Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Tổ chức và hoạt động thanh tra hành chính từ thực tiễn bộ tài nguyên và môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.61 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HẢI QUANG

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA
HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN BỘ TÀI NGUYÊN
VÀ MÔI TRƯỜNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HẢI QUANG

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA
HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN BỘ TÀI NGUYÊN
VÀ MÔI TRƯỜNG

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. PHẠM TUẤN KHẢI


HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng bản thân, được
thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý luận, khảo sát tình hình thực tiễn tổ chức
và hoạt động của thanh tra hành chính tại Bộ Tài nguyên và Môi trường, dưới
sự hướng dẫn khoa học của TS. Phạm Tuấn Khải. Các số liệu nêu trong luận
văn là trung thực và có nguồn gốc. Các kết quả nghiên cứu chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận văn

Trần Hải Quang


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTNMT :
KNTC
:

Bộ Tài nguyên và Môi trường
Khiếu nại, tố cáo

PCTN

:

Phòng, chống tham nhũng

QLHC


:

Quản lý hành chính

HCNN

:

Hành chính nhà nước


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TRA HÀNH CHÍNH...............8
1.1. Một số khái niệm cơ bản.............................................................................................. 8
1.2. Đặc điểm và vai trò của thanh tra hành chính................................................ 18
1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra hành chính..................22
1.4. Nguyên tắc hoạt động thanh tra hành chính.................................................... 24
1.5. Phân biệt giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành..........29
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
THANH TRA HÀNH CHÍNH TẠI BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI
TRƯỜNG........................................................................................................................................... 36
2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của thanh tra hành
chính Bộ Tài nguyên và Môi trường............................................................................. 36
2.2. Thực trạng về tổ chức của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường. 38
2.3. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của thanh tra hành chính tại
Bộ Tài nguyên Môi trường................................................................................................. 47
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC,
HOẠT ĐỘNG THANH TRA HÀNH CHÍNH TẠI THANH TRA BỘ

TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG.................................................................................. 60
3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra hành chính tại
Bộ Tài nguyên và Môi trường.......................................................................................... 60
3.2. Các nhóm giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra hành
chính tại Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường................................................ 63
3.3. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến vị trí,
vai trò và quyền hạn, nhiệm vụ của thanh tra hành chính................................. 70
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................... 75


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh tra có vai trò rất quan trọng trong quản lý nhà nước, là một giai
đoạn không thể thiếu trong công tác quản lý. Thanh tra được thực hiện với
mục đích nhằm xem xét, phát hiện sơ hở trong hoạt động quản lý nhà nước,
làm rõ sự việc và kịp thời ngăn chặn những hành vi phạm pháp luật của các cá
nhân, tổ chức. Qua đó rút ra kết luận, kiến nghị biện pháp khắc phục những sơ
hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động quản lý nhà nước.
Kể từ khi hệ thống pháp luật về thanh tra ra đời, các cơ quan thanh tra
đã góp phần quan trọng trong việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý các sai
phạm trong hoạt động quản lý đời sống kinh tế, xã hội; kiến nghị xử lý và đề
xuất nhiều biện pháp để chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước về đất đai, đầu
tư xây dựng cơ bản, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thực hiện chính sách pháp
luật về thuế, về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; thu hồi nhiều tài sản cho
nhà nước và tập thể, cá nhân, kiến nghị với cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ
sung cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm khắc phục những khiếm khuyết, sơ
hở trong công tác quản lý, góp phần phát triển kinh tế và tăng cường trật tự,
kỷ cương xã hội.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, thanh tra hành chính tại Bộ Tài nguyên
và Môi trường vẫn còn một số tồn tại, hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ, còn nhiều bất cập trong quá trình tiến hành thanh tra, đặc biệt là về
tổ chức và hoạt động thanh tra như: việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn
bản pháp luật về công tác thanh tra chưa đáp ứng yêu cầu; cơ cấu, tổ chức bộ
máy, công tác chỉ đạo, điều hành trong hoạt động thanh tra hành chính chưa
đạt hiệu quả cao; hoạt động thanh tra hành chính còn thiếu tính hệ thống, thiếu
chặt chẽ.

1


Bộ Tài nguyên và Môi trường là Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Các
cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra tại Bộ Tài nguyên và Môi
trường gồm: Thanh tra Bộ; Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành: Tổng cục Quản lý đất đai, Tổng cục Môi trường, Tổng cục Địa
chất và Khoáng sản Việt Nam. Được tổ chức và hoạt động theo những quy
định chung của pháp luật về thanh tra, đồng thời tuân theo những quy định
của Bộ Tài nguyên và Môi trường để đảm bảo phù hợp với đặc thù của lĩnh
vực tài nguyên môi trường. Thanh tra Bộ là cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra hành chính, nhằm mục đích nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước về lĩnh vực tài nguyên môi trường. Phạm vi quản lý nhà nước về
tài nguyên môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường mở rộng đến đâu thì
phạm vi hoạt động thanh tra hành chính phát triển đến đó, hay nói một cách
khác ở đâu có hoạt động quản lý nhà nước về công tác tài nguyên và môi
trường tất yếu phải có hoạt động thanh tra hành chính. Hoạt động thanh tra
hành chính của Bộ Tài nguyên và Môi trường với mục đích kiểm tra, giám sát
việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, kế hoạch, nhiệm vụ công tác,
chống tham nhũng, xác minh, kết luận giải quyết khiếu nại tố cáo, đã góp
phần tích cực vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngành tài nguyên

và môi trường trong sạch, vững mạnh, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về tài nguyên và môi trường. Thanh tra hành chính Bộ Tài nguyên
và Môi trường là cơ quan thực hiện chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng quản
lý nhà nước về công tác thanh tra, kể từ khi thành lập đến nay liên tục phát
triển, đội ngũ cán bộ thanh tra không ngừng được tăng lên về số lượng, nâng
cao về chất lượng, khẳng định được vai trò tham mưu cho lãnh đạo Bộ trong
các công tác thanh tra, tiếp công dân, xử lý đơn thư phản ánh, kiến nghị,
KNTC và PCTN góp phần tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong
sạch, vững mạnh, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Bộ Tài nguyên
và Môi trường. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động

2


của Thanh tra hành chính Bộ Tài nguyên và Môi trường vẫn còn những hạn
chế, vướng mắc cần làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn như: tổ chức bộ máy
chưa được quy định rõ ràng, thống nhất; quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn chưa tương xứng với sứ mệnh được giao và chậm được kiện toàn
trước các yêu cầu cải cách hành chính; quyền hạn thanh tra hành chính còn bị
hạn chế; sự bất cập trong việc phân định gữa thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành; hoạt động thanh tra hành chính còn thiếu tính hệ thống, thiếu
chặt chẽ và hiệu lực, hiệu quả chưa cao các kết luận, kiến nghị thanh tra chưa
được thực thi một cách nghiêm chỉnh, thiếu những biện pháp cứng rắn, chế tài
đủ mạnh. Năng lực của một số cán bộ thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu về
trình độ nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, bản
lĩnh chính trị, trình độ khoa học kỹ thuật phục vụ hoạt động thanh tra còn yếu
kém. Những điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả
công tác của Thanh tra hành chính Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Với những bất cập nêu trên, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu
về công tác thanh tra nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu về

thanh tra hành chính trong hệ thống thanh tra nhà nước và vẫn chưa có luận
giải một cách thỏa đáng các vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn về công tác
thanh tra hành chính. Vì vậy, học viên chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động
thanh tra hành chính từ thực tiễn Bộ Tài nguyên và Môi trường” làm đề tài
luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về công
tác thanh tra được quan tâm, nghiên cứu, ví dụ như:
- Đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về thanh tra trong giai đoạn hiện nay” là đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do Văn Tiến Mai làm chủ nhiệm năm 2016.
- Đề tài: “Một số giải pháp nhằm hạn chế trùng lắp, chồng chéo trong

hoạt động thanh tra” là đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, do Lê Đức

3


Trung, Phó trưởng phòng Quản lý Khoa học, Viện Khoa học Thanh tra làm
chủ nhiệm;
- Đề tài: “Các nguyên tắc trong hoạt động thanh tra - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” là đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do Nguyễn Thái
Hồng làm chủ nhiệm năm 2011;
- Đề tài: “Đổi mới công tác tổ chức cán bộ của ngành thanh tra” là đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của tác giả Nguyễn Khắc Hường làm chủ
nhiệm năm 2008;
- Luận văn thạc sỹ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính “Tổ chức và hoạt
động của Thanh tra Bộ Công an” của tác giả Nguyễn Thu Giang - Khóa 7;...

Như vậy, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về vấn
đề tổ chức và hoạt động thanh tra ở nước ta. Các công trình nghiên cứu, các

bài viết kể trên đã tập trung phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai
trò quan trọng của công tác thanh tra; những thành công, hạn chế trong việc
xây dựng pháp luật về thanh tra nói chung và những vấn đề đặt ra trong quá
trình thực hiện pháp luật về thanh tra ở từng Bộ, ngành, địa phương nói riêng.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của thanh tra hành chính
từ thực tiễn Bộ Tài nguyên và Môi trường thì chưa có công trình nào đề cập
đến. Chính vì vậy, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nghiên cứu sâu cả về lý luận
và thực tiễn tổ chức và hoạt động của thanh tra hành chính thuộc bộ trong việc
thanh tra nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả các mặt của thanh tra hành chính.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về tổ chức và hoạt động của thanh tra hành chính; đánh giá đúng thực trạng về
tổ chức và hoạt động của thanh tra hành chính tại Bộ Tài nguyên và Môi
trường, trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm đổi mới tổ chức

4


và hoạt động thanh tra hành chính, đồng thời đóng góp vào quá trình hoàn
thiện pháp luật về thanh tra hành chính ở các Bộ nói chung và tại Bộ Tài
nguyên và Môi trường nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về thanh tra hành chính; về đặc điểm vai
trò; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; nguyên tắc hoạt động của thanh tra hành
chính và sự khác biệt giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Nghiên cứu về cơ cấu tổ chức và thực tiễn hoạt động của thanh tra Bộ Tài
nguyên và Môi trường trong công tác thanh tra hành chính, tìm ra những ưu
điểm và hạn chế, từ đó kiến nghị phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác thanh tra hành chính trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật liên quan tổ
chức và hoạt động thanh tra hành chính; phân tích thực trạng cơ cấu tổ chức
và thực tiễn hoạt động của thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường trong công
tác thanh tra hành chính, đưa ra nhận xét về những ưu điểm, hạn chế, bất cập
so với quy định hiện hành trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phù hợp. Để
phát hiện được những vấn đề liên quan đến đối tượng nghiên cứu, đề tài tiến
hành tiếp cận các vấn đề sau:
- Những quy định của pháp luật liên quan đến thanh tra, tổ chức và hoạt
động của thanh tra hành chính.
- Tổ chức bộ máy, công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra
hành chính.
- Tổ chức và hoạt động của thanh tra hành chính, thực trạng cơ cấu tổ
chức và thực tiễn hoạt động của thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường trong
công tác thanh tra hành chính.

5


4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về phạm vi không gian: Tổ chức và hoạt động của thanh tra hành chính
là vấn đề rất rộng và phức tạp, có tầm bao quát lớn do đó luận văn chỉ tập
trung nghiên cứu vấn đề tổ chức và hoạt động của thanh tra hành chính từ
thực tiễn Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Về phạm vi thời gian: Ngày 15/11/2010, Quốc hội khóa XII đã thông
qua Luật Thanh tra năm 2010, có hiệu lực từ ngày 01/7/2011 là văn bản pháp
luật cao nhất của Nhà nước về lĩnh vực thanh tra. Thanh tra Tài nguyên và
Môi trường là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước nhằm
mục đích nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về lĩnh vực tài nguyên

môi trường. Trong phạm vi của luận văn, học viên chỉ nghiên cứu về tổ chức
và hoạt động của thanh tra hành chính từ thực tiễn Bộ Tài nguyên và Môi
trường từ tháng 7 năm 2011 đến nay nhằm đánh giá kết quả hoạt động, cũng
như hiệu quả của các quy định của pháp luật thanh tra kể từ khi Luật Thanh
tra năm 2010 có hiệu lực.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở những tư tưởng, quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Các phương pháp luận văn sử dụng để nghiên cứu gồm: phương pháp
phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, xã hội học pháp luật, khảo sát... để làm
sáng tỏ bản chất của vấn đề.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của
thanh tra hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước;
- Phân tích, đánh giá khách quan thực trạng tổ chức và hoạt động thanh
tra hành chính của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường; chỉ rõ những ưu
điểm, hạn chế, bất cập, nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm trong

6


công tác tổ chức và hoạt động thanh tra hành chính của Thanh tra Bộ Tài
nguyên và Môi trường;
- Đề xuất một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra hành
chính của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường nói riêng, cũng như nâng
cao năng lực, hiệu quả công tác thanh tra tài nguyên và môi trường nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
- Phần mở đầu.
- Nội dung của luận văn bao gồm 03 chương:

+ Chương 1: Lý luận chung về thanh tra hành chính.
+ Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động thanh tra hành chính
tại Bộ Tài nguyên và Môi trường.
+ Chương 3: Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức, hoạt động thanh
tra hành chính tại Bộ Tài nguyên và Môi trường.
- Kết luận.
- Danh mục tài liệu tham khảo.

7


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TRA HÀNH CHÍNH
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về thanh tra
Thanh tra xuất phát từ nguồn gốc latinh (Inspectare) có nghĩa là “nhìn
vào bên trong”, chỉ một sự xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một số
đối tượng nhất định.
Theo từ điển Pháp luật Anh - Việt động từ “inspect” có nghĩa là “thanh
tra” [40, tr.203] và được giải thích là hoạt động kiểm tra, kiểm soát đối với
đối tượng bị thanh tra; còn theo nghĩa của danh từ “inspectorate” trong từ
điển Anh - Việt “thanh tra” lại có nghĩ là một cơ quan, tổ chức, bộ phận
thanh tra ví dụ như ban thanh tra, cơ quan thanh tra,... [39, tr.496]
Từ điển Luật học (tiếng Đức) giải thích “Thanh tra là sự tác động của
chủ thể đến đối tượng đã và đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt
được mục đích nhất định - sự tác động có tính trực thuộc” [41, tr.253]
Theo Từ điển Tiếng việt “Thanh tra (người thuộc cơ quan có thẩm
quyền) kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí
nghiệp” [61, tr.838]; thanh tra thường đi kèm với một chủ thể nhất định:
“Người làm nhiệm vụ thanh tra”, “đoàn thanh tra” và “đặt trong phạm vi

quyền hành của một chủ thể nhất định”.
Từ những nghĩa như vậy, thanh tra với vai trò là danh từ chung có thể
được hiểu là một thực thể pháp lý, một thiết chế nhà nước về thanh tra để chỉ
cơ quan, tổ chức thanh tra hoặc bộ phận, lĩnh vực thanh tra nhất định. Đồng
thời, thanh tra với ý nghĩa như một động từ còn là khái niệm để chỉ hoạt động
kiểm tra, kiểm soát của cơ quan, tổ chức, người được giao nhiệm vụ, quyền
hạn nhằm: “xem xét và phát hiện, ngăn chặn với những gì trái với quy định”
[60, tr.192] của các tổ chức, cá nhân là đối tượng của thanh tra.

8


Quan niệm về thanh tra hiện nay cũng như trong lịch sử nước ta được
thể hiện qua mô hình các cơ quan nhà nước, các quy định của Hiến pháp và
pháp luật và được đề cập ở các góc độ khác nhau:
Thời kỳ phong kiến, chưa có khái niệm về thanh tra. Trong các triều đại
Lý, Trần, Lê có cơ quan Ngự sử đài chức năng gần giống như cơ quan Thanh
tra Chính phủ ngày nay và người đứng đầu cơ quan này là Quan ngự sử, có
nhiệm vụ giúp nhà vua trong việc theo dõi, xem xét các công việc hệ trọng
của triều đình. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công với sự ra đời của
nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, được ủy
nhiệm đi giám sát tất cả công việc và các nhân viên của Ủy ban nhân dân, các
cơ quan của Chính phủ. Từ đây thuật ngữ “thanh tra” xuất hiện, quyền thanh
tra được xác định và chính thức giao cho Chính phủ. [35]
Tuy nhiên, Hiến pháp Việt Nam năm 1946 vẫn chưa sử dụng thuật ngữ
“thanh tra”, hoạt động thanh tra, kiểm tra chưa được giao cho một cơ quan
chuyên trách nào mà được giao cho Ban thường vụ của Nghị viện. Đến Hiến
pháp năm 1959 trong một số quy định đã có nội dung về kiểm tra “Hội đồng
Chính phủ ra những thông tư, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các thông tư,

chỉ thị ấy” (Điều 76). Hiến pháp năm 1980 đã sử dụng thuật ngữ thanh tra,
kiểm tra rộng rãi hơn cho các cơ quan Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng và Ủy
ban nhân dân các cấp “...Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) tổ chức và
lãnh đạo công tác thanh tra và kiểm tra của Nhà nước” (Điều 107). Hiến
pháp năm 1992, ghi nhận nhiều hơn và mở rộng phù hợp phù hợp với phạm
vi, thẩm quyền quản lý của Chính phủ, thông qua các điều 112, 115, 116, 124.
Hiến pháp năm 2013, cụ thể tại Khoản 5 Điều 96 quy định Chính phủ có
nhiệm vụ “tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước”.

9


Văn bản pháp lý đầu tiên của hoạt động thanh tra là Pháp lệnh thanh tra
năm 1990. Pháp lệnh đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và khẳng định
thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước. Điều 1
Pháp lệnh thanh tra quy định: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ
quan quản lý nhà nước, là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ
luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa”
Theo quy định của Luật thanh tra năm 2004 đã được thông qua tại kỳ
họp thứ 5 Quốc hội khóa IX thì “Thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh
giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm
quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong luật này và các quy định khác
của pháp luật. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh
tra chuyên ngành”. [43, tr.1]
Luật Thanh tra năm 2010 thay thế cho cho Luật Thanh tra năm 2004
tiếp tục khẳng định vai trò to lớn của công tác thanh tra và có những quy định
mới nhằm nâng cao vị trí, vai trò của các tổ chức thanh tra, tăng cường hiệu
lực, hiệu quả của công tác thanh tra. Khoản 1 Điều 3, Luật Thanh tra năm

2010 quy định: “Thanh tra Nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của
cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính
và thanh tra chuyên ngành”.
Ở nước ta hiện nay, xuất hiện hai khái niệm: Thanh tra hành chính và
Thanh tra chuyên ngành
Thanh tra hành chính là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền đối với
cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao [44, tr.1]

10


Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ
thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó [44, tr.1]
Điểm lại những quy định của Hiến pháp, pháp luật và thực tiễn qua các
giai đoạn của lịch sử thanh tra của nước ta, nhận thấy thanh tra, kiểm tra là
một chức năng của quản lý nhà nước, là hoạt động không thể thiếu được trong
hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và quản lý hành chính nhà nước
nói riêng.
Từ những phân tích trên, thanh tra được hiểu như sau:
Thanh tra là việc xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự tủ tục do pháp
luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện
chính sách pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong quản lý hành chính nhà nước nhằm phòng ngừa, xử lý
các vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của các tổ chức, cá nhân, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý hành

chính nhà nước.
Bên cạnh đó, khi nói về thanh tra chúng ta thường gắn liền với các hoạt
động kiểm tra, giám sát. Trong cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nói chung
của toàn xã hội, thanh tra gắn với cơ quan quản lý nhà nước, đối tượng thanh
tra hẹp hơn và trực tiếp hơn so với đối tượng của từng chủ thể kiểm tra, giám
sát. Hoạt động thanh tra của các cơ quan thanh tra nhà nước hỗ trợ đắc lực
cho hoạt động kiểm tra, giám sát. Qua hoạt động thanh tra, các cơ quan thanh
tra nhà nước không những phát hiện các vi phạm để xử lý theo thẩm quyền
của mình, mà còn phục vụ cho hoạt động kiểm tra, giám sát nói chung của xã
hội. Ngược lại, hoạt động thanh tra của các cơ quan thanh tra nhà nước tuy là
hoạt động tự kiểm tra của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước nhưng cũng
luôn được tiếp nhận kết quả kiểm trá, giám sát từ các “kênh” khác để làm tốt

11


hơn công tác thanh tra của mình. Thanh tra, kiểm tra và giám sát tuy là những
khái niệm khác nhau nhưng lại chứa đựng một mối liên hệ qua lại, gắn bó.
1.1.2. Khái niệm về tổ chức của cơ quan thanh tra nhà nước
Khái niệm về tổ chức có nhiều cách hiểu khác nhau (có thể hiểu dưới
góc độ là: dùng để chỉ một cơ quan, đơn vị…; hoặc dưới góc độ là động từ để
chỉ công việc) tùy theo góc độ tiếp cận. Tuy nhiên, quan trọng và khó nhất là
việc thiết lập và duy trì hoạt động của một cơ cấu tổ chức để triển khai, thực
hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị đó. Cơ cấu tổ chức không phải là yếu tố
bất biến mà nó luôn được nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện để phù hợp với điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể.
Các cơ quan thanh tra nằm trong tổng thể hệ thống các cơ quan nhà
nước và cũng có đặc tính chung của cơ quan nhà nước đồng thời có đặc điểm
riêng của thanh tra là việc xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự tủ tục do pháp
luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện

chính sách pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong quản lý hành chính nhà nước nhằm phòng ngừa, xử lý các
vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức, cá nhân, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý hành chính nhà
nước. Để hoạt động của ngành Thanh tra được vận hành một cách khoa học,
ổn định, đạt hiệu quả cao thì các bộ phận, chức vụ trong các cơ quan thanh tra
phải liên kết với nhau để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Như vậy,
tổ chức trong cơ quan thanh tra nhà nước được hiểu như sau: tổ chức là việc
thiết lập và duy trì các bộ phận, chức vụ trong các cơ quan thanh tra và liên
kết các bộ phận, chức vụ này với nhau để thực hiện chức năng, nhiệm vụ về
thanh tra theo quy định của luật.
1.1.3. Khái niệm hoạt động quản lý hành chính nhà nước
QLHC nhà nước là một hình thức hoạt động của nhà nước được thực
hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung

12


là bảo đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của cơ quan quyền lực
nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và thường xuyên công
cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa-xã hội và hành chình-chính trị. Nói cách khác,
QLHC nhà nước là hoạt động chấp hành-điều hành của nhà nước [57, tr.14].
Tính chấp hành thể hiện ở mục đích của QLHC nhà nước là đảm bảo
thực hiện trên thực tế các văn bản pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà
nước. Mọi hoạt động QLHC nhà nước đều được tiến hành trên cơ sở pháp luật
và để thực hiện pháp luật [57, tr.14].
Tính chất điều hành của QLHC nhà nước thể hiện ở chỗ để đảm bảo
cho các văn bản pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện trên
thực tế, các chủ thể của QLHC nhà nước phải tiến hành hoạt động tổ chức và
chỉ đạo trực tiếp đối với các đối tượng quản lí thuộc quyền. Trong quá trình

điều hành, cơ quan hành chính nhà nước có quyền nhân danh nhà nước ban
hành ra các văn bản pháp luật để đặt ra các quy phạm pháp luật hay các mệnh
lệnh cụ thể bắt buộc các đối tượng quản lý có liên quan phải thực hiện. Các
chủ thể của QLHC nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước để tổ chức và điều
khiển hoạt động của các đối tượng quản lí, qua đó thể hiện một cách rõ nét
mối quan hệ “quyền lực-phục tùng” giữa chủ thể quản lý và các đối tượng
quản lí. Hoạt động điều hành là nội dung cơ bản của hoạt động chấp hành
quyền lực nhà nước, nó gắn với hoạt động chấp hành và cùng với hoạt động
chấp hành tạo thành hai mặt thống nhất của QLHC nhà nước [57, tr.14].
Hệ thống các cơ quan HCNN ở nước ta hiện nay:
- Chính phủ là cơ quan cao nhất trong hệ thống các cơ quan HCNN.
Chính phủ có nhiệm vụ quản lí mọi mặt của đời sống xã hội trong phạm vi cả
nước, thực hiện các chính sách đối nội, đối ngoại. Chức năng của Chính phủ
là: “…Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của
Quốc hội” (Điều 94 Hiến pháp năm 2013).

13


- Bộ, cơ quan ngang bộ: “Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của Chính
phủ thực hiện chức năng quản lí nhà nước về một hoặc một số ngành, lĩnh vực
và dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc” (Điều 39
Luật tổ chức Chính phủ năm 2015) [57, tr.210].
- Ủy ban nhân dân các cấp: Theo Hiến pháp năm 2013, nước ta có Ủy
ban nhân dân:
+ Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
+ Huyện, thành phố thuộc tỉnh, quận và thị xã;
+ Xã, phường, thị trấn.
Tương ứng với từng đơn vị hành chính - lãnh thổ, các cơ quan HCNN ở

địa phương bao gồm: Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
ủy ban nhân huyện, thành phố thuộc tỉnh, quận và thị xã; ủy ban nhân xã,
phường, thị trấn. Điều 114, Hiến pháp năm 2013 quy định: Ủy ban nhân dân ở
cấp chính quyền địa phương do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan
chấp hành của hội đồng nhân dân, cơ quan HCNN ở địa phương, chịu trách
nhiệm trước hội đồng nhân dân và cơ quan HCNN cấp trên; ủy ban nhân dân
tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, tổ chức thực hiện
nghị quyết của hội đồng nhân dân và thực hiện nhiệm vụ do cơ quan nhà nước
cấp trên giao [57, tr.211, 212].
Tất cả các cơ quan nhà nước đều tiến hành hoạt động QLHC nhà nước
nhưng hoạt động này chủ yếu do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện.
Hoạt động này phản ánh chức năng cơ bản của các cơ quan HCNN [57, tr.15].
Từ sự phân tích trên thì hoạt động quản lý hành chính nhà nước được
hiểu như sau: Hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi
pháp luật, sử dụng pháp luật để điều chỉnh các hành vi của công dân, tổ chức
trong xã hội do hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa
phương tiến hành. [28, tr.58, 60]

14


1.1.4. Khái niệm thanh tra hành chính
Theo quy định của Luật thanh tra năm 2004 đã được thông qua tại kỳ
họp thứ 5 Quốc hội khóa IX thì thanh tra hành chính là một bộ phận cấu thành
của Thanh tra nhà nước, thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra trong nội
bộ bộ máy nhà nước; là thanh tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan, đơn
vị, cá nhân cấp dưới (thuộc quyền quản lý trực tiếp); là thanh tra của chủ thể
quản lý này với chủ thể quản lý khác thuộc quyền quản lý trực tiếp. Khoản 2
Điều 4 Luật thanh tra năm 2004 quy định: “Thanh tra hành chính là hoạt
động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính đối với

việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân
thuộc quyền quản lý trực tiếp”. Thanh tra hành chính mang tính kiểm soát nội
bộ (được hiểu theo nghĩa rộng là nội bộ của bộ máy nhà nước hay nội bộ của
bộ máy các cơ quan nhà nước, thường là theo hệ thống). Nếu như mục đích
chung của thanh tra là “nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách,
pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp
khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân" (Điều 3 Luật Thanh tra năm
2004), thì mục đích cụ thể của hoạt động thanh tra hành chính là sự xem xét
lại toàn bộ hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động hành
chính của tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp, làm trong sạch bộ
máy, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật trong quản lý, điều hành.
Luật Thanh tra năm 2010 thay thế cho cho Luật Thanh tra năm 2004,
vai trò của thanh tra hành chính tiếp tục được khẳng định. Khoản 2 Điều 3,
Luật Thanh tra năm 2010 quy định: “Thanh tra hành chính là hoạt động
thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá
nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền

15


hạn được giao”. So với trước đây thì khái niệm thanh tra hành chính được đề
cập trong Luật Thanh tra năm 2010 có sự mở rộng về chủ thể tiến hành thanh
tra và đối tượng của thanh tra hành chính (Từ hoạt động thanh tra của cơ quan
quản lý nhà nước theo cấp hành chính thành hoạt động thanh tra của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền; từ cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý
trực tiếp thành cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc).
Như vậy, thuật ngữ thanh tra hành chính có thể được hiểu như sau:

Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao.
1.1.5. Hoạt động thanh tra hành chính
Hoạt động quản lý muốn đạt được hiệu quả tốt nhất, thì nhất thiết phải
tiến hành công tác thanh tra vì nó là một trong những chức năng hoạt động
quản lý. Quản lý hành chính đồng thời phải có thanh tra hành chính, quản lý
hành chính và thanh tra hành chính là một chứ không phải là hai, nếu không
có thanh tra hành chính thì không có quản lý hành chính tốt, hay nói một cách
khác quản lý hành chính sẽ mất đi một chức năng thiết yếu và không thể mang
lại hiệu quả nếu không có thanh tra hành chính. Thanh tra nói chung và thanh
tra hành chính nói riêng là sự xem xét để làm rõ những hiện tượng, những vụ
việc đúng, sai trong quá trình quản lý, trong những vụ việc, hành vi của người
thừa hành nhiệm vụ trong công tác quản lý, là một hoạt động không thể thiếu,
nhằm phản hồi nhu cầu thông tin của công tác quản lý, đồng thời uốn nắn kịp
thời các sai phạm và điều chỉnh chính sách, pháp luật chưa hợp lý, tránh dập
khuôn, máy móc, dẫn đến sự quản lý trì trệ, góp phần làm bộ máy trong sạch.
Hoạt động thanh tra hành chính là phương thức đảm bảo trật tự, kỷ
cương trong quản lý hành chính nhà nước, góp phần tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Thanh tra hành chính thực hiện việc xem xét, đánh giá lại các

16


hoạt động của các đối tượng bị quản lý và xem xét, giải quyết khiếu nại, tố
cáo đối với các quyết định hoặc hành vi hành chính của cán bộ, công chức nhà
nước trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, chức trách, nhiệm vụ được
giao. Việc phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi sai phạm của cá
nhân, cơ quan có trách nhiệm, của các cá nhân, tổ chức là đối tượng bị quản lý
góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương pháp luật trong hoạt động quản lý. Mặt

khác, việc tìm ra những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, phát hiện
những nội dung trong chủ trương, chính sách chưa phù hợp với yêu cầu thực
tế khách quan để từ đó có các biện pháp sửa đổi, bổ sung, khắc phục kịp thời.
Tuy nhiên, thanh tra hành chính không chỉ là việc phát hiện, tìm kiếm sai
phạm, sơ hở, yếu kém trong quản lý mà còn phải phát hiện tạo điều kiện cho
những nhân tố mới, cơ chế mới tích cực phát triển. Có như vậy thì hiệu quả
công tác thanh tra mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của thực tiễn, hiệu quả
công tác quản lý mới được nâng cao.
Theo Khoản 2 Điều 3, Luật Thanh tra năm 2010 thì thanh tra hành
chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Việc giải thích khái niệm về thanh tra hành
chính đã phản ánh được bản chất của hoạt động thanh tra này.
Từ sự phân tích trên, hoạt động thanh tra hành chính được hiểu như sau:
Thứ nhất, hoạt động thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra do các cơ
quan có thẩm quyền, bao gồm hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước (Chính
phủ; bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Ủy ban nhân dân các cấp);
cơ quan thanh tra nhà nước (Thanh tra Chính phủ; Thanh tra bộ, cơ quan ngang
bộ; Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Thanh tra sở; Thanh tra
huyện, quận thị xã thành phố thuộc tỉnh) tiến hành. [48, tr.61]

Thứ hai, đối tượng của thanh tra hành chính là các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trực thuộc. Chẳng hạn như bộ, cơ quan ngang bộ tiến hành hoạt động

17


thanh tra đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị chịu sự quản lý của bộ, cơ quan
ngang bộ; Ủy ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiến hành thanh
tra đối với các sơ, ngành cấp tỉnh v.v. [48, tr.62]

Thứ ba, nội dung của thanh tra hành chính nhằm xem xét, đánh giá việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của cơ quan,
tổ chức và cá nhân trực thuộc. [48, tr.62]
1.2. Đặc điểm và vai trò của thanh tra hành chính
1.2.1. Đặc điểm của thanh tra hành chính
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện
chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao. Ngoài các đặc điểm của thanh tra
nói chung như tính quyền lực, gắn liền với quản lý nhà nước; tính độc lập của
thanh tra, thanh tra hành chính còn có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra do các cơ quan có
thẩm quyền, bao gồm hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước (Chính phủ; bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Ủy ban nhân dân các cấp; cơ
quan thanh tra nhà nước (Thanh tra Chính phủ; Thanh tra bộ, cơ quan ngang
bộ; Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Thanh tra sở; Thanh tra
huyện, quận thị xã thành phố thuộc tỉnh) tiến hành. Vì vậy, “chủ thể có thẩm
quyền thanh tra hành chính là các cơ quan quản lý nhà nước hoặc cơ quan
thanh tra nhà nước”. [58, tr.70]
Thứ hai, tính thứ bậc, trực thuộc của các đối tượng bị thanh tra với chủ
thể có thẩm quyền thanh tra hành chính.
Đối tượng của thanh tra hành chính là các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trực thuộc. Chẳng hạn như bộ, cơ quan ngang bộ tiến hành hoạt động thanh
tra đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị chịu sự quản lý của bộ, cơ quan ngang
bộ; Ủy ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiến hành thanh tra đối

18


với các sơ, ngành cấp tỉnh v. v…Điều đó thể hiện tính thứ bậc, trực thuộc của
các đối tượng bị thanh tra với chủ thể có thẩm quyền thanh tra hành chính.

Thứ ba, xem xét, đánh giá lại các hoạt động của các cơ quan trong hệ
thống hành chính (kể cả thanh tra chuyên ngành khi người có thẩm quyền yêu
cầu). Phạm vi của hoạt động thanh tra hành chính là xem xét, đánh giá việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao của cơ quan,
tổ chức, cá nhân trực thuộc; việc xem xét, đánh giá này thể hiện quan hệ trong
chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, kiểm soát giữa cấp trên đối với cấp dưới, giữa cơ
quan có thẩm quyền với đối tượng trực thuộc chịu sự quản lý; mục đích là
nhằm xem xét, đánh giá trong tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức và cá
nhân có tuân thủ các quy định của pháp luật không; mặt khác, còn nhằm xem
xét, đánh giá về việc thực hiện các nhiệm vụ được giao mang tính kế hoạch,
chỉ đạo, điều hành giữa cơ quan cấp trên đối với cấp dưới có được thực hiện
đầy đủ, nghiêm túc, đúng đắn hay không. Ví dụ:
- Thủ tướng Chính phủ yêu cầu xem xét lại vụ việc của thanh tra
chuyên ngành (tăng giá điện, nước trong thời gian vừa qua)
- Bộ trưởng yêu cầu xem xét lại hoạt động hành chính của bộ, ngành.
Tương tự, chủ thể thanh tra hành chính trong bộ máy nhà nước có thể yêu cầu
thanh tra lại các hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực quản lý nhà
nước được giao (tương tự như giám đốc thẩm các bản án của tòa án).
1.2.2. Vai trò của thanh tra hành chính
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội, mang tính quyền lực nhà
nước, được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và
hành vi hoạt động của con người. Thực hiện chức năng quản lý, Nhà nước ban
hành nhiều quy định để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi của con
người, duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật để thực
hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Hiệu quả của việc thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước chỉ có ý nghĩa khi có các thiết chế

19



nhằm phát hiện và loại bỏ các lệch lạc có thể có của đối tượng quản lý; chấn
chỉnh lại các quyết định đã ban hành trước đây cho phù hợp thực tế và yêu
cầu từ phía nhà nước. Để làm được điều này, một thiết chế, công cụ không thể
thiếu của hoạt động quản lý đó chính là thanh tra hành chính. Thanh tra hành
chính có tác động tích cực đối với quản lý và góp phần nâng cao hiệu lực hiệu
quả của quản lý nhà nước. Vai trò của thanh tra hành chính không chỉ là hoạt
động kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch của nhà
nước, kịp thời phát hiện, kiến nghị xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi
vi phạm và đề ra các biện pháp giúp các đối tượng thanh tra khắc phục, sửa
chữa sai lầm, khuyết điểm, phát huy ưu điểm… mà còn là phương tiện để chủ
thể quản lý phát hiện những biểu hiện trì trệ, không phù hợp với thực tế khách
quan của cơ chế và phương pháp quản lý đã và đang cản trở các hoạt động
quản lý, từ đó đề xuất các biện pháp cải cách, hoàn thiện các hoạt động quản
lý nhà nước.
Từ những nội dung nêu trên, có thể thấy vai trò của thanh tra hành
chính được thể hiện qua các phương diện chủ yếu sau:
Một là, thanh tra hành chính có vai trò quan trọng trong việc giúp
người, cơ quan quản lý có thẩm quyền hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính
sách. Một trong những yêu cầu quan trọng nhất của việc xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là xây dựng hệ
thống pháp luật đồng bộ, rõ ràng, minh bạch, phù hợp với yêu cầu phát triển
khách quan của nền kinh tế và đảm bảo tính công bằng cho các chủ thể kinh
tế. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống pháp luật nước ta còn một số lĩnh vực còn
thiếu và chưa chặt chẽ, một số cơ chế chính sách không đi vào thực tế đã phát
sinh những sơ hở, dễ bị lợi dụng để trục lợi làm ảnh hưởng tiêu cực đến phát
triển của đất nước. Thông qua hoạt động thanh tra hành chính, những sai sót,
gian lận trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật được phát
hiện và khắc phục kịp thời; những lỗ hổng, sự bất hợp lý trong các chủ

20



×