Tải bản đầy đủ (.pdf) (230 trang)

Biến đổi văn hóa ở làng người kinh dưới tác động của tái định cư khu kinh tế dung quất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.93 MB, 230 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH NHƯ HOÀI

BIẾN ĐỔI VĂN HÓA Ở LÀNG NGƯỜI KINH
DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA TÁI ĐỊNH CƯ
KHU KINH TẾ DUNG QUẤT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

HÀ NỘI - 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH NHƯ HOÀI

BIẾN ĐỔI VĂN HÓA Ở LÀNG NGƯỜI KINH
DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA TÁI ĐỊNH CƯ
KHU KINH TẾ DUNG QUẤT
Chuyên ngành: Nhân học
Mã số: 62 31 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. TRẦN VĂN HÀ


2. PGS.TS. BÙI VĂN ĐẠO

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án là do tôi viết và chưa công bố. Các số liệu trong
luận án là trung thực khách quan. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam
đoan của mình
Hà Nội, ngày

tháng

Nghiên cứu sinh

Đinh Như Hoài

năm 2016


LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành bản luận án Tiến sĩ với đề tài “Biến đổi văn hoá ở làng
người Kinh dưới tác động của tái định cư khu kinh tế Dung Quất”, ngoài sự
nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ to lớn, quý báu của tập thể
giáo viên hướng dẫn, TS.Trần Văn Hà, PGS. TS. Bùi Văn Đạo. Nhân dịp này
cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến hai thầy.
Tôi xin gửi lời cám ơn tới tập thể các Giáo sư, Tiến sĩ, Giảng viên bộ môn
Nhân học của Học viện Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam đã giúp đỡ tôi về chuyên môn, trong suốt quá trình học tập và nghiên
cứu khoa học.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đồng nghiệp Viện Khoa học Xã hội vùng Trung
Bộ; các anh, chị, em, bạn bè, cùng với gia đình tôi - những người đã tận tình
động viên, khuyến khích, góp ý, giúp tôi hoàn thành luận án này.
Tôi xin gửi tới lãnh đạo Sở Văn hoá tỉnh Quảng Ngãi, Uỷ Ban Nhân dân
huyện Bình Sơn, Uỷ ban Nhân dân các xã thuộc huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi, cán bộ Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất,… cùng cộng đồng người
Kinh ven biển Bình Sơn nơi tác giả đến nghiên cứu điền dã, đã nhiệt tình giúp đỡ
và cung cấp thông tin và tư liệu dân tộc học với lòng biết ơn sâu sắc.
Hà Nội, tháng 8 năm 2016
Nghiên cứu sinh

Tác giả luận án


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB

Ngân hàng phát triển Châu Á

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

KCN

Khu công nghiệp

KKT


Khu kinh tế

KDC

Khu dân cư

LSĐB

Lịch sử Đảng bộ

Nxb

Nhà xuất bản

NCS

Nghiên cứu sinh

PL

Phụ lục

TĐC

Tái định cư

UBND

Ủy ban nhân dân


VHTT

Văn hóa thông tin

WB

Ngân hàng thế giới


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên bảng, biểu đồ

Trang

Bảng 2.1. Hộ gia đình chia theo hoạt động nghề nghiệp sau khi TĐC

51

Bảng 2.2. Thu nhập bình quân năm của hộ gia đình sau TĐC

52

Bảng 2.3. Tự đánh giá sự thay đổi về thu nhập của hộ gia đình sau TĐC

52

Bảng 2.4. Nguyên nhân lao động trong gia đình không có việc làm

54


Bảng 2.5. Mong muốn nghề nghiệp đối với con cái của các hộ dân TĐC

74

Bảng 3.1. So sánh diện tích các loại đất của hộ trước và sau TĐC

85

Bảng 3.2. Thống kê loại nhà ở khi TĐC

86

Bảng 4.1. So sánh điều kiện sống tại khu TĐC và nơi ở cũ

115

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu đất trồng lúa của người dân An Quang trước TĐC

45

Biểu đồ 2.2: Cơ cấu đất trồng lúa của người dân An Quang khi TĐC

45

Biểu đồ 4.1: Đánh giá kinh tế của hộ gia đình so với trước TĐC

126


MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU …………………………………………………………………
Chương 1 - TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT VÀ ĐIỂM NGHIÊN CỨU …………………………………
1.1. Tổng quan nghiên cứu về biến đổi văn hóa do tái định cư dưới
tác động của các dự án phát triển ………………………………………
1.2. Cơ sở lý thuyết ………………………………………………………
1.3. Điểm nghiên cứu ……………………………………………………
Tiểu kết chương 1 ..………………………………………………………
Chương 2 - BIẾN ĐỔI SINH KẾ VÀ VĂN HÓA XÃ HỘI …………..
2.1. Biến đổi hoạt động sinh kế …………………………………………
2.2. Biến đổi văn hóa xã hội ……………….…………………………….
Tiểu kết chương 2 ……………………………………………………….
Chương 3 - BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VẬT CHẤT VÀ VĂN HÓA
TINH THẦN ……………………………………………………………..
3.1 Biến đổi văn hóa vật chất ………………………………………….
3.2. Biến đổi văn hóa tinh thần …………………………………………
Tiểu kết chương 3 ……………………………………………………….
Chương 4 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA, NGUYÊN NHÂN VÀ
KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ……………………………………………….
4.1. Những tác động tích cực của tái định cư đến văn hóa làng người
Kinh ở khu kinh tế Dung Quất ……………………………………….
4.2. Những vấn đề đặt ra về phát triển bền vững văn hóa ở cộng đồng
tái định cư và nguyên nhân ……………………………………………..
4.3. Một số khuyến nghị …………………………………………………
Tiểu kết chương 4 ………………………………………………………..
KẾT LUẬN ………………………………………………………………
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………
PHỤ LỤC LUẬN ÁN……………………………………………………………...

1
8
8
19
33
41
43
43
56
82
83
83
96
110
112
112
123
139
143
146
150
151
163


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Từ sau Đổi mới (1986) đến nay, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước
nhằm phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn các tỉnh miền Trung, Chính phủ đã
triển khai xây dựng các KKT trọng điểm Nhơn Hội, Chu Lai, Chân Mây - Lăng Cô,
v.v… trong đó có KKT Dung Quất. KKT Dung Quất nằm trọn trong địa bàn huyện
Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, được mở rộng và phát triển từ nền tảng KCN Dung
Quất cũ, có diện tích 10.300 ha. Đây là KKT tổng hợp, đa ngành, đa lĩnh vực, gồm
công nghiệp lọc dầu - hóa dầu - hóa chất, các ngành công nghiệp có quy mô lớn,
công nghiệp hàng tiêu dùng, gắn với phát triển và khai thác cảng biển.
KKT Dung Quất được đầu tư 2,5 tỷ USD từ ngân sách nhà nước. Để thực
hiện, dự án phải di dân, TĐC không tự nguyện 11.000 hộ dân người Kinh ven biển
lập các đơn vị hành chính mới. Tổng diện tích đất phải thu hồi, hỗ trợ và đền bù trên
địa bàn là 3.000 ha. Theo kế hoạch TĐC, các hộ dân đến nơi ở mới phải được xây
dựng kết cấu hạ tầng đầy đủ, hiện đại và qui hoạch dân cư theo kiểu đô thị. Sau khi
ổn định nhà ở, nguồn nước và đời sống, sẽ có chương trình phát triển sản xuất, thị
trường; tạo việc làm, đảm bảo công ăn, việc làm cho cư dân nhất là thuộc độ tuổi
lao động hiện tại và tương lai bị di dời, TĐC.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện dự án, ở nhiều khu TĐC, kết cấu hạ tầng
cơ sở thiết yếu như: đường giao thông, trường học, trạm y tế, chợ, hệ thống cấp
thoát nước, thu gom rác thải, v.v… còn chưa đồng bộ hoặc chưa hoàn thành đúng
tiến độ; việc ổn định đời sống và sinh kế của người dân ở các khu TĐC đang gặp
nhiều khó khăn. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội hậu TĐC chưa được quan
tâm đúng mức. Nhiều mục tiêu dự án TĐC chưa được thực hiện đầy đủ đã gây nên
những bức xúc và chưa tạo được sự an tâm đối với người dân TĐC và người dân sở
tại bị ảnh hưởng. Thêm nữa, về không gian văn hoá, do TĐC được qui hoạch theo
kiểu đô thị nên đã phá vỡ cấu trúc văn hóa cộng đồng làng như bố trí làng, nhà ở,
quan hệ xã hội và đặc biệt là hoạt động sinh kế so với nơi ở cũ của các cộng đồng

1



làng thuần ngư, thuần nông hay bán nông bán ngư dựa trên sự cộng sinh, cộng cảm
và cộng mệnh từ nhiều thế hệ.
Trong một thập niên trở lại đây, đã có một số nghiên cứu đánh giá những tác
động tích cực và tiêu cực về tình hình đời sống của người dân TĐC dưới tác động
của KKT Dung Quất. Tuy vậy, những nghiên cứu trên mới tập trung vào các vấn đề
như: tác động kinh tế, lao động và việc làm, đền bù giải toả, ổn định trật tự xã hội.
Vấn đề nghiên cứu về văn hóa hay biến đổi văn hoá chỉ có 1 công trình thực hiện từ
những năm 90 khi bắt đầu thực hiện TĐC và có 1 chuyên đề trong đề tài thực hiện
tại tỉnh Quảng Ngãi liên quan tới văn hoá. Các nghiên cứu chuyên sâu theo hướng
tiếp cận dân tộc học/ nhân học về biến đổi văn hóa làng người Kinh TĐC ở KKT
Dung Quất hiện nay chưa được chú ý.
Thực tế cho thấy, cùng với những tác động tích cực do cơ sở vật chất hạ tầng,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đô thị hóa nhanh chóng, KKT Dung Quất cũng đang
nảy sinh những vấn đề. Ngoài những vấn như đền bù TĐC, đền bù đGất sản xuất,
lao động và việc làm, ổn định sinh kế, sự xuất hiện tệ nạn xã hội, đã và đang tồn tại
vấn đề biến đổi văn hóa của cộng đồng làng TĐC trong phát triển bền vững. Nghiên
cứu thực trạng, những biến đổi văn hoá ở cộng đồng làng người Kinh trong các khu
TĐC kinh tế Dung Quất có ý nghĩa sâu sắc cả về khoa học và thực tiễn. Vấn đề
càng trở nên cấp thiết hơn khi tỉnh Quảng Ngãi đang tiếp tục công tác đền bù giải
toả mở rộng qui mô KKT Dung Quất gấp 3 lần diện tích đã có vào năm 2020. ( xem
PL 1 bản đồ 1).
Trên cơ sở luận giải trên, NCS lựa chọn vấn đề “Biến đổi văn hoá ở làng
người Kinh dưới tác động của tái định cư Khu Kinh tế Dung Quất” làm đề tài
luận án tiến sỹ Nhân học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Đề tài luận án này có bốn mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu văn hóa làng người Kinh KKT Dung Quất trước TĐC
(năm 1995).

2



Thứ hai, làm sáng tỏ quá trình và thực trạng biến đổi văn hóa làng người Kinh
TĐC từ khi TĐC đến thời điểm nghiên cứu (năm 2012-2015).
Thứ ba, phân tích, đánh giá tác động của TĐC đến biến đổi văn hóa làng TĐC
KKT Dung Quất.
Thứ tư, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp góp phần xây dựng chính sách
phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển văn hóa làng nói riêng theo hướng
bền vững cho các khu TĐC của người Kinh ở KKT Dung Quất.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu. Luận án tập trung nghiên cứu biến đổi văn hóa làng
người Kinh ở địa bàn TĐC dưới tác động của KKT Dung Quất. Khái niệm văn hóa
làng trong luận án được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm bốn thành tố là sinh kế, văn
hóa xã hội, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Phạm vi nghiên cứu. Về thời gian, luận án nghiên cứu thực trạng văn hóa làng
của người Kinh TĐC trước thời điểm TĐC (năm 1995) và những biến đổi của văn
hóa làng người Kinh tại các điểm nghiên cứu dưới tác động của KKT Dung Quất
trong thời gian từ khi TĐC (1995) đến năm 2015.
Về không gian, luận án chọn 3 khu TĐC thuộc địa bàn huyện Bình Sơn, gồm
khu TĐC An Quang, thôn Thạnh Thiện, xã Bình Thanh Tây; khu TĐC Giếng Hố,
thôn Lệ Thuỷ, xã Bình Trị và khu TĐC Vĩnh Trà (còn gọi khu TĐC Tây Trà Bồng),
thôn Vĩnh Trà, xã Bình Thạnh. Đây là 3 cộng đồng người Kinh có thời điểm di dân,
chính sách đền bù giải toả và mức độ giao lưu tiếp biến văn hoá khác nhau; đồng
thời, khả năng “thích ứng” văn hoá khi TĐC không giống nhau.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1 Phương pháp luận
Trước hết, luận án được hoàn thành dựa trên quan điểm triết học của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong biến
đổi văn hoá khi TĐC. Khi tiếp cận vấn đề, tiến hành nghiên cứu tác giả không xem
xét biến đổi văn hoá là một thành tố tồn tại độc lập, mà đặt trong bối cảnh của trước

và sau khi TĐC, dưới sự tác động của các yếu tố văn hoá và quan hệ xã hội. Luận

3


án cũng nghiên cứu sự biến đổi của văn hoá giữa nhiều điểm nghiên cứu trước và
sau khi TĐC, để thấy rõ sự biến đổi văn hoá trong mối quan hệ xã hội ở cộng đồng.
Luận án được trình bày và biện giải dựa trên quan điểm duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin, đặt biến đổi văn hoá trong bối cảnh lịch sử, xã hội cụ thể,
gắn với quá trình hình thành, phát triển của văn hoá để thấy rõ và giải thích được sự
biến đổi văn hoá ở làng người Kinh TĐC dưới tác động của dự án phát triển - KKT
Dung Quất.
Luận án dựa trên tư tưởng của Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng,
pháp luật của Nhà nước về chính sách dân tộc, chính sách TĐC, chính sách phát
triển văn hoá trong bối cảnh phát triển nông thôn mới hiện nay ở ven biển Nam
Trung Bộ.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp
Luận án có phân tích, tham khảo, kế thừa các nguồn tài liệu có sẵn liên quan
đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà
nước, của các bộ ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu trong
và ngoài nước, các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, tổ chức, cá nhân liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến chủ đề nghiên cứu.
4.2.2. Phương pháp điền dã dân tộc học
Đây là phương pháp chính yếu nhằm thu thập nguồn tài liệu cơ bản giải quyết các
vấn đề khoa học mà mục tiêu luận án đặt ra. Phương pháp này gồm các công cụ sau:
- Quan sát của nhà nghiên cứu để có được những nhận biết chung ban đầu về tổng
thể cảnh quan làng TĐC và biến đổi văn hóa làng TĐC như địa hình, tài nguyên thiên
nhiên, bờ biển, nhà cửa, các thiết chế tín ngưỡng...
- Chụp lại những hình ảnh liên quan đến văn hóa và biến đổi văn hóa làng trong sự

đối sánh trước và sau TĐC;
- Phỏng vấn sâu thông tín viên. Đối tượng mà chúng tôi lựa chọn để phỏng vấn gồm
các nhóm tuổi, giới tính, điều kiện kinh tế,… bao gồm cả lãnh đạo địa phương, người cao
tuổi, những chủ hộ am hiểu văn hóa. Trong đó, kết hợp phỏng vấn đương đại và hồi cố để

4


một mặt dựng lại bức tranh văn hoá làng trước TĐC và biến đổi văn hóa làng hiện nay tại
điểm TĐC. Cụ thể trong 5 năm từ năm 2012đến năm 2016, tác giả luận án đã
phỏng vấn sâu 30 người dân, 10 cán bộ làm công tác quản lý địa phương (thôn,
xã, huyện, tỉnh) và 5 cán bộ Ban quản lý KKT Dung Quất.
- Thảo luận nhóm, được áp dụng để tổ chức các buổi thảo luận nhóm khác nhau
như thảo luận nhóm với cán bộ thôn làng, cán bộ xã, thảo luận nhóm hỗn hợp với cán
bộ, người dân khu TĐC về các chủ đề và vấn đề liên quan đến văn hóa làng và biến
đổi văn hóa làng.
Tổng số có 8 cuộc thảo luận nhóm đã được thực hiện, trong đó, 3 cuộc thảo
luận với đại diện cán bộ và người dân ở 3 điểm TĐC, 1 cuộc thảo luận nhóm với
cán bộ UBND 4 xã liên quan là Bình Thạnh, Bình Trị, Bình Thanh Tây, Bình Đông
vào cuối năm 2012, 1 cuộc thảo luận với nhóm nam ngư dân ở khu TĐC Vĩnh Trà,
1 cuộc thảo luận với nhóm nữ ngư dân ở khu TĐC Vĩnh Trà, 1 cuộc thảo luận nhóm
hỗn hợp với người dân ở hai khu TĐC Giếng Hố, An Quang vào năm 2014 và 1
cuộc thảo luận nhóm với cán bộ thôn, xóm thuộc 3 điểm nghiên cứu vào tháng 5
năm 2015 .
4.2.3. Phương pháp điều tra xã hội học
Đề tài sử dụng phương pháp điều tra bảng hỏi hộ gia đình để thu thập các thông
tin định lượng liên quan đến các khía cạnh biến đổi văn hóa và những vấn đề đề đặt ra
của biến đổi văn hóa làng người Kinh ở khu TĐC Dung Quất. Mẫu lựa chọn được tiến
hành dựa trên các biến độc lập về độ tuổi, giới, học vấn và nghề nghiệp tại 3 khu
TĐC hội tụ loại hình di dân, nghề nghiệp và thời điểm di dân là ba xã Bình trị,

Bình Thạnh và Bình Thanh Tây ở huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi. Cơ số mẫu được
chọn theo nguyên tắc chọn đại diện cho các loại hình di dân, TĐC khác nhau đảm
bảo được yêu cầu phân tích thống kê cơ bản và phản ánh được tính đa dạng giữa
các làng và phản ánh được bức tranh chung về TĐC KKT Dung Quất.
Bảng hỏi điều tra gồm những câu hỏi đóng và mở được thiết kế riêng cho luận
án. Nghiên cứu sinh đã triển khai điều tra tại 170 hộ gia đình, chia thành hai đợt.
Đợt 1, điều tra vào tháng 10 năm 2012 và đợt 2 điều tra vào tháng 5 năm 2015.

5


Tổng số mẫu điều tra gồm 40/60 hộ TĐC ở khu TĐC An Quang; 40/56 hộ ở khu
TĐC Giếng Hố; và 90/300 hộ TĐC ở khu TĐC Vĩnh Trà mà cụ thể là 90/205 hộ
điểm xuất cư từ làng Sơn Trà. Đợt 2 thẩm định và bổ sung thông tin còn thiếu của
một số câu hỏi trong đợt 1. Người được hỏi là đại diện của hộ, cân bằng tỷ lệ nam,
nữ và trong nhóm tuổi từ 18- 65 tuổi, hoặc đảm bảo sự minh mẫn của người trả lời
để đáp ứng độ xác thực của thông tin thu thập.
Các số liệu thu được qua các phiếu hỏi hộ gia đình được sử dụng phần mềm
SPSS để xử lý và tổng hợp số liệu. Việc kiểm định mối tương quan thống kê các số liệu
này theo kỹ thuật xử lý định lượng để đánh giá mức độ ảnh hưởng của chính sách đối
với các cộng đồng TĐC và cộng đồng sở tại đã được tiến hành.
4.2.4. Phương pháp chuyên gia
Phương pháp này mục đích lấy ý kiến của các cá nhân lãnh đạo, phụ trách các
ban, ngành, cơ quan chuyên môn TĐC, các nhà khoa học ở trung ương và địa phương
có hiểu biết, kinh nghiệm thực tiễn nghiên cứu về TĐC và biến đổi văn hóa do TĐC.
Trên cơ sở đó, so sánh với những tư liệu và những phát hiện mới có được tại người dân
và cộng đồng. Do các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm và kiến thức chuyên sâu liên
quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài nên các đánh giá của họ cũng rất quan trọng,
góp phần làm căn cứ cho các kết luận, kiến nghị và đề xuất giải pháp của đề tài luận án.
4.2.5. Phương pháp so sánh lịch đại và đồng đại

Sử dụng phương pháp so sánh, luận án tìm hiểu sự khác nhau trong các yếu tố
về văn hóa ở thời điểm ở cộng đồng làng gốc trước TĐC và những thay đổi sau thời
gian TĐC. So sánh bao gồm so sánh đồng đại và so sánh lịch đại. So sánh đồng đại để
tìm ra tương đồng và khác biệt giữa các yếu tố đương đại, so sánh lịch đại nhằm tìm ra
những tương đồng và khác biệt của cùng yếu tố văn hóa trong quá khứ với hiện nay.
Bên cạnh đó, sự so sánh không chỉ về thời gian mà cả thay đổi về không gian cư trú
của cộng đồng làng do tác động của qui hoạch dân cư, không gian sinh hoạt văn hóa xã
hội sau TĐC. Trong khuôn khổ của những dữ liệu cho phép, có thể so sánh với các
khảo sát, điều tra của các đồng nghiệp ở địa bàn 3 điểm nghiên cứu và rộng hơn ở KKT
Dung Quất hay vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.

6


5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Từ cách tiếp cận dân tộc học/ nhân học, thông qua khảo sát tại ba điểm nghiên
cứu chính, luận án góp phần làm sáng tỏ một số khía cạnh lý thuyết và thực tiễn về
văn hóa làng người Kinh (làng Việt) và thực trạng biến đổi văn hóa làng người Kinh
TĐC dưới tác động của dự án phát triển, cụ thể là KKT Dung Quất tại miền Trung.
Từ đó, góp thêm những tư liệu và kiến giải, mong muốn hoàn thiện, bổ sung thêm
cho những nghiên cứu đã có về biến đổi văn hóa nói chung, văn hóa làng người
Kinh TĐC nói riêng dưới tác động của các dự án phát triển từ sau đổi mới (1986)
đến nay nhất là sự hình thành các KKT trọng điểm miền Trung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án cung cấp những cứ liệu thực tế về công tác TĐC tại KKT Dung Quất,
tỉnh Quảng Ngãi. Một mặt, luận án chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của quá
trình TĐC đối với người Kinh tại các khu TĐC; mặt khác, từ đánh giá thực trạng,
tìm hiểu nguyên nhân biến đổi văn hóa làng người Kinh TĐC, đưa ra những dự báo
và kiến nghị giải pháp. Nghiên cứu văn hóa và biến đổi văn hóa của các loại hình
làng người Kinh TĐC ven biển có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc góp phần đề xuất những

kiến nghị, giải pháp như là cơ sở khoa học cho các cơ quan hữu quan điều chỉnh,
hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa làng đối với các dự án trọng điểm miền Trung trong quá trình xây dựng nông
thôn mới. Kết quả nghiên cứu của luận án cũng hướng tới góp phần thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5, khóa 8 năm 1998 của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết Trung ương 9, khóa 11 năm
2014 của Đảng về xây dựng văn hóa và con người Việt Nam trong sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương
chính văn như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và điểm nghiên cứu
Chương 2. Biến đổi sinh kế và văn hóa xã hội
Chương 3. Biến đổi văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần
Chương 4. Một số vấn đề đặt ra, nguyên nhân và kiến nghị giải pháp.

7


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐIỂM NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu về biến đổi văn hóa do tái định cư dưới tác
động của các dự án phát triển
1.1.1. Nghiên cứu về biến đổi văn hóa do tái định cư ở nước ngoài những
năm cuối Thế kỷ XX đầu Thế kỷ XXI
TĐC đã và đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới do tác động của các dự án
phát triển như thủy điện, thủy lợi, KCN, KKT, đô thị hóa,…Với tư cách là đối
tượng nghiên cứu của khoa học, TĐC trong các dự án phát triển trên thế giới mới
được tập trung nghiên cứ từ thập niên cuối Thế kỷ XX, đầu Thế kỷ XXI, khi hàng

loạt các nước đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với việc thực hiện
nhiều dự án phát triển quy mô lớn. Liên quan đến luận án, trên thế giới đã có một số
công trình nghiên cứu được công bố chủ yếu đề cập đến vấn đề TĐC nói chung,
trong đó có một số nội dung liên quan đến biến đổi văn hóa. Cũng có nghĩa cho đến
nay, chưa có nhiều công trình chuyên sâu, cụ thể về biến đổi văn hóa nói chung và
biến đổi văn hóa ở cộng đồng TĐC nói riêng. Các công trình nghiên cứu đã có
nhiều đóng góp khoa học về mặt học thuật và lý thuyết về TĐC, nhất là TĐC không
tự nguyện (involuntary resettlement).
Trước tiên, các công trình đề cập đến lịch sử của quá trình TĐC, đánh giá trên
quan điểm phát triển về quá trình TĐC nói chung, TĐC không tự nguyện nói riêng,
cũng như đánh giá sự tiến bộ về nhận thức và chính sách TĐC trên thế giới. Đồng
thời, đi sâu phân tích khái niệm TĐC, TĐC không tự nguyện và các khái niệm,
phạm trù liên quan đến vấn đề TĐC. Trên cơ sở đó, các học giả đã phân tích, luận
giải những hệ quả, tác động tích cực, tiêu cực đối với đời sống vật chất, tinh thần
của người dân TĐC và nhóm xã hội hay cộng đồng bị ảnh hưởng. Từ đó, các nhà
khoa học đề xuất các quan điểm, nguyên tắc cần tuân thủ khi giải quyết vấn đề TĐC
nói chung, TĐC không tự nguyện đối với các dự án phát triển nói riêng. Đại diện

8


cho xu hướng nghiên cứu này là một số tác giả như Michael M. Cernea với các
công trình “The economics of involuntary resettlement: questions and challenges”
(Nền kinh tế của TĐC không tự nguyện: câu hỏi và thách thức), xuất bản năm
1999; “Involuntary Resettlement and Development” (TĐC không tự nguyện và
Phát triển); “Involuntary Resettlement and Development Projects: Policy
Guidelines in World Bank - Financed Projects” (TĐC không tự nguyện và các dự
án phát triển: Hướng dẫn chính sách của các dự án do Ngân hàng Thế giới tài trợ);
“Anthropological Approaches to Involuntary resettlement: Policy, Practice and
Theory” (Phương pháp tiếp cận nhân học đối với TĐC không tự nguyện: Chính

sách, thực tiễn và lý thuyết); “Socio - Economic and Cutural Approaches to
Involuntary Population Resettlement” (Phương pháp tiếp cận kinh tế - xã hội và văn
hóa đối với TĐC không tự nguyện); Michael M. Cernea và Guggenhim với các
công trình “Anthropological approaches on resettlement - Policy, Practice and
Theory” (Các phương pháp tiếp cận Nhân học về TĐC - Chính sách, Thực tiễn và
Lý thuyết); “Risks and reconstruction: experiences of resettlers and refugees” (Rủi
ro và tái thiết: kinh nghiệm của người dân TĐC và người tị nạn), (2000) [137];
Christopher Mc Dowell với công trình “Resettlement, risk of poverty and
sustainable livelihood issues” (TĐC, nguy cơ nghèo hóa và các vấn đề sinh kế bền
vững); R. Carlos Escudero (1998) với công trình “Involuntary Resettlement in
Bank- Assisted Projects: An Introduction to Legal Issues” (TĐC không tự nguyện
trong các dự án do Ngân hàng Thế giới hỗ trợ: Giới thiệu về các vấn đề pháp lý); E.
Colson (1999) với công trình “Forced migration and the anthropologist” (Di dân
bắt buộc và các nhà nhân học); D. Chatty và M. Colchester (2002) với công trình
“Displacement, Forced Resettlement and Sustainable Development” (Di dời, TĐC
bắt buộc và Phát triển bền vững) [118-126].
Thứ hai, xuất hiện các nghiên cứu liên ngành trong quá trình thực hiện các dự
án phát triển về TĐC. Từ góc độ tiếp cận này, nhiều vấn đề TĐC được các nghiên
cứu nhận diện đa chiều thông qua thực tiễn, đi sâu đánh giá hiệu quả và những bài
học kinh nghiệm về các chính sách TĐC đã áp dụng trong quá trình thực hiện các

9


dự án phát triển. Quan điểm là luôn đặt chính sách TĐC trong mối quan hệ với các
tiêu chí phát triển bền vững. Phần lớn các công trình nghiên cứu này đều được tài
trợ bởi các tổ chức tài chính quốc tế lớn như WB, ADB tại các nước trong những
năm cuối Thế kỷ XX, đầu Thế kỷ XXI. Điển hình là các nghiên cứu do WB tài trợ
như: “Resettlement and development: The Bankwide review of projects” (TĐC và
phát triển: Việc xem xét các dự án của ngân hàng Thế giới); “Operations Policy

Issues in the Treatment of Involuntary Resettlement” (Các vấn đề thực thi chính
chính sách trong việc giải quyết TĐC không tự nguyện); “Involuntary
Resettlement” (TĐC không tự nguyện); “Resettlement and Development” (TĐC và
Phát triển); “Involuntary Resettlement: Guidelines for Lawyers” (TĐC không tự
nguyện: Hướng dẫn cho các luật sư, [117, 118, 119]. Bên cạnh đó một số nghiên
cứu do ADB tài trợ như: “Involuntary Resettlement Policy Review” (Đánh giá
chính sách TĐC không tự nguyện); “Handbook on Resettlement: A Guide to Good
Practice” (Sổ tay về TĐC: Hướng dẫn để thực hiện hợp lý); “Involuntary
Resettlement, Operational Manual” (TĐC không tự nguyện, Sổ tay hoạt động)
[117, 118, 122]. Cũng cần đề cập một số công trình do cá nhân nghiên cứu như:
“Involuntary Resettlement in Development Projects” (TĐC không tự nguyện trong
các dự án phát triển) của William Partridge (1989); “Methodological Issues in the
Economic Analysis for Involuntary Resettlement Operations” (Các vấn đề về
phương pháp luận trong phân tích kinh tế cho các hoạt động TĐC không tự
nguyện) của David W. Pearce (1999); “Hunting for Sustainability in tropical
forests” (Săn bắn đảm bảo sự bền vững của rừng nhiệt đới) của Robinson, J.G &
Bennett, E.L (2000).
Thứ ba là xuất hiện các công trình nghiên cứu mang tính chuyên biệt về từng
khía cạnh khác nhau của TĐC trong các dự án phát triển. Các nghiên cứu này đề
cập tới các vấn đề chuyên sâu như: môi trường sinh thái; nhà ở và đất sản xuất; lao
động, việc làm và thất nghiệp, đói nghèo, y tế và sức khỏe, giáo dục và đào tạo.
Đồng thời, khẳng định TĐC nói chung, TĐC không tự nguyện nói riêng không
những làm thay đổi các điều kiện sống về vật chất (như chỗ ở, nhà cửa, môi

10


trường…) mà còn làm thay đổi các điều kiện văn hóa, lối sống… của người TĐC.
Sự thay đổi này, nếu như không được tính toán để phục hồi một cách đầy đủ, sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển bền vững của các cộng đồng xã hội nói chung và đến ngay

dự án nói riêng. Ngoài ra, các nghiên cứu cũng đưa ra khuyến cáo rằng chính sách
TĐC trong các dự án phát triển cần phải tính toán một cách đầy đủ các tác động này
đối với người TĐC. Một số công trình tiêu biểu như: “Gender and Resettlement: An
Overview of Impact and Planning Issues in World Bank Assisted Projects” (Giới và
TĐC: Tổng quan về tác động và các vấn đề Kế hoạch trong các Dự án do Ngân
hàng Thế giới hỗ trợ) của World Bank (1993); “The Environmental Health Impacts
of Resettlement: A wealth of systemic problems, A dearth of comprehensive
responses” (Tác động về y tế của việc TĐC: Dư thừa những tồn tại về hệ thống,
thiếu vắng các hành động hợp lý) của Steven K. Ault (1994); “Displacement and
the Rights of Women” (Di cư và quyền của phụ nữ) của Patricia Feeney (1995);
“Effects of Forced Displacement on the Mental Health of Older People in North
India” (Tác động của di dời cưỡng bức đối với Sức khỏe tinh thần của người già ở
Bắc Ấn Độ) của Satish Kedia, John van Willigen (2001).
Tóm lại, trong những năm gần đây, vấn đề TĐC đã thu hút sự nghiên cứu của
nhiều học giả, nhiều tổ chức trên thế giới. Các nghiên cứu về TĐC, nhiều về số
lượng, đa dạng phong phú về nội dung và cách tiếp cận. Các học giả không chỉ xây
dựng được nền tảng lý luận cơ bản để tiếp cận về vấn đề TĐC nói chung, TĐC
trong các dự án phát triển nói riêng mà còn đề cập một cách chuyên sâu những khía
cạnh khác nhau của vấn đề nghiên cứu. Đây là nguồn tài liệu khoa học tham khảo
hữu ích cho luận án của NCS, nhất là về mặt lý thuyết, các phương pháp tiếp cận,
cách thức giải quyết vấn đề đặt ra.
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước về biến đổi văn hóa ở các cộng đồng
người Kinh do tác động của tái định cư tại các dự án phát triển trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Việc triển khai xây dựng và đi vào hoạt động của hàng trăm dự án phát triển
đô thị hóa, KCN, KKT ở vùng người Kinh từ khi đất nước bước vào đổi mới đến

11



nay đòi hỏi có những nghiên cứu khoa học đánh giá, tổng kết để phục vụ quy hoạch
và xây dựng chính sách. Từ thực tế đó, đã có các nghiên cứu trực tiếp đánh giá tác
động của các dự án đô thị hóa, KCN và KKT đến văn hóa và biến đổi văn hóa cộng
đồng của người Kinh chịu ảnh hưởng của TĐC. Trong đó có các nghiên cứu, tài liệu
tiêu biểu như sau:
Sách “Ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn ngoại thành Hà Nội, thực
trạng và giải pháp” của Lê Du Phong, Nguyễn Văn Áng, Hoàng Văn Hoa (2002)
đã phân tích những tác động nhiều chiều của đô thị hóa đến đời sống kinh tế, xã hội,
văn hóa của nông dân các làng quê thuộc các huyện ngoại thành Hà Nội trong
những thập niên đổi mới và đề xuất một số giải pháp giảm thiểu và hóa giải các tác
động không mong muốn.
Sách “Tác động của đô thị hóa, Công nghiệp hóa tới phát triển kinh tế và biến
đổi văn hóa, xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc” của Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Thế
Trường (2009) bàn về thực trạng đô thị hóa, công nghiệp hóa và những biến đổi của
kinh tế, xã hội, văn hóa ở Vĩnh Phúc dưới tác động của đô thị hóa, công nghiệp hóa,
chỉ ra những tác động tích cực và những vấn đề đặt ra cần giải quyết để phát triển
bền vững những năm tới.
Sách “Đô thị hóa, một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam” của Hà Huy
Thành (2002), một mặt điểm qua thực trạng đô thị hóa trong quá trình đổi mới, mặt
khác đưa ra và phân tích một số vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cho thực hiện
đô thị hóa ở nước ta.
Nghiên cứu “Ảnh hưởng kinh tế - xã hội của việc nâng cấp đường quốc lộ 5
đến các cộng đồng dân cư quanh vùng” thực hiện trong giai đoạn 2000-2001 do
Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản tài trợ đã phân tích, đánh giá tác động của dự
án đến đời sống của cộng đồng dân cư bị ảnh hưởng; hay nghiên cứu “Vệ sinh môi
trường và điều kiện sống của người TĐC ở Thành phố Hồ Chí Minh” của Võ
Hưng (2003) đã phân tích những điều kiện sống trong mối tương quan với quyết
định lựa chọn nơi TĐC.

12



Ngoài ra có các nghiên cứu liên quan đến môi trường, sinh kế ở các địa bàn
khác như Lê Văn Thành (2008), nghiên cứu vấn đề tại Thành phố Hồ Chí Minh về
“Thực trạng đời sống kinh tế xã hội các hộ gia đình sau TĐC:vấn đề và giải
pháp”. Đề tài này đã đánh giá sự biến đổi các đặc điểm kinh tế-xã hội các hộ gia
đình trước và sau khi TĐC, phát hiện những vấn đề bức xúc cần phải giải quyết và
đề xuất một số giải pháp để hỗ trợ nhằm mục đích khôi phục và nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân sau TĐC ở Thành phố Hồ Chí Minh [94]; Nghiên
cứu “Đời sống xã hội của người dân thuộc diện TĐC ở Thành phố Hồ Chí
Minh: Thực trạng và giải pháp” của Phan Huy Xu (2005) đã nêu lên một số cơ
sở lý luận và thực trạng đời sống xã hội của người dân TĐC có phân theo các
nhóm dân theo và không theo chương trình, một số giải pháp, khuyến nghị chung.
Sách “Những biến đổi xã hội và văn hóa ở những làng quê chuyển từ xã thành
phường tại Hà Nội” của Trần Thị Hồng Yến (2013 đưa ra bức tranh thực trạng xã
hội và văn hóa của người Việt ven đô Hà Nội như là kết quả của quá trình biến đổi
dưới tác động của đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ trong các thập niên đổi mới [116].
Sách “Những biến đổi giá trị văn hóa truyền thống ở các làng ven đô Hà Nội
trong thời kỳ đổi mới” do Ngô Văn Giá chủ biên (2007) là một tổng kết thực trạng
biến đổi văn hóa và các giá trị văn hóa truyền thống của người Việt ven đô Hà Nội
dưới tác động của đổi mới nói chung, của đô thị hóa nói riêng [36].
Luận án tiến sỹ nhân học Biến đổi văn hóa trong cộng đồng dân cư vùng đô
thị hóa (nghiên cứu trường hợp tại phường Định Công và xã Minh Khai, Hà Nội)
của Nguyễn Đình Tuấn (2013) là một chuyên khảo về biến đổi văn hóa vật chất và
tinh thần của người Việt tại điểm nghiên cứu dưới tác động của đô thị hóa vùng ven
đô thành phố Hà Nội trong những thập niên đổi mới [95].
Ngoài các công trình nêu trên, còn nhiều công trình khác bàn về TĐC và biến
đổi văn hóa do TĐC, trong đó đáng chú ý: Lưu Đức Khải, Hà Huy Ngọc (2008)
“Đời sống sinh kế và thu nhập của người dân bị thu hồi đất nông nghiệp do quá
trình đô thị hóa”; Vũ Hào Quy (2008) “Tác động của đô thị hóa đến cố kết cộng

đồng ở nông thôn hiện nay (nghiên cứu trường hợp tỉnh Hải Dương”; Nguyễn Văn

13


Sửu (2008) “Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến sinh kế của nông dân
Việt Nam. Trường hợp một làng ven đô Hà Nội” [81] ; Tôn Nữ Quỳnh Trân (Chủ
biên, 2009) “Văn hóa làng xã trước sự thách thức của đô thị hóa tại thành phố Hồ
Chí Minh”; Trần Thị Hồng Yến, Thạch Thiết Hà (2007) “Bảo vệ di sản văn hóa
truyền thống ở các làng xã được chuyển thành phường tại thủ đô Hà nội hiện nay
(nghiên cứu trường hợp tại làng Tình Quang, phường Giang Biên, quận Long
Biên)”; Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1997) “Văn hóa trong quá trình
đô thị hóa ở nước ta hiện nay”; Trần Đức Ngôn (2005)” Văn hóa truyền thống
ngoại thành Hà Nội dưới tác động của kinh tế thị trường”; Ngô Đức Thịnh (2010)
“Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi
mới và hội nhập”.
1.1.3. Các nghiên cứu trong nước về văn hóa và biến đổi văn hóa ở các
cộng đồng người Kinh do tác động của tái định cư tại các dự án phát triển miền
Trung và khu kinh tế Dung Quất
1.1.3.1. Nghiên cứu về văn hóa và biến đổi văn hóa ở cộng đồng người Kinh
do tác động của TĐC tại các dự án phát triển miền Trung.
Phát triển các KKT nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm việc làm và
thúc đẩy quá trình đô thị hóa nhanh chóng ở miền Trung là chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước gắn với quá trình CNH, HĐH đất nước. Những thập kỷ gần đây,
sự ra đời các KKT, khu thương mại lớn như: Dung Quất, Nhơn Hội, Chu Lai, Chân
Mây - Lăng Cô,... đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tạo
thêm việc làm, thúc đẩy quá trình đô thị hóa nhanh chóng ở miền Trung, mặt khác
cũng dẫn tới một số hệ lụy không mong muốn về kinh tế, xã hội, văn hóa. Các vấn
đề đó bước đầu thu hút sự quan tâm nghiên cứu của giới khoa học về miền Trung,
nhưng số lượng chưa nhiều và hầu như chưa được xuất bản và công bố rộng rãi.

Tiêu biểu cho mảng đề tài này là một số công trình do Học Viện Chính trị Hành chính Khu vực III chủ trì, như: Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước “TĐC
ở các đô thị lớn vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ - thực trạng và những vấn đề đặt
ra trong quản lý phát triển xã hội” [90], do Nguyễn Hồng Sơn làm chủ nhiệm; đề

14


tài khoa học cấp Bộ “Một số giải pháp chủ yếu để quản lý quá trình di dân trong
vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ” (2004) do Lê Văn Định làm chủ nhiệm [32, 34];
chuyên đề khoa học “TĐC ở các đô thị lớn vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ - thực
trạng và những vấn đề đặt ra” của Nguyễn Thị Yến [114]. Đề tài do Nguyễn Hồng
Sơn làm chủ nhiệm đã thực hiện đánh giá liên ngành về thực trạng TĐC như: việc
làm, nhà ở, đất ở, đất canh tác, thu nhập người dân, kết cấu hạ tầng, giáo dục, đời
sống văn hóa tinh thần; đưa ra một số đề xuất giải pháp quản lý xã hội ở các KKT
trọng điểm miền Trung dưới tác động của TĐC; đồng thời, chỉ ra sự lệch pha, chưa
cân xứng trong phát triển đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng TĐC với sự
thỏa mãn nhu cầu vật chất [79]. Đề tài của Lê Văn Định dựa trên thực trạng đã đưa
ra một số giải pháp chính để quản lý quá trình di dân ở vùng kinh tế trọng điểm
Trung Bộ. Bên cạnh đó, chuyên đề của Nguyễn Thị Yến đã khái quát thực trạng quá
trình TĐC đang diễn ra ở miền Trung, nhất là ở thành phố Đà Nẵng và một số địa
phương khác. Đồng thời, chỉ ra một số vấn đề nảy sinh và đề xuất kiến nghị sửa đổi
chính sách, phương thức tổ chức thực hiện TĐC.
Các đề tài do Học Viện Chính trị - Hành chính Khu vực III chủ trì đã đi sâu
tìm hiểu qui mô, đặc điểm, tính chất, xu hướng của quá trình TĐC trong vùng và
những vấn đề nảy sinh về kinh tế - xã hội, văn hóa ở các dự án phát triển. Những
nghiên cứu này, cũng nêu những vấn đề đặt ra trong quản lý xã hội và phát triển bền
vững vùng và liên vùng. Chẳng hạn như, về lao động và việc làm của người dân sau
TĐC ở Đà Nẵng [32], quản lý quá trình di dân, TĐC [33]; những vấn đề trong quản
lý phát triển xã hội [79], v.v... Như vậy, TĐC đã được nghiên cứu gắn với vấn đề cụ
thể ở địa phương như tác động của TĐC đến môi trường sinh thái, đói nghèo, biến

đổi kinh tế, xã hội, văn hóa, vấn đề cải tạo môi trường và nâng cao chất lượng cuộc
sống ở các khu TĐC thuộc KKT. Tuy nhiên, nghiên cứu từ chiều cạnh văn hóa về
sự thích ứng và biến đổi từ những cộng đồng làng truyền thống đến di dời, TĐC cả
về vật chất và tinh thần còn khá khiêm tốn, rất nhiều vấn đề đặt ra bức thiết từ thực
tế các địa phương đang đòi hỏi phải giải đáp cả về mặt lý luận và thực tiễn.

15


Nhìn chung, các công trình khảo sát, nghiên cứu về TĐC trong các dự án phát
triển ở vùng trọng điểm miền Trung, tuy đã được công bố khá nhiều nhưng góc độ,
chuyên ngành tiếp cận chưa thật toàn diện. Phần lớn các đề tài, dự án tập trung
nghiên cứu các vấn đề kinh tế, xã hội chủ yếu xuất phát từ góc độ kinh tế, xã hội,
còn nghiên cứu từ góc độ văn hóa học, hầu như chưa được chú trọng. Đặc biệt là
chưa có các nghiên cứu tiếp cận liên ngành về TĐC. Do đó, nghiên cứu và tiếp cận
từ góc độ dân tộc học/nhân học về biến đổi văn hóa làng người Kinh dựa trên tiếp
cận liên ngành sẽ góp phần làm sáng tỏ và bổ sung những vấn đề khoa học cần dựa
trên cách nhìn đa chiều về kinh tế - xã hội và văn hóa.
1.1.3.2. Nghiên cứu về văn hóa và biến đổi văn hóa ở các cộng đồng người
Kinh do tác động của tái định cư tại khu kinh tế Dung Quất
Nghiên cứu liên quan đến văn hóa người Kinh (Việt) tỉnh Quảng Ngãi, vùng
đất ven biển miền Trung khá phong phú, gồm những công trình thuộc các lĩnh vực
khác nhau như địa chí, làng nghề, văn học dân gian [1, 12, 31, 54, 62, 63, 64, 92,
114 v.v…]. Bên cạnh việc xác định thời điểm người Việt vào định cư ở vùng đất
này hơn 600 năm (tính từ thời điểm nhà Hồ thiết lập hai Châu Tư và Nghĩa vào năm
1402), các công trình này cũng đã giới thiệu tổng quan toàn bộ di sản văn học dân
gian của người Việt ở vùng ven biển Quảng Ngãi.
Một số công trình như cuốn Quảng Ngãi tỉnh chí của Nguyễn Bá Trác,
Nguyễn Đình Chi, Khiếu Lựu Kiều, in ở Nam Phong Tạp chí (1933); Dư địa chí
Quảng Ngãi của Nguyễn Đóa và Nguyễn Đạt Nhơn (1939) đều giới thiệu về tỉnh

Quảng Ngãi, trong đó các vấn đề về văn hóa được đề cập đến như những nét chấm
phá ban đầu; cuốn Quảng Ngãi Nhất Thống Chí của Lê Ngại, là tài liệu chép tay của
một gia tộc còn giữ được. Sau năm 1945, Phạm Trung Việt đã lần lượt cho xuất bản
các biên khảo: Non Nước Xứ Quảng, Khuôn mặt Quảng Ngãi - Thi Ca, Giai thoại
miền Ấn Trà, Non nước xứ Quảng. Các ấn phẩm này đã cung cấp nhận biết khá toàn
diện về Quảng Ngãi trên nhiều lĩnh vực lịch sử, địa lý, chính trị, xã hội, phong tục,
nhân vật, văn hóa ẩm thực, tri thức dân gian, ngữ văn dân gian. Vì thế, các công
trình này được giới khoa học đánh giá là có giá trị và có nhiều điểm mới so với các

16


công trình biên khảo về Quảng Ngãi trước đó. Cuốn Dân ca miền Nam Trung Bộ
của Trần Việt Ngữ, Trương Đình Quang, Hoàng Chương (1963) sưu tầm, giới thiệu
một số làn điệu dân ca miền Nam Trung Bộ, bao gồm các loại hò, vè, lý, hát sắc
bùa, bả trạo. Tuy nhiên, tài liệu chưa đề cập nguồn gốc, xuất xứ của các loại hình
dân ca này và không đi sâu nghiên cứu đặc trưng của từng loại hình.
Về văn học dân gian có Văn học dân gian Nghĩa Bình (Tập I, Ca dao) của Đào
Văn A, Cao Chư; 100 câu dân ca Quảng Ngãi (1993) của nhiều tác giả; Quảng
Ngãi giai thoại - truyền thuyết (1993) của Thế Kỷ, Hà Thanh; Văn học dân gian
vùng biển Quảng Ngãi (1996) của Thanh Thảo, Đăng Vũ. Các công trình này chủ
yếu là sưu tầm, ghi chép dưới dạng tư liệu để bảo lưu, chưa đi sâu phân tích, đánh
giá từng loại hình hay hiện tượng.
Về nghiên cứu, biên khảo có Quảng Ngãi - đất nước - con người - văn hóa
(1997) do Hồng Nhân chủ biên; Quảng Ngãi quê hương tôi (1993) của Thế Kỷ Hà Thanh; Nghề thủ công cổ truyền ở Quảng Ngãi, Lễ hội truyền thống ở Quảng
Ngãi của Nguyễn Ngọc Trạch…
Đặc biệt, liên quan trực tiếp đến đề tài có công trình chuyên khảo Văn hóa
làng và làng văn hóa ở Quảng Ngãi (2000) của Nguyễn Văn Mạnh [63]. Công trình
này đã khảo cứu, luận giải những vấn đề lý luận về văn hóa làng và làng văn hóa
nói chung, văn hóa làng người Việt ở Quảng Ngãi và đề xuất hướng xây dựng văn

hóa làng ở Quảng Ngãi.
Từ góc độ văn hóa dân gian làng biển, công trình Biển trong văn hóa, văn
nghệ dân gian Quảng Ngãi của Trần Văn An (2001) là tư liệu duy nhất đến thời
điểm hiện tại đặt vấn đề cần nhận diện về sự hiện tồn của biển trong đời sống của
dân Quảng Ngãi. Vì đây là cư dân đánh bắt xa bờ của vùng duyên hải Nam Trung
Bộ nên theo tác giả người dân nơi đây đã tích lũy kinh nghiệm để chung sống với
biển, vươn ra biển với mục đích khai thác nguồn lợi phục vụ cho sản xuất và coi đó
là các tri thức bản địa cần phải trân trọng, lưu giú, phát huy. Ngoài ra còn có báo
cáo kết quả một số đề tài nghiên cứu như Văn hóa dân gian của người Việt ở Quảng

17


Ngãi: giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị” (2001) do Nguyễn Đăng Vũ, Sở văn
hóa thể thao và du lịch Quảng Ngãi thực hiện.
Ngoài ra, còn có công trình “Cổ Luỹ trong luồng văn hoá biển Việt Nam” của
Cao Chư, công trình nghiên cứu một cách toàn diện và thấu đáo về làng Cổ Luỹ ở
cửa biển của Quảng Ngãi. Công trình nghiên cứu Cổ Luỹ trong nổi bật về chài lưới
và nghề buôn ven biển. Đây là tìm hiểu một phần văn hoá Quảng Ngãi và là một
mắt xích về văn hoá biển Việt Nam [22]. Đối với luận án công trình này giúp tác giả
có cái nhìn khái quát hơn về văn hoá làng vùng ven biển Quảng Ngãi và vùng ven
biển Nam Trung Bộ.
Liên quan tới TĐC ở KKT Dung Quất ở huyện Bình Sơn, phải kể đến nghiên
cứu đánh giá tiền khả thi từ góc nhìn dân tộc học về làng người Kinh của Bùi Xuân
Đính, Phạm Như Hồ (1996), Báo cáo: Điều tra khảo sát những vấn đề khảo cổ và
thực trạng kinh tế - xã hội, phong tục tập quán phục vụ di dân tại huyện Bình Sơn,
tỉnh Quảng Ngãi [31]. Đây là tài liệu bổ ích phục vụ di dân, xác định những vấn đề
xã hội và dân cư cần được xem xét, nghiên cứu trước khi tiến hành xây dựng KKT
Dung Quất. Báo cáo đã nêu được những nét khái quát về tình hình kinh tế - xã hội
và một số đặc điểm văn hóa của người dân tại các cộng đồng ở hai xã Bình Đông,

Bình Trị. Qua đó, nêu quan điểm của các tác giả đối với công tác TĐC ở địa
phương được nghiên cứu. Đây là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho luận án khi
nghiên cứu so sánh về vấn đề TĐC sau gần 20 năm được triển khai ở Bình Sơn.
Bên cạnh những nghiên cứu về văn hóa làng ở các điểm TĐC, còn phải kể đến
đề án quy hoạch các điểm di tích lịch sử văn hoá ở khu vực Đông Bình Sơn và
huyện Đảo Lý Sơn của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Ngãi (1996)
[64]. Đây là đề án liên quan tới việc bảo tồn các điểm di tích ở phía đông huyện
Bình Sơn và đảo Lý Sơn được UBND tỉnh Quảng Ngãi chấp thuận. Tầm quan
trọng, vị thế, vai trò của KKT Dung Quất trong đó có Bình Sơn được đề cập trong
tập “Dung Quất tiến vào Thế kỷ XXI” (2006) [65] của UBND tỉnh Quảng Ngãi.

18


×