai xã Chiềng Hặc (tỉnh Sơn
La) và xã Xá Lượng (tỉnh Nghệ An) trong việc thay đổi chính như cấp, chia và quản lý
đất rừng. Tác giả cho biết, điều đó đã mang lại một số tác động cả tích cực và tiêu cực
theo hai chiều hướng khác nhau về SK [79].
9



Nguyễn Xuân Hồng (2001), Nguyễn Thị Mỹ Vân (2003) trong “Nghiên cứu về
tri thức bản địa, sinh kế người dân tộc vùng đồi núi” đã đưa ra chiến lược SKBV cho
một số cộng đồng người dân tộc ở vùng đồi núi tỉnh Thừa Thiên Huế [48, 49, 50].
Bùi Đình Toái (2004) đã đưa ra quan niệm“Sinh kế của hộ hay một cộng đồng là
một tập hợp của các nguồn lực và khả năng của con người kết hợp với những quyết định
và những hoạt động mà họ sẽ thực hiện để không những kiếm sống mà còn đạt đến mục
tiêu đa dạng hơn. Hay nói cách khác, SK của một hộ gia đình hay một cộng đồng còn
được gọi là kế sinh nhai của hộ gia đình hay cộng đồng đó” [69, tr. 21]. Theo ông, mỗi
hộ gia đình đều có các SK khác nhau. Chiến lược SK của hộ hay kế sách sinh nhai của
hộ là quá trình ra quyết định về các vấn đề cấp hộ. Đó là những vấn đề quy mô, thành
phần, mối quan hệ, tính gắn bó giữa các thành viên trong hộ, việc phân bổ các nguồn
lực vật chất, các chi phí để đầu tư cấp hộ.
Đánh giá hoạt động sinh kế của các dân tộc Tây Bắc và Đông Bắc, Trần Bình
trong các nghiên cứu “Tập quán mưu sinh và hoạt động kinh tế của một số dân tộc ở
Tây Bắc Việt Nam”(2001) [16], “Tập quán mưu sinh của các dân tộc thiểu số vùng
Đông Bắc Việt Nam”(2005) [17], “Văn hóa mưu sinh của các dân tộc thiểu số vùng
Đông Bắc Việt Nam” (2013) đã nêu ra những điểm bao quát các khía cạnh trồng trọt,
chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, buôn bán [18, 19, 20].
Trong nghiên cứu “Sử dụng vốn xã hội trong chiến lược sinh kế của nông dân ven
đô Hà Nội dưới tác động của đô thị hóa”, Nguyễn Duy Thắng (2007) khi phân tích vốn
xã hội được sử dụng trong chiến lược SK của người nông dân ở một số phường và xã khu
vực ngoại thành Hà Nội đã nhận định rằng: “Bên cạnh những yếu tố quan trọng trong
chiến lược SK của nông dân như đất, lao động, tài chính, vốn xã hội được coi là một
nguồn lực quan trọng giúp nông dân chuyển đổi chiến lược SK để ứng phó với các thách
thức của đô thị hóa” [70, tr. 42].
Cũng trong khung cảnh đô thị, Nguyễn Vũ Hoàng (2008) nêu rõ việc cố kết cá
nhân thông qua những hành động tập thể sẽ giúp hình thành mạng lưới xã hội, để hành
động vì lợi ích chung đối với những người dân bị ảnh hưởng các dự án phát triển đô thị
ở Hà Nội. Điều đó được thể hiện qua bài viết về“Vốn xã hội trong đô thị: Một nghiên
cứu nhân học về hành động tập thể ở một dự án phát triển đô thị tại Hà Nội” [47].

Trong tác phẩm“Tiếp cận nông thôn Việt Nam từ mạng lưới xã hội và vốn xã hội
10


cho phát triển”, Ngô Đức Thịnh (2008) đã nhấn mạnh các mạng lưới xã hội như gia đình,
dòng họ, làng xã là một trong những nhân tố thúc đẩy phát triển xã hội nông thôn và giúp
người nông dân có những thuận lợi nhất định trong các hoạt động SK của họ [74].
Năm 2008, Oxfam có báo cáo về “Việt Nam: Biến đổi khí hậu, sự thích ứng và
người nghèo”. Báo cáo này đã tập trung phân tích cuộc sống của các hộ gia đình nghèo
ở hai tỉnh Bến Tre và Quảng Trị trong bối cảnh khí hậu đang thay đổi và tìm hiểu xem
người dân đối phó như thế nào trước sự thay đổi của khí hậu trong tương lai [63].
Khi nghiên cứu về “Tác động của dự án duy trì và phát triển bền vững đến sinh
kế của người dân vùng đệm vườn quốc gia Tam Đảo khu vực Vĩnh Phúc”, Đặng Văn
Thành (2009) đã nhận thấy có những thay đổi lớn trong thu nhập của người dân vùng
đệm vườn quốc gia Tam Đảo. Tuy nhiên, khoảng cách và chênh lệch thu nhập giữa các
tầng lớp, thành phần là khá lớn và có xu hướng ngày càng nới rộng. Đời sống của một
bộ phận người dân tộc tại chỗ còn gặp nhiều khó khăn và ngày càng bấp bênh hơn [68].
Trần Thọ Đạt và Vũ Thị Hoài Thu (2012) trong nghiên cứu “Biến đổi khí hậu và
sinh kế ven biển, diễn đàn phát triển Việt Nam" đã tập hợp một số lý thuyết và nghiên
cứu về biến đổi khí hậu và SK ven biển, bao gồm biến đổi khí hậu, khả năng bị tổn
thương của cư dân ven biển trước biến đổi khí hậu, năng lực thích ứng của cư dân ven
biển trước tác động của biến đổi khí hậu, hỗ trợ SK để thích ứng với biến đổi khí hậu
ven biển ở Việt Nam [36].
Trong các nghiên cứu về việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở các đô thị,
Nguyễn Dũng Anh (2014), Nguyễn Văn Sửu (2014), Phạm Thị Thủy (2014), nhấn mạnh
quá trình thu hồi đất để phát triển CNH, đô thị hóa “đã có những chuyển dịch về cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, kết cấu hạ tầng được cải thiện, tạo ra
nhiều cơ hội việc làm, đa dạng hoá nghề nghiệp cho người dân”. Tuy nhiên, SK của
nông dân sau khi bị thu hồi đất và TĐC không những không tốt hơn mà còn khó khăn
hơn do có những thay đổi đáng kể do các nguồn lực tự nhiên, vật chất, tài chính, con

người và xã hội mà bản thân người nông dân chưa thể thay đổi kịp [3, 67, 77].
Võ Văn Sen và các cộng sự (2014) trên cơ sở khảo sát dữ liệu thực tế đã phân
tích 5 nguồn lực SK và đưa ra một số giải pháp phát triển các nguồn lực nhằm ổn định
SKBV cho người dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang [65].
Trong tác phẩm “Chuyển đổi sinh kế và vấn đề tín dụng ở một số tộc người thiểu
11


số tại Tây Nguyên và Miền núi Tây Bắc” (2017), Hoàng Cầm, Ngô Phương Lan, Hoàng
Anh Dũng, Vũ Thành Long, Nguyễn Văn Giáp đã đánh giá, nêu vấn đề tín dụng và sử
dụng hiệu quả các nguồn tín dụng trong chuyển đổi SK cho những người dân tộc vùng
Tây Nguyên và Tây Bắc [57].
Tóm lại, qua khoảng hai thập kỷ nghiên cứu về sinh kế, các tác giả ở trong nước
đã đạt được một số thành tựu. Một là, đã đề xuất khái niệm về sinh kế của nhóm cư dân
bị tác động. Hai là, phạm vi nghiên cứu sinh kế mở rộng, được tiến hành ở cả vùng đồng
bằng, vùng cao, vùng dân tộc thiểu số, và đặc biệt gắn với vấn đề biến đổi khí hậu - đang
được thế giới quan tâm. Ba là, bên cạnh chú trọng nguồn lực tự nhiên, kinh tế, tài chính,
nhiều nghiên cứu, nhất là nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội đã quan tâm sâu sắc
đến nguồn lực con người và xã hội.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về sinh kế của cư dân thủy điện ở Việt Nam
1.1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về tái định cư thủy điện ở Việt Nam
Cũng như các nước đang phát triển trên thế giới, rất nhiều các NMTĐ được xây
dựng ở Việt Nam để giải quyết vấn đề nhu cầu năng lượng. Xây dựng các NMTĐ được
xem là giải pháp tối ưu trong bối cảnh năng lượng thiếu hụt. Hiện nay, TĐ giữ vai trò
lớn trong phát triển kinh tế và năng lượng ở Việt Nam. Cụ thể: NMTĐ Yaly hằng năm
sản xuất hơn 3,6 tỉ Kwh, NMTĐ Lai Châu hơn 4,6 tỉ Kwh, NMTĐ Hoà Bình hơn 8,4 tỉ
Kwh, NMTĐ Sơn La hằng năm sản xuất khoảng 10,5 tỉ Kwh, … Các NMTĐ hàng năm
cung cấp khoảng hơn 30% tổng sản lượng điện cho toàn hệ thống của Việt Nam

(2)


.

Ngoài việc cung cấp năng lượng, các NMTĐ còn giúp kiểm soát lũ lụt, nguồn nước và
góp phần cho việc tưới tiêu hàng triệu héc ta đất nông nghiệp trên cả nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc xây dựng NMTĐ có tác động lớn đến đời
sống cư dân nơi thực hiện dự án. Nhà nước luôn nhận thức rằng “dân sinh và SK người
dân là một vấn đề phức tạp, việc đảm bảo cho người dân bị ảnh hưởng có cuộc sống tốt
hơn hoặc ít nhất bằng là yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các công trình khi thực hiện”.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy một khoảng cách rất lớn giữa chính sách và thực thi chính
sách. Một số kết quả nghiên cứu về tác động của việc xây dựng TĐ chỉ ra rằng, việc xây
dựng các NMTĐ lớn hay nhỏ này thực tế đã làm cho điều kiện sống của cư dân khu vực

(2)

Báo cáo thường niên EVN 2017, />
12


lòng hồ, khu vực ảnh hưởng, khu TĐC kém hơn so với trước khi di chuyển là không thể
phủ nhận. Đối tượng bị ảnh hưởng dễ nhận thấy là dân tộc thiểu số bởi các NMTĐ
thường được xây dựng ở các vùng miền núi, nơi không gian sinh tồn của họ.
Trong tác phẩm “Tái định cư thủy điện ở Việt Nam thời đổi mới” (2011), Trần
Văn Hà đã khảo sát để xây dựng CTTĐ Hoà Bình, khoảng 58.000 người thuộc nhiều
dân tộc khác nhau như Thái, Mường, Dao, ... sống ở hai tỉnh Hoà Bình và Sơn La phải
di chuyển. Khoảng 11.000 ha đất trồng trọt, hàng trăm nghìn m2 đất ở, đất của các cơ
quan, trường học, trung tâm y tế và khu làm việc ngập chìm trong nước. Trong những
năm đầu tiên từ khi di chuyển, 40% những hộ di dời bị thiếu lương thực từ 5 đến 6 tháng
mỗi năm. Đời sống văn hoá và xã hội của họ vì thế cũng bị ảnh hưởng do thu nhập quá
thấp. Giáo dục và y tế có chất lượng kém ở hầu hết các vùng này. Do không có đủ trường

học cũng như điều kiện đến trường khó khăn, trẻ em ở độ tuổi đi học phải nghỉ học tăng
lên 47%. Tương tự như vậy, các vấn đề về bệnh tật, sức khoẻ cũng tăng lên do thiếu
nước sạch, nhà vệ sinh và bệnh tật do lũ lụt. Xung đột cũng xảy ra do những tranh chấp
đất đai và tài nguyên thiên nhiên giữa những người mới đến và dân sở tại. Hàng trăm
héc ta rừng đã bị khai thác lấy gỗ bán và để làm nương rẫy trồng cây lương thực và hàng
trăm hộ dân tộc Mường ở TĐ Hòa Bình không ổn định được dân cư và SK [42].
Theo CRES (Trung tâm nghiên cứu tài nguyên thiên nhiên và môi trường, Đại
học quốc gia Hà Nội) (2001) trong “Báo cáo nghiên cứu tác động của đập Yaly đối với
cộng đồng di dời và cộng đồng khu vực hạ lưu sông” việc tổ chức di dân TĐC CTTĐ
Yaly cũng gây những tác động không nhỏ tới đời sống vật chất, xã hội, đời sống văn
hoá tinh thần của bà con dân tộc thiểu số như Gia-rai, Rơ Ngao (một nhóm của dân tộc
Xơ-đăng) và Ba-na. Kết luận của CRES cho thấy rất nhiều gia đình bị thiếu lương thực,
gia đình đồng bào Gia-rai, Rơ Ngao không còn khả năng tạo ra thu nhập từ việc bán các
sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, đồng bào
thường chịu thiệt thòi do đền bù không thoả đáng, không công bằng. Mặc dù vấn đề SK
và TĐC của công trình Yaly được chú ý và chuẩn bị chu đáo hơn CTTĐ Hoà Bình, từ
việc xây khu TĐC cho đến việc chăm lo đời sống tinh thần, vật chất, y tế, giáo dục
nhưng thực tế vẫn bộc lộ nhiều yếu kém [26].
Gần đây nhất trong Hội nghị Thái học lần thứ VII (2015), nhiều báo cáo đánh giá
CTTĐ Sơn La, Lai Châu khi đi vào hoạt động đã tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình
13


phát triển của đất nước nói chung và khu vực Tây Bắc nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh ý
nghĩa to lớn về mặt kinh tế, công trình này đã tác động sâu sắc đến sự ổn định dân cư và
không gian sinh sống của các dân tộc trong vùng bị ảnh hưởng ở 3 tỉnh Lai Châu, Sơn
La và Điện Biên về lâu dài. Bởi vì, hơn 91.000 người thuộc 12 dân tộc của 3 tỉnh Lai
Châu, Sơn La và Điện Biên phải di dời. Nhận thức được quy mô lớn của công trình,
Chính phủ đã trực tiếp chỉ đạo các Bộ liên quan cùng Ủy ban Nhân dân 3 tỉnh hợp sức
tổ chức di dân, thực hiện các chính sách đền bù để khi chuyển đến phải được ổn định

ngay. Đồng thời, phải xây dựng các điểm TĐC theo tiêu chuẩn nông thôn mới. Ngoài ra
còn một số nghiên cứu về tác động của các TĐ Thác Bà, TĐ Tuyên Quang, Trung Sơn,
Buôn Kuốp, … đã nhận diện các vấn đề tương tự như các nghiên cứu ở trên.
Từ kinh nghiệm thực tiễn của việc thực hiện tổ chức di dân TĐC và đảm bảo SK
cho người dân bị tác động do các CTTĐ lớn chúng ta thấy rằng, đây là một công việc
khó khăn và nhạy cảm, đòi hỏi sự cố gắng hết sức, trách nhiệm, tâm huyết của các ban
ngành, các nhà nghiên cứu để giải quyết thấu đáo, hiệu quả và hợp lí. Bởi lẽ, công việc
này liên quan đến việc thực hiện chế độ chính sách, đất đai, cuộc sống bền vững của
đồng bào các dân tộc khi họ đã hi sinh quyền lợi cho sự phát triển của đất nước.
1.1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về sinh kế của cư dân khu tái định cư và
vùng tác động các công trình thủy điện
Đánh giá về chính sách và tổ chức TĐC các CTTĐ, Đặng Nguyên Anh (2007)
với “Tái định cư cho các công trình thủy điện ở Việt Nam”, “Chính sách di dân tái định
cư các công trình thuỷ điện ở Việt Nam từ góc độ nghiên cứu xã hội” đã nhận xét mỗi
một dự án TĐ có đối tượng bị tác động là không giống nhau, vì thế những kết quả nghiên
cứu không giống nhau.
Khi tiến hành khảo sát, đánh giá các NLSK của người dân tại vùng bán ngập
huyện Thuận Châu trong “Sinh kế của các hộ dân tái định cư vùng bán ngập huyện
Thuận Châu tỉnh Sơn La”, Phạm Minh Hạnh (2009) cho rằng khi NLSK biến đổi thì SK
của người dân vùng bán ngập cũng biến đổi theo. Nghiên cứu này đã đề xuất một số giải
pháp cụ thể để cải thiện tình hình SK giúp người dân ổn định SK lâu dài [44].
Đậu Thị Bích Hoài, Nguyễn Văn Sang, (2010) đã tập trung đo lường sự thay đổi
các NLSK của các hộ dân TĐC TĐ Hủa Na. Kết quả khảo sát, nghiên cứu cho rằng khi
các hộ TĐC di dân đến nơi ở mới thì sự co hẹp nguồn lực tự nhiên kéo theo sự thay đổi
14


các nguồn lực còn lại. Những sự thay đổi của các nguồn lực đều được đánh giá theo chiều
hướng tích cực và tiêu cực trong công trình“Đánh giá sự thay đổi nguồn sinh kế của các
hộ di dân tái định cư thuộc dự án thủy điện Hủa Na: trường hợp nghiên cứu tại xã Tiền

Phong, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An” [64].
Nghiên cứu biến đổi SK của người Mường trong quá trình TĐC xây dựng TĐ
Hòa Bình, trong công trình “Biến đổi sinh kế của người Mường vùng lòng hồ thủy điện
Hòa Bình ở nơi tái định cư” của Trịnh Thị Hạnh (2016) đã tập trung nghiên cứu hai mô
hình TĐC là “di vén” và “lập làng mới”. Nghiên cứu cũng chỉ ra quá trình thích ứng về
kinh tế, xã hi và văn hóa của người dân ở hai mô hình trên [45].
Nghiên cứu của Phạm Quang Linh trong “Sinh kế của người Thái tái định cư
thủy điện Sơn La” (2017) đã tìm hiểu về năm nguồn vốn của người Thái trước và sau
TĐC, đánh giá ảnh hưởng của năm nguồn vốn đến hoạt động sinh kế và đề xuất các giải
pháp nhằm ổn định sinh kế của người Thái TĐC theo hướng phát triền bền vững [59].
Những nghiên cứu của nước ngoài về tác động của TĐ Việt Nam đối với người
dân tộc thiểu số không nhiều. Trong lĩnh vực này chủ yếu là các chuyên gia, tổ chức ngoài
Việt Nam kết hợp với các viện, NGOs Việt Nam để khảo sát, nghiên cứu đánh giá các tác
động xã hội, y tế, ... hoặc cung cấp tài chính cho các dự án nghiên cứu đánh giá (những
nghiên cứu của các cá nhân, tổ chức như VRN từ 2006 - 2014, Warecod 2006, Trần Văn
Hà 2008, 2011, 2012; Nguyễn Công Thảo, Vương Ngọc Thi 2013, ...).
Ngoài ra, Philip Hirsch và cộng sự thuộc Đại học Sydney, Australia trong nghiên
cứu “Social and environmental implications of resource development in Viet Nam: The
case of Hoa Binh reservoir - Mối quan hệ xã hội và môi trường trong sự phát triển tài
nguyên ở Việt Nam: Trường hợp của hồ Hòa Bình” đã xem xét tác động của hồ TĐ Hòa
Bình đến môi trường và SK của người Mường bản Lương Phong, xã Hiền Lương, Đà
Bắc, Hòa Bình; đặc biệt là những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình tìm kiếm những
nguồn lực này với người dân các xóm liền kề (xóm Mái và xóm Ngù) được làm rõ. Đây
là một công trình tham khảo hữu ích về phương pháp tiếp cận cũng như cách giải thích
vấn đề SK người dân tộc thiểu số bị ảnh hưởng [110].
1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về người Mnông và sinh kế của người Mnông
1.1.3.1. Nhóm công trình nước ngoài
Henri Maitre với các công trình khá công phu về “Les regions Moi du Sud
15



×