Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Phân biệt hoạt động thanh tra hành chính và hoạt động thanh tra chuyên ngành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.16 KB, 7 trang )

Phân biệt hoạt động thanh tra hành chính và hoạt động thanh tra chuyên
ngành
Ở bất cứ một quốc gia nào bộ máy thanh tra cũng đóng một vai trò vô cùng quan
trọng trong việc xây dựng, tổ chức và quản lý nhà nước mà hoạt động thanh tra là
một bộ phận không thể thiếu trong bộ máy này. Nó có chức năng kiểm tra, xem xét,
đánh giá mức độ việc chấp hành chính sách pháp luật của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức. Thấy được vai trò và tầm quan trọng của hoạt động thanh tra, em xin lựa chọn
đề tài : “Phân biệt hoạt động thanh tra hành chính và hoạt động thanh tra chuyên
ngành, lấy ví dụ minh họa” để có cái nhìn rõ hơn về vấn đề này.
NỘI DUNG
I.Một số khái niệm
1.Hoạt động thanh tra
1.1.Khái niệm:
Theo quy định của Luật Thanh tra 2010 thì khái niệm hoạt động thanh tra có thể
hiểu là việc xem xét, đánh giá việc chấp hành chính sách pháp luật, thực hiện những
việc của các cơ quan, cá nhân, tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan quản
lý Nhà nước.
Điều 6 Luật Thanh tra 2010 quy định: “Hoạt động thanh tra do Đoàn thanh tra,
Thanh tra viên và người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành thực
hiện”
1.2.Đặc điểm:


Người trực tiếp tham gia hoạt động thanh tra phải đáp ứng được yêu cầu riêng về
chuyên môn nghiệp vụ, việc đáp ứng được chuyên môn nghiệp vụ ở đây có vai trò
vô cùng quan trọng bởi khi họ có chuyên môn về quản lý nhà nước hay về pháp luật
của lĩnh vực mà họ tham gia thanh tra thì mới có cơ sở để đánh giá một cách đúng
đắn cũng như tìm ra sự thật trong việc chấp hành chính sách pháp luật của cá nhân,
cơ quan, tổ chức bị thanh tra.
Nội dung thanh tra chính là xem xét – đánh giá việc thực hiện pháp luật đó là đúng
hay sai, là có thực hiện hay không thực hiện, là vi phạm hay không vi phạm, chủ thể


thanh tra phải có cái nhìn đúng đắn, đồng thời cũng phải thể hiện được quan điểm
của người thực hiện chức năng thanh tra.
Đối tượng thanh tra ở đây là các cơ quan, cá nhân, tổ chức thuộc thẩm quyền quản
lý của cơ quan quản lý nhà nước có thể là quản lý về mặt tổ chức hay quản lý theo
chuyên ngành.
Hoạt động thanh tra phải diễn ra theo thủ tục mà pháp luật đã quy định và phải tuân
thủ theo nguyên tắc của hoạt động thanh tra quy định tại Điều 7 Luật Thanh tra
2010
Hoạt động thanh tra được thực hiện theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên hoặc
thanh tra đột xuất.(Điều 37 Luật Thanh tra 2010)
Hoạt động thanh tra được chia làm hai loại đó là: Hoạt động Thanh tra hành chính
và Hoạt động Thanh tra chuyên ngành.
2.Hoạt động thanh tra hành chính:
Theo Khoản 2 Điều 3 Luật Thanh tra 2010 : “Thanh tra hành chính là hoạt động
thanh tra của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân


trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được
giao”
3.Hoạt động thanh tra chuyên ngành:
Theo Khoản 3 Điều 3 Luật Thanh tra 2010: “Thanh tra chuyên ngành là hoạt động
thanh tra của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về
chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó.”
II.Phân biệt hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành
1.Chủ thể:
1.1.Chủ thể tham gia hoạt động thanh tra hành chính bao gồm tất cả các cơ quan
thanh tra thực hiện như:thanh tra Chính phủ, thanh tra Bộ, thanh tra Tỉnh, thanh tra
Sở và thanh tra Huyện. Tuy vậy, không phải tất cả các cơ quan thanh tra trên đều có
thể tham gia bất kì một hoạt động thanh tra nào đó, mà mỗi cơ quan thanh tra lại có

thẩm quyền riêng của mình về việc ra quyết định thanh tra đối với các cá nhân, cơ
quan, tổ chức.
<>Thẩm quyền ra quyết định thanh tra
Tại Điều 43 Mục 2 Luật Thanh tra 2010 quy định về thẩm quyền ra quyết định
thanh tra hành chính như sau:
“1.Hoạt động thanh tra chỉ được thực hiện khi có quyết định thanh tra
2.Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn
thanh tra để thực hiện quyết định thanh tra. Khi xét thấy cần thiết, Thủ trưởng cơ
quan quản lý Nhà nước ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra…”


Có thể thấy, ở đây việc xác định người ra quyết định thanh tra là Thủ trưởng cơ
quan thanh tra nhà nước, còn Đoàn Thanh tra được thành lập để thực hiện quyết
định thanh tra. Đoàn thanh tra ở đây gồm có Trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên
và các thành viên khác. Nhìn chung ở Điều luật này chỉ xác định chức vụ của người
ra quyết định thanh tra chứ chưa phân rõ quyền hạn của các cơ quan thanh tra về
thẩm quyền riêng của mình đối với hoạt động thanh tra.Tuy nhiên,với Nghị định số
86/2011/NĐCP đã quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
thanh tra 2010 thể hiện một cách rõ ràng hơn về thẩm quyền ra quyết định thanh tra
hành chính tại các Điều 19, 20Mục 1 Chương II Nghị định về thẩm quyền ra quyết
định thanh tra hành chính theo kế hoạchvà ra quyết định thanh tra đột xuất.
1.2.Chủ thể tham gia hoạt động thanh tra chuyên ngành do cơ quan thanh tra trong
các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực thực hiện và cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành.
<> Thẩm quyền ra quyết định thanh tra chuyên ngành
Tại Điều 51 Luật Thanh tra 2010 quy định thẩm quyền ra quyết định ra quyết định
thanh tra chuyên ngành do Chánh thanh tra Bộ, Chánh thanh tra Sở, Thủ trưởng cơ
quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành. Sau khi ra quyết định
thanh tra sẽ thành lập Đoàn thanh tra để thực hiện quyết định thanh tra.
Đối với những vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cơ

quan, đơn vị, nhiều cấp, nhiều ngành thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
Giam đốc Sở ra quyết định thanh tra (Khoản 2 Điều 14 Mục 1 Nghị định
07/2012/NĐCP) Đồng thời, việc xác định thẩm quyền ra quyết định thanh tra
chuyên ngành đột xuất cũng được ghi nhận trong Điều 15 Nghị định này.
Như vậy, chủ thể của hoạt động thanh tra hành chính rộng hơn chủ thể của hoạt
động thanh tra chuyên ngành.


2.Đối tượng hoạt động
2.1.Hoạt động thanh tra hành chính
Đối tượng của hoạt động thanh tra hành chính là cá nhân, tổ chức, cơ quan có mối
quan hệ về tổ chức với cơ quan quản lý.
Đối tượng của hoạt động thanh tra hành chính phải là các cơ quan nhà nước và công
chức nhà nước. Hoạt động thanh tra hành chính không hướng vào các đối tượng là
các doanh nghiệp mà phải hướng vào việc xem xét, đánh giá việc thực hiện pháp
luật, nhiệm vụ cũng như hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Không nên cho
rằng, đối tượng thanh tra hành chính bao hàm cả các tổ chức, doanh nghiệp nên có
thể thông qua thanh tra các doanh nghiệp để đánh giá trách nhiệm quản lý của các
bộ, ngành, địa phương (phần lớn các cuộc thanh tra được gọi là "thanh tra kinh tếxã hội" đang được thực hiện theo quan niệm này). Nếu theo quan niệm này, việc
đánh giá trách nhiệm quản lý nhà nước trong quá trình thanh tra thường sẽ không
được coi là mục tiêu số một, mục tiêu xuyên suốt.
2.2.Hoạt động thanh tra chuyên ngành
Đối tượng của hoạt động thanh tra chuyên ngành là tất cả các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thực hiện hoạt động thuộc thẩm quyền quản lý ngành, lĩnh vực, chuyên
môn.
Như vậy, ta thấy đối tượng của hoạt động thanh tra hành chính chỉ là cá nhân, tổ
chức, cơ quan trực thuộc cơ quan quản lý. Còn đối tượng của hoạt động thanh tra
chuyên ngành là tất cả cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc sự điều chỉnh của pháp luật
chuyên ngành.
3.Phạm vi



3.1.Hoạt động thanh tra hành chính
Đánh giá toàn diện về đối tượng thanh tra hoặc có thể giới hạn một mặt hoạt động
của đối tượng thanh tra
3.2.Hoạt động thanh tra chuyên ngành
Luôn luôn là lĩnh vực ngành, chuyên môn
4.Nội dung hoạt động
5.Thời hạn thanh tra
5.1.Hoạt động thanh tra hành chính
Điều 45 Luật thanh tra 2010 quy định về thời hạn thanh tra hành chính như sau:
“1.Thời hạn thực hiện một cuộc thanh tra được quy định như sau:
a.Cuộc thanh tra do Thanh tra Chính phủ tiến hành không quá 60 ngày, trưởng hợp
phức tạp thì có thể kéo dài, nhưng không quá 90 ngày. Đối với cuộc thanh tra đặc
biệt phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều địa phương thì thời hạn thanh tra
có thể kéo dài, nhưng không quá 150 ngày;
b.Cuộc thanh tra do Thanh tra Tỉnh, Thanh tra Bộ tiến hành không quá 45 ngày,
trường hợp phức tạp thì có thể kéo dài nhưng không quá 70 ngày;
c.Cuộc thanh tra do Thanh tra huyện, Thanh tra Sở tiến hành không quá 30 ngày, ở
miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa đi lại khó khan thì thời hạn thanh tra
có thể kéo dài nhưng không quá 45 ngày


2.Thời hạn của cuộc thanh tra được tính từ ngày công bố quyết định thanh tra đến
ngày kết thúc việc thanh tra tại nơi được thanh tra
3.Việc kéo dài thời hạn thanh tra quy định tại khoản 1 Điều này do người ra quyết
định thanh tra quyết định”




×