Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Pháp luật về biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 69 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô khoa Luật trường Đại
học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh đã luôn tận tâm giúp đỡ trong suốt quá
trình em học tập tại trường. Và em cũng vô cùng biết ơn sự giúp đỡ thầm lặng của
các anh, chị Thư ký khoa đã luôn là cầu nối giữa sinh viên và khoa thêm thân thiết.
Những kiến thức và tình cảm em được học ở trường sẽ luôn là những ký ức đẹp và
là hành trang quý giá nhất để em vững bước ở tương lai.
Em cũng xin dành lời cảm ơn và lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Giảng viên
hướng dẫn ThS. ĐOÀN TRỌNG CHỈNH, trong suốt quá trình hướng dẫn Khóa
luận tốt nghiệp đã tận tình chỉ bảo, chia sẽ kinh nghiệm và giúp đỡ em hoàn thành
tốt Khóa luận tốt nghiệp. Những kiến thức quý báu này tài sản vô cùng lớn đối với
em trong suốt quá trình học tập trên giảng đường đại học. Chân thành cảm ơn thầy.
Đạt được những thành quả to lớn này, em cũng xin dành lời cảm ơn đến tất
cả người thân, bạn bè đã luôn là động lực và luôn dành sự tin tưởng ủng hộ đến em
từ trước đến nay.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện khóa luận, do chưa có những kinh
nghiệm thực tiễn nên không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự
góp ý của Giáo viên hướng dẫn và quý thầy cô để em có thể rút ra được những kinh
nghiệm và ngày càng hoàn thiện bản thân hơn.
Cuối lời, em xin kính chúc quý Thầy, Cô, gia đình và bạn bè luôn khỏe
mạnh và thành công trong công việc.
Trân trọng cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: NGUYỄN THỊ CẨM TIÊN,

MSSV: 1511270801

Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khoá luận tốt
nghiệp này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn


đầy đủ và theo đúng qui định);
Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường
và pháp luật.
Sinh viên

NGUYỄN THỊ CẨM TIÊN


DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH ẢNH
STT
01
02

Tên hình ảnh
Biểu nợ xấu được mua bởi VAMC
Tình hình xử lý nợ của VAMC từ năm 2015 đến 2017


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4

Tên
Bộ Luật Dân sự
Bộ Luật Hình sự
Ngân hàng Nhà nước

Hợp đồng tín dụng

Tên viết tắt
BLDS
BLHS
NHNN
HĐTD


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................4
5. Kết cấu khoá luận ...........................................................................................5
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TRONG HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG .................................................................................................................6
1.1 Sơ lược về Biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng ............................6
1.1.1 Lịch sử hình thành Hợp đồng tín dụng........................................................6
1.1.2 Lịch sử hình thành Biện pháp bảo đảm trong Hợp đồng tín dụng............10
1.2 Pháp luật về biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng .......................14
1.2.1 Pháp luật về Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong dân sự ...........................14
1.2.2 Pháp luật về cầm cố, thế chấp và bảo lãnh trong Hợp đồng tín dụng......25
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO TRONG HỢP ĐỒNG TÍN
DỤNG .......................................................................................................................35
2.1 Thực trạng của Biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng ..................35
2.1.1 Thực trạng áp dụng pháp luật về biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín
dụng ....................................................................................................................35

2.1.2 Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng tín dụng về áp dụng biện pháp bảo
đảm, xử lý tài sản đảm bảo.................................................................................41
2.2 Bất cập còn tồn tại trong thực hiện biện pháp bảo đảm và kiến nghị hòa
thiện pháp luật về bảo đảm .................................................................................47
2.2.1 Bất cập tồn tại trong pháp luật về Biện pháp bảo đảm trong Hợp đồng tín
dụng ....................................................................................................................47
2.2.2 Kiến nghị hoàn thiện .................................................................................52
KẾT LUẬN ..............................................................................................................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tín dụng là “đòn bẩy” của nền kinh tế. Tín dụng không chỉ ứng dụng riêng
cho tài chính doanh nghiệp mà đối với cá nhân, hộ kinh doanh nhỏ lẻ, tín dụng cũng
là một phần không thể thiếu.
Khi thực hiện khóa luận với đề tài liên quan đến HĐTD tác giả đã thực hiện
một cuộc khảo sát nhỏ về cái nhìn của một bộ phận sinh viên chuyên ngành kinh tế
về một vài vấn đề liên quan đến HĐTD. Thật bất ngờ là, hiểu biết về một vấn đề
nóng như hiện nay của sinh viên còn quá hạn hẹp không những thế nhiều kiến thức
cơ bản còn bị hiểu sai, hiểu nhầm.1
Bên cạnh đó, tính đến thời điểm này các đề tài về HĐTD tuy nhiều nhưng
còn bị bó buộc trong một khuôn khổ nhất định không thể phát huy được một cách
toàn diện góc nhìn từ khoa học đến thực tiễn của một vấn đề. Mặt khác, đề tài này
sẽ là một sự cập nhật những quy định mới của pháp luật, giúp người đọc có thể nhìn
nhận một cách rõ ràng nhất.
Gần đây, vấn đề tín dụng đen dần trở nên rất phức tạp. “Núp bóng” hoạt
động cho vay bằng tín chấp. Để tiếp cận với nguồn thì vốn vô cùng dễ dàng, nhưng
lãi nằm ở mức khá cao dần dần người đi vay không có khả năng trả nợ. Khi đó, các

tổ chức tín dụng đen sẽ sử dụng các phương thức đòi tiền vô cùng côn đồ, đăng ảnh
người đi vay lên mạng xã hội với nhiều lời lẽ xúc phạm danh dự nhân phẩm. Từ đó
gây mất trật tự an toàn xã hội và các vấn đề an toàn thông tin của người dân.
Ngày nay, cho vay không có bảo đảm chiếm tỷ lệ cao trong hoạt động cho
vay nói chung. Lợi bất cập hại, rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng rất
lớn. Muốn cân bằng giữa các hình thức cho vay, tác giả thiết nghĩ rằng chúng ta cần
hiểu rõ biện pháp bảo đảm bằng tài sản, từ đó khắc phục hoàn thiện những khó
khăn, thúc đẩy việc áp dụng biện pháp này nhiều hơn. Vừa không ảnh hưởng đến
lợi ích của các chủ thể, mà còn hoàn thiện cơ chế cho vay an toàn của các tổ chức
tín dụng.

1

Phụ lục 01 Phiếu khảo sát

1


Nhận thấy cần thiết phải đem đến một công trình nghiên cứu sâu về HĐTD
nói chung và biện pháp bảo đảm trong HĐTD nói riêng để làm rõ cũng như đem
đến cho người đọc một góc nhìn toàn diện về vấn đề này.
Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về Biện pháp bảo đảm trong hợp
đồng tín dụng” làm đề tài nghiên cứu và thực hiện khóa luật tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Cho đến thời điểm này đã có một số công trình, bài báo nghiên cứu về
HĐTD cũng như các biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng dưới các góc độ
pháp lý khác nhau, tiêu biểu như một số công trình bài báo như:
Đăng ký giao dịch bảo đảm và thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử
lý tài sản đảm bảo trong pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, của
Phùng Bá Đáng, năm 2011; Pháp luật hiện hành về đăng ký các giao dịch bảo

đảm trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, Luận văn thạc sĩ Luật học, của
Hoàng Thị Ngọc Phượng, năm 2009...Nên việc tiếp cận đề tài là vô cùng dễ dàng.
Tuy nhiên, các văn bản quy phạm về tín dụng có số lượng khá lớn và gia tăng theo
từng ngày, nên đòi hỏi phải luôn có sự cập nhật một cách liên tục.
Bên cạnh đó, hoạt động cho vay tín dụng của các tổ chức tín dụng được còn
điều chỉnh bởi các nghị định, thông tư. Ngân hàng nhà nước còn đưa ra nhiều văn
bản, chỉ thị như: Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 23/02/2016 của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân
hàng an toàn, hiệu quả năm 2016; Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý
rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; Chỉ thị số 05/CT-NHNN
ngày 15/7/2015 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về tăng cường kiểm soát rủi ro
trong hoạt động cấp tín dụng đối với các dự án BOT, BT giao thông. 2
Từ thực tế trên có thể cho thấy rằng hiện tại pháp luật Việt Nam có quá
nhiều quy định điều chỉnh hoạt động “vay – cho vay” của các tổ chức tín dụng. Lợi
bất cập hại, điều này khiến nguồn thông tin bị nhiễu, khó có thể có một cái nhìn
toàn diện, chính xác nhất. Xuất phát từ thực tiễn như vậy, tác giả chọn đề tài “Pháp
2

Tác giả Nguyễn Kiên Bích Tuyến, Tạp chí dân chủ và pháp luật, bài viết “Pháp luật Việt Nam về hoạt động
sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại”, Nguồn: />
2


luật về Biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng” làm đề tài nghiên cứu và thực
hiện khóa luật tốt nghiệp.
Với mục tiêu đem lại một góc nhìn khác một góc nhìn tổng quan, khóa luận
“Biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng” giúp người đọc tổng kết lại các kiến
thức tổng quan về pháp luật của hợp đồng tín dụng nói chung và các biện pháp
trong hợp đồng tín dụng nói riêng và các vấn đề thực tiễn của nó. Hy vọng khóa

luận này sẽ đem lại nguồn kiến thức bổ ích cho người đọc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
HĐTD hàm chứa nhiều nội dung quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong đời
sống. Tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm
bằng tài sản cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo quy định của pháp luật về
bảo đảm tiền vay và chịu trách nhiệm trước quyết định của mình.3
Trong nội hàm của khóa luận này, tác giả chỉ tập trung làm rõ bảo đảm tiền
vay bằng tài sản.
Đối với HĐTD, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng có ba biện pháp bảo đảm
thường được sử dụng đó là Cầm cố; Thế chấp và Bảo lãnh.
Tác giả sẽ phân tích tổng quát về các biện pháp bảo đảm trong HĐTD từ cái
nhìn lịch sử đến hiện tại, từ cái nhìn tổng quát đến cái nhìn pháp lý. Mặc khác, bài
viết dựa vào phương pháp liệt kê, đối chiếu và so sánh sẽ phân tích các biện pháp
bảo đảm gồm cầm cố, thế chấp và bảo lãnh.
Trong phần chung về biện pháp bảo đảm trong HĐTD, phạm vi nghiên cứu
là tổng hợp các quy định hiện hành của Quốc Hội, Chính Phủ, Ngân Hàng Nhà
Nước Việt Nam về HĐTD, về hoạt động cho vay của ngân hàng và về đăng ký các
biện pháp bảo đảm.
Nghiên cứu cụ thể về các biện pháp bảo đảm, tác giả chỉ nghiên cứu trong
phạm vi BLDS 2015. Bên cạnh đó sẽ kết hợp với một phần những quy định được
Chính phủ cũng như Ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành để làm rõ vấn về
nghiên cứu.

3

Giáo trình Luật Ngân hàng Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh, tr.332

3



Đặc biệt có thể kể đến quyết định 217/QĐ-NH1 năm 1996 về Quy chế thế
chấp, cầm cố tài sản và bảo lãnh vay vốn Ngân hàng do Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước ban hành. Trong nội dung khóa luận, tác giả sẽ sử dụng quyết định trên trong
phạm vi nhất định. Các quy định trên chỉ có giá trị tham khảo.
Bên cạnh đem đến cho bạn đọc những quy định hiện hành của pháp luật về
biện pháp bảo đảm trong HĐTD, tác giả sẽ kết hợp phân tích các vấn đề về thực
hiện biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng trên thực tiễn. Tranh chấp HĐTD
là dạng tranh chấp kinh doanh–thương mại khá phổ biến, chỉ đứng sau tranh chấp
về dân sự và tranh chấp về hôn nhân gia đình. Từ những trường hợp tranh chấp cụ
thể có liên quan đến biện pháp bảo đảm trong HĐTD có các kiến nghị hoàn thiện
pháp luật.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận tốt nghiệp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp với đối
tượng và nội dung nghiên cứu của đề tài trong điều kiện pháp luật Việt Nam hiện
nay, đó là: Phương pháp kế thừa; Phương pháp đối chiếu với văn bản pháp quy;
Phương pháp thống kê, chọn lọc; Phương pháp phân tích, so sánh; và một số
phương pháp kết hợp khác.
Thông qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam, có sự so
sánh, đối chiếu, chọn lọc một cách khoa học khóa luận tốt nghiệp hướng tới mục
đích nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ các quy định về vấn đề Biện pháp
bảo đảm trong HĐTD.
Trong chương 1 của khóa luận, tác giả sử dụng phương pháp liệt kê, chọn
lọc, so sánh là chủ yếu. Phương pháp liệt kê kết hợp chọn lọc giúp đem những quy
định của pháp luật vào bài viết một cách có hệ thống.
Khác với chương 1, chương 2 được tác giả kết hợp tất cả các phương pháp.
Với mong muốn đem khóa luận với một bố cục chặt chẽ, nên khi thực hiện chương
2 của khóa luận không thể tránh khỏi việc phải so sánh nội dụng giữa chương 1 và
chương 2 sao cho hợp lý, cân đối. Bên cạnh đó cần có sự kết hợp với phương pháp
đối chiếu, nắm bắt được sự khác biệt trong quy định của pháp luật và việc áp dụng
nó trên thực tế. Trên thực tế, có nhiều vấn đề cần đưa ra kiến nghị để hoàn thiện

pháp luật về biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng. Tuy vậy, cần phải liệt kê
4


một cách có chọn lọc các kiến nghị để bài viết nên cuối cùng là sự kết hợp giữa
phương pháp liệt kê và chọn lọc.
Để thực hiện được mục đích nêu trên thì trước hết khóa luận tốt nghiệp có
những mục tiêu cụ thể sau:
Một là, nghiên cứu các quy định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm
trong HĐTD, trong đó tập trung vào các quy định pháp luật đang hiện hành.
Hai là, phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng, thi hành pháp luật về các
biện pháp bảo đảm trong HĐTD trong các trường hợp cụ thể.
Ba là, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
các biện pháp bảo đảm trong HĐTD.
5. Kết cấu khoá luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, bố cục khóa luận tốt nghiệp được chia làm
hai chương:
Chương 1: Tổng quan về biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật và kiến nghị hoàn thiện pháp luật
về biện pháp đảm bảo trong hợp đồng tín dụng

5


Chương 1: TỔNG QUAN VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TRONG
HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1 Sơ lược về Biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng
1.1.1 Lịch sử hình thành Hợp đồng tín dụng
Việt Nam đang dần hội nhập với sự phát triển của thế giới. Năm 1986 tại
Đại hội Đảng lần thứ VI, đã đặt cột mốc quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam. Từ

đây, Việt Nam bước đầu mở cửa hợp tác về kinh tế, về khoa học kỹ thuật.4
Tại đại hội Đảng lần thứ X (2006) Đảng ta đã nhấn mạnh rằng “chủ động,
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực
khác”. Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào
tháng 01 năm 2007. Từ khi chính thức là thành viên của WTO đến nay, tiến trình
chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước ngày càng được đẩy mạnh,
đạt được nhiều kết quả trên nhiều lĩnh vực.
Kinh tế phát triển, hoạt động sản xuất hàng hóa thúc đẩy xã hội và các mối
quan hệ gắn liền với nó. Quan hệ tín dụng là một trong số đó, cần hiểu rằng, tổ chức
tín dụng là phạm trù ra đời gắn liền với sự vận động trong quá trình sản xuất và lưu
thông hàng hóa. Chính sản xuất hàng hóa đã kéo theo sự vận động nguồn vốn cho
việc mở rộng kinh doanh từ đó đặt nền tảng cho hoạt động tín dụng. Hoạt động tín
dụng, là một kết quả tất yếu của quan hệ hàng hóa tiền tệ. Vì thế, cùng với sự phát
triển của xã hội, của nền kinh tế đặc biệt là kinh tế thị trường mà theo hoạt động tín
dụng ngày càng phát triển một cách mạnh mẽ. Qua hoạt động tín dụng của mình,
các tổ chức tín dụng đã phải quyết được một hiện tượng cung – cầu, thừa – thiếu
vốn, tiền tệ một cách nhanh chóng, chuyên nghiệp bằng việc huy động nguồn tiền
nhàn rỗi để phân phối lại vốn dựa trên những nguyên tắc nhất định.5
Bài viết nhiều lần nhắc đến hai cụm từ “Ngân hàng” và cụm từ “tổ chức tín
dụng”. Tuy là hai khái niệm khác nhau, nhưng ngân hàng và tổ chức tín dụng có
tính chất khá tương đồng. Luật Các tổ chức tín dụng tại điều 3 khoản 1 và khoản 2
đã giải thích:
4

Tạp chí Luật học-Lê Thị Thu Thủy và Đỗ Minh Tuấn, “Giao dịch bảo đảm dưới khía cạnh so sánh Luật
học”, />5

Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Chủ biên: PGS.TS. Hoàng Thế Liên, Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm
2005, tập II, phần thứ ba: Nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 2010, tr. 72.


6


“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các
hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi
ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.”
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng...”
Như vậy, khi đề cập đến ngân hàng là đề cập đến một trong các hình thức
của tổ chức tín dụng mà loại hình này có thể thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng. Trong nội hàm bài viết này, tác giả không có sự phân biệt quá rõ ràng giữa hai
khái niệm này, mà tạm thời xem hai khái niệm này gần như tương đồng, có thể thay
thế cho nhau.
Hoạt động tín dụng ngân hàng vốn mang nhiều rủi ro nên cần có một công
cụ ghi nhận sự thỏa thuận của các bên về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên như: đối
tượng, thời gian, phương thức thực hiện hợp đồng. Vì thế hình thức của hợp đồng
tín dụng là phải được lập thành văn bản với các điều khoản thể hiện sự thỏa thuận
các yếu tố trên. Hợp đồng càng rõ ràng thì quyền, lợi ích chính đáng của các bên
càng được bảo vệ chặt chẽ.
Tín dụng ngân hàng là công cụ hỗ trợ đắc lực giúp cho các thành phần kinh
tế nói chung và kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng thực hiện quá trình tái sản xuất
mở rộng, ứng dụng khoa học kỹ thuật. Ngay từ ban đầu khi xuất hiện, HĐTD đã
mang những ý nghĩa đặc biệt như vậy.
Khái niệm hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng được thể hiện trong Bộ Luật Dân sự 2015 dưới dạng
Hợp đồng vay tài sản. Điều 463, BLDS 2015 đã định nghĩa hợp đồng vay tài sản
như sau:
“Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay
giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài
sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận

hoặc pháp luật có quy định.”
Khái niệm này vẫn còn quá chung. Tài sản trong khái niệm này là một
phạm trù rất rộng nên nhìn chung định nghĩa này chỉ thể hiện được một phần chứ
7


không thể hiện được bản chất của một hợp đồng tín dụng ngay cả về mặt lý thuyết
lẫn trên thực tế.
Một trong các nghiệp vụ đóng vai trò quan trọng đem lại nguồn lợi nhuận to
lớn chiếm trên 80% của các ngân hàng đó là Nghiệp vụ Cấp tín dụng và cụ thể là
hoạt động cho vay. Đối tượng của hợp đồng tín dụng khác với hợp đồng vay tài sản.
Nếu đối tượng của hợp đồng vay tài sản là tài sản nói chung thì đối tượng của một
hợp đồng tín dụng là một khoản tiền và chỉ có thể là tiền. Luật Các tổ chức tín dụng
và các văn bản hướng dẫn của nó đã cụ thể hóa khi đưa ra một khái niệm chung
nhất về hoạt động cho vay: Theo quy định tại khoản 16 điều 3 Luật Các tổ chức tín
dụng 2010:6
“Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết
giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một
thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.”
Từ định nghĩa khác nhau dẫn đến hậu quả tất yếu là quyền và nghĩa vụ của
các bên là khác nhau. Cách thức thực hiện hợp đồng cũng khác nhau. Nếu như
BLDS 2015 là sự thể hiện mạnh mẽ của phương thức bình đẳng thỏa thuận, sự thỏa
thuận của các bên là yếu tố chính và quan trọng nhất thì trong Hợp đồng tín dụng,
nguồn chính cho các quan hệ hợp đồng tín dụng là Luật Các tổ chức tín dụng và
Quy chế cho vay do Ngân hàng nhà nước ban hành.
Hiện tại, chưa có một khái niệm nào thực sự phản ảnh chính xác về hợp
đồng tín dụng. Thực tế cho thấy rằng:
HĐTD về bản chất là hợp đồng cho vay, theo đó ngân hàng (bên cho vay)
giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời
hạn nhất định, theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Hay nói

đúng hơn:
“Hợp đồng tín dụng là thỏa thuận bằng văn bản giữa ngân hàng (bên cho
vay) và tổ chức cá nhân có đủ điều kiện do luật định (bên đi vay). Theo đó, các bên
thỏa thuận việc tổ chức tín dụng (bên cho vay) sẽ cho bên vay ứng trước một khoản
tiền trong một thời gian nhất định và với điều kiện bên vay sẽ hoàn trả cả gốc và lãi.
Trong HĐTD thường phải có bảo đảm.”
6

8


Đặc điểm của hợp đồng tín dụng
HĐTD mang đặc điểm chung của một hợp đồng với tính chất là một văn
bản ghi nhận sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, HĐTD cũng mang đậm bản sắc
riêng. Bản sắc riêng ấy thể hiện qua những đặc điểm sau:
Một đặc điểm khá nổi bật và đặc trưng của HĐTD đó là một bên của hợp
đồng luôn là tổ chức tín dụng. Nếu không có ít nhất một bên là tổ chức tín dụng thì
không thể khẳng định được đó có chính xác là HĐTD hay không.
Đặc điểm thứ hai là đặc điểm giúp phân biệt với hợp đồng vay tài sản thuộc
phạm trù của BLDS 2015 đó là đối tượng của hợp đồng phải là tiền tệ. Tiền là một
đối tượng cụ thể và duy nhất, còn tài sản là một phạm trù rộng mà muốn hiểu nó cần
phải có một công trình nghiên cứu. Có thể nói rằng, HĐTD đã cụ thể hóa và đậm
chất chuyên ngành hơn rất nhiều so với Hợp đồng vay tài sản.7
Đặc điểm thứ ba là HĐTD luôn có quy định về lãi suất. Đây chính là đặc
điểm thoạt nhìn khá bình thường nhưng theo tác giả nó thể hiện rõ nhất khái niệm
của một HĐTD. Như chúng ta đã biết, cho vay là nghiệp vụ quan trọng nhất và
cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn nhất cho các tổ chức tín dụng.
Mặc khác, cho vay tín dụng là hoạt động trong khoảng thời gian nên không
thể tránh khỏi việc đồng tiền bị mất giá so với ban đầu. Lãi thể hiện cho khoản lợi
mà tổ chức tín dụng có được, là một bù đắp cho sự trượt giá của đồng tiền. Vì vậy

mà lãi chính là một nguyên tắc, một đặc điểm thể hiện rõ ràng nhất bản chất của
một hợp đồng tín dụng.
Đặc điểm thứ tư của Hợp đồng tín dụng là nó có thời hạn và phải được hoàn
trả. “Vay và cho vay” là hoạt động tất yếu của bất cứ một ngân hàng nào. Tuy
nhiên, đây là một quá trình tuy tuần hoàn nhưng không phải là vô hạn, Ngân hàng
sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân để sử dụng cho hoạt động cho cá nhân,
tổ chức khác vay. Cần phải biết rằng, nguồn vốn nhàn rỗi này được huy động một
cách có thời hạn và ngân hàng không biết khi nào khách hàng có nhu cầu lấy lại số
tiền ấy dù có thể kiểm soát nhưng không phải là kiểm soát tuyệt đối. Từ đó mà, việc

7

Tất cả các giao dịch dù theo hình thức nào, xác lập lợi ích bảo đảm trên động sản và vật gắn liền với bất động sản
(§9.109(a) The Uniform Commerce Code (Bộ Luật Thương mại thống nhất ) (UCC) (bản tiếng Anh)).

9


cho vay cũng phải là một quá trình với thời hạn cụ thể. Có như vậy, ngân hàng mới
đảm bảo được khả năng thanh toán của mình cho các khách hàng.8
“Phải được hoàn trả” là một đặc điểm đặc biệt, đặc điểm này là một nguyên
nhân dẫn đến dự xuất hiện tất yếu của một bộ phận không thể tách rời của Hợp
đồng tín dụng đó chính là “Biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng” hay “Bảo
đảm tiền vay”.
1.1.2 Lịch sử hình thành Biện pháp bảo đảm trong Hợp đồng tín dụng
Các biện pháp bảo đảm là một chế định đã tồn tại từ thời xa xưa trong lịch
sử nhân loại. Cho đến ngày nay, biện pháp bảo đảm đã được quy định trong hầu hết
pháp luật của nhiều nước trên thế giới. Chế định các biện pháp bảo đảm trong pháp
luật Việt Nam kế thừa những giá trị của pháp luật thời kỳ phong kiến và pháp luật
của Pháp. Vì vậy, chế định về các biện pháp bảo đảm của Việt Nam tương đồng với

chế định về các biện pháp bảo đảm trong pháp luật của Pháp và một số nước trong
hệ thống pháp luật dân sự. Tuy nhiên, ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của các
giao dịch thương mại quốc tế, chế định về các biện pháp bảo đảm đã được quốc tế
hóa và chịu không ít bởi những tư tưởng của pháp luật Anh - Mỹ. 9
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng các quan hệ về Dân sự - Kinh
doanh thương mại đều là những hình thái đặc biệt, bởi nó đa dạng phong phú. Và
đối tượng của Hợp đồng tín dụng cũng là đối tượng đặc biệt – Tiền tệ, nên lại càng
có nhiều vấn đề đáng lo ngại hơn. Để bảo đảm cho khả năng trả nợ khi đến hạn của
khách hàng, ngân hàng cần đưa ra một biện pháp mà theo đó, quyền được thanh
toán của ngân hàng được đảm bảo. Biện pháp bảo đảm là đối tượng thuộc phạm vi
quyền hạn của Ngân hàng và người đi vay có nghĩa vụ thực hiện nếu được yêu cầu.
Các biện pháp đó được pháp luật nhìn nhận dưới tên “biện pháp bảo đảm”
hay “bảo đảm tiền vay” sau đây sẽ gọi chung là Biện pháp bảo đảm. Nếu như năm
1989 bắt đầu sự kiện hệ thống các Ngân hàng của Việt Nam chuyển sang mô hình
hai cấp thì các biện pháp bảo đảm cũng được áp dụng kèm theo đó. Tuy nhiên, các
biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng lần đầu được pháp luật ghi nhận vào
8

Tạp chí tài chính, Trần Thế Hệ, “Pháp luật về biện pháp bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại”, />9
Tác giả Nguyễn Kiên Bích Tuyến, Tạp chí dân chủ và pháp luật, bài viết “Pháp luật Việt Nam về hoạt động
sử dụng vốn của Ngân hàng thương mại”, Nguồn: />
10


năm 1997, từ thời điểm đó đến nay biện pháp bảo đảm dần được củng cố và phát
triển trở thành một bộ phận không thể thiếu trong các giao dịch về dân sự và đặc
biệt là trong hợp đồng tín dụng.
Hoàn trả tín dụng là điều kiện quan trọng nhất trong việc thực hiện mục tiêu
kinh doanh của tổ chức tín dụng, tuy nhiên lợi nhuận càng cao lại ẩn chứa rủi ro

càng nhiều. Đặc trưng của các tổ chức tín dụng là hoạt động “đi vay để cho vay”,
trong quá trình vận hành đó, rủi ro tín dụng là khó tránh khỏi.
Trong hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng, biện pháp bảo đảm tiền vay
bằng tài sản đóng vai trò rất quan trọng, bởi vì trong cơ chế thị trường sẽ tất yếu xảy
ra hiện tượng có một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, ngược lại có một số
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.10
Vì vậy trong quá trình hoạt động cụ thể là trong nghiệp vụ cho vay, cấp tín
dụng. Để hạn chế rủi ro các ngân hàng luôn tạo ra cho mình cơ sở bảo đảm cho việc
thu hồi nợ khi khách hàng không tự nguyện trả nợ hoặc không còn khả năng trả nợ
khi đến thời hạn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Khái niệm biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng
“Bảo đảm” có nghĩa là cam đoan chịu trách nhiệm về một việc gì đó. Theo
từ điển Thuật ngữ Tài chính – Tín dụng của Viện khoa học tài chính “Bảo đảm tín
dụng” (Credit warrant) là cơ sở mà dựa vào đó người cho vay có thể thu hồi số tiền
đã cho vay trong trường hợp người vay không có khả năng trả nợ.11
Biện pháp bảo đảm trong Hợp đồng vay là việc bên vay hoặc bên thứ ba, sử
dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo cho khả năng thanh toán khoản vay
đối với bên cho vay. Biện pháp bảo đảm cần phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm
quyền.
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, hoạt động cho vay luôn đặt trong một
hành lang pháp lý vô cùng chặt chẽ nhằm hạn chế đến mức tối đa những rủi ro có
thể xảy ra. Chẳng hạn, theo pháp luật Nhật Bản thì mọi quan hệ vay nợ chỉ có thể
phát sinh trên cơ sở bảo đảm bằng tài sản. Hay pháp luật của Cộng Hòa Pháp, ngoài
việc quy định các biện pháp bảo đảm trong hợp đồng, nhà lập pháp còn quy định cả
1010
11

Theo Giáo trình Luật Ngân hàng Đại học Luật Thành Phố Hô Chí Minh, tr.334
Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin


11


các biện pháp bảo đảm tài sản như kê biên, niêm phong tài sản hay phong tỏa tài
khoản của con nợ ở ngân hàng.12
Ở Việt Nam, pháp luật về biện pháp bảo đảm đang ở trong giai đoạn đặt
nền móng cho sự hoàn thiện. Đối với hoạt động cho vay của ngân hàng, biện pháp
bảo đảm phải tuân thủ những quy định tại khoản 1 Điều 94 Luật Các tổ chức tín
dụng năm 2010:
“Tổ chức tín dụng phải yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh
phương án sử dụng vốn khả thi, khả năng tài chính của mình, mục đích sử dụng vốn
hợp pháp, biện pháp bảo đảm tiền vay trước khi quyết định cấp tín dụng.”
Từ đó, có thể nhận thấy biện pháp bảo đảm mang lại ý nghĩa đặc biệt cho
hợp đồng tín dụng.
Ý nghĩa của biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng cần có bảo đảm bởi những lý do sau:
Thứ nhất, nhìn từ góc độ của bên cho vay cụ thể là ngân hàng. Khi cho vay
tín dụng, cần có sự bảo đảm rằng khách hàng có đủ khả năng thanh toán khoản vay
của họ khi đến hạn, ngân hàng cần bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình thông qua
việc xác lập các giao dịch bảo đảm.
Có thể nói giao dịch bảo đảm chỉ là một cam kết cho khả năng thanh toán
của khách hàng, đây không phải là biện pháp “trao đổi” tài sản khi mà bên vay
không có khả năng thanh toán thì ngân hàng trực tiếp nhận tài sản bảo đảm. Quy
trình xử lý tài sản đảm bảo thực chất là vô cùng nghiêm ngặt, tuân thủ tuyệt đối quy
định của pháp luật. Nên thông thường các ngân hàng, chỉ muốn đảm bảo việc khách
hàng có thể thanh toán cho khoản vay của họ trong trường hợp thật cần thiết mới xử
lý tài sản đảm bảo. Vậy, Biện pháp bảo đảm giúp bảo vệ lợi ích của các bên trong
quan hệ tín dụng.13
Thứ hai, nhìn từ góc độ của bên vay. Cũng tương tự như bên cho vay, bên
vay cũng không mong muốn mất tài sản đảm bảo nên sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh

12

Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật ngân hàng, NXB Công An Nhân Dân, tr.89
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Nguyễn Kiên Bích Tuyền, “Pháp luật về hoạt động sử dụng vốn của Ngân
hàng thương mại thông qua hoạt động cấp tín dụng”, />13

12


toán nợ cho bên cho vay để tránh việc tài sản đem đi bảo đảm bị xử lý theo quy định
của pháp luật. Ngoài ra, có thể nhận thấy một điều vô cùng rõ ràng là khi có bảo
đảm khả năng được tổ chức tín dụng cho vay sẽ cao hơn, tạo được sự tin tưởng thì
việc vay vốn sẽ dễ dàng hơn. Vậy, Biện pháp bảo đảm giúp nâng cao trách nhiệm
của bên đi vay trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
Có những ý kiến cho rằng, việc bảo đảm không có lợi cho bên vay. Ý kiến
này hoàn toàn không chính xác. Xuất phát từ những quan điểm tác giả vừa nêu trên
đây, Biện pháp bảo đảm mang lại lợi ích cho cả hai bên và là một cơ sở pháp lý
nhằm thu hồi các khoản nợ cho ngân hàng. Việc xử lý tài sản là hậu quả cả hai bên
không mong muốn. Mặt, khác trong hợp đồng tín dụng, bên cho vay là bên có rủi ro
nhiều hơn nên việc pháp luật Pháp luật đặt ra vấn đề Bảo đảm đã phải cân bằng lợi
ích của đôi bên đồng thời cũng cần phải đảm bảo quyền lợi ích chính đáng cho bên
cho vay.
Thông thường, trong các hợp đồng tín dụng thường có điều khoản về bảo
đảm cũng như tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, các bên có thể thành lập thêm 01 hợp
đồng bảo đảm riêng biệt. Hợp đồng bảo đảm quy định quyền và nghĩa vụ của các
bên, mô tả tài sản đảm bảo, quy định phương thức xử lý tài sản đảm bảo. Nếu hợp
đồng bảo đảm vô hiệu cũng không ảnh hưởng đến hợp đồng tín dụng, hậu quả pháp
lý nghiêm trọng nhất là món nợ tín dụng trở thành nợ không có bảo đảm.14

14


Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Hồ Quang Huy, “Các biện pháp bảo đảm dân sự trong Bộ Luật dân sự
2005”, />
13


1.2 Pháp luật về biện pháp bảo đảm trong hợp đồng tín dụng
1.2.1 Pháp luật về Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong dân sự
Phạm vi bảo đảm
Dù là biện pháp bảo đảm nào, chúng ta đều nhận thấy một điểm chung đó là
chắc chắn có sự xuất hiện của một hoặc nhiều tài sản và được pháp luật gọi với tên
là “tài sản bảo đảm”. Một nội dung vô cùng quan trọng khi tìm hiểu về Biện pháp
bảo đảm đó chính là phạm vi bảo đảm.
Thứ nhất, trong một hợp đồng tín dụng có thể phát sinh nhiều nghĩa vụ như
trả nợ gốc, trả lãi và đặc biệt là nghĩa vụ trả gốc từng phần, nghĩa vụ khi đáo hạn
hợp đồng tín dụng. Trong trường hợp này, nếu chúng ta không xác định phạm vi
bảo đảm sẽ rất khó khăn.
Thứ hai, có những nghĩa vụ không phát sinh ở một thời điểm nhất định mà
các bên có thể kiểm soát được, nhất là nghĩa vụ trong tương lai. Vì thế mà, để đảm
bảo cho quyền và lợi ích của tất cả các bên. Nếu nằm trong khả năng, các bên nên
có một sự xác định phạm vi bảo đảm ngay từ đầu.
Phạm vi bảo đảm là bộ phận quan trọng của biện pháp bảo đảm, đây vẫn là
yếu tố còn gây tranh cãi. Bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của các
bên.
Phạm vi bảo đảm là những nghĩa vụ mà bên bảo đảm phải dùng tài sản bảo
đảm, để thanh toán khi bên bảo đảm không có khả năng thanh toán hoặc khi tài sản
đảm bảo bị đem ra xử lý theo quy định của pháp luật. Phạm vi bảo đảm bao gồm:
một phần hoặc toàn bộ.
Đối với nghĩa vụ được bảo đảm toàn bộ. Nghĩa vụ đó bao gồm: trả nợ gốc,
trả lãi, trả lãi trên số tiền chậm trả tương ứng thời gian chậm trả, tiền phạt và cả

nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
Nợ gốc là nghĩa vụ tuyệt đối của bên bảo đảm. Các nghĩa vụ về lãi, phạt có
thể thương lượng một mức phù hợp hoặc có thể miễn giảm. Nhưng thông thường
nghĩa vụ đối với nợ gốc là không thể thay đổi.

14


Trả lãi là nghĩa vụ được xác định ngay từ ban đầu của các bên và được đề
cập trong hợp đồng vay. Nghĩa vụ trả lãi tuy do các bên thỏa thuận, nhưng nó vẫn
luôn có những hạn chế nhất định. Vấn đề về lãi từ năm 2015 đến nay bị hạn chế hơn
rất nhiều so với trước đây. Tại điều 468, Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định như sau:
“Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận
không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay.”
Việc hạn chế lãi suất như trên là biện pháp bảo vệ quyền lợi cho bên vay.
Bên vay thường chấp nhận trả lãi cao để đáp ứng cho nhu cầu hiện tại của mình.
Nếu không quy định mức trần sẽ không kiểm soát được mức lãi mà bên cho vay đặt
ra. Điều này có thể gây mất cân đối, ổn định cho thị trường tiền tệ. Hậu quả khó mà
kiểm soát được, bởi, hiệu ứng trên thị trường này là hiệu ứng domino, sự sụp đổ
một cách có hệ thống của nó khó mà kiểm soát hay đẩy lùi.
Nghĩa vụ trả lãi trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả là
một quy định khá mới và đặc thù của các hợp đồng vay. Pháp luật ghi nhận một
mức cụ thể và có mức chế tài khá cao khi con số này lên đến 150% lãi suất vay theo
hợp đồng.
Tiền phạt là một yếu tố khá đặc biệt. Hợp đồng tín dụng bản thân nó là hợp
đồng kinh doanh thương mại, bởi có một chủ thể là Ngân hàng, nhưng hợp đồng tín
dụng không hoàn toàn bị điều chỉnh bởi Luật Thương mại 2005 và BLDS 2015.
Tiền phạt là một chế tài đặc biệt của hợp đồng kinh doanh thương mại, nó đã được
đưa vào hợp đồng vay và có thể sẽ là xu hướng mới cho các hợp đồng tín dụng
trong tương lai.

Khái niệm tiền phạt được quy tại điều 300 và điều 301 Luật Thương mại
2005 lần lượt như sau:
“Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản
tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận.
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với
nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật
này.”
15


Phạt vi phạm là một điều khoản trong hợp đồng, có giá trị ràng buộc với các
bên. Và mức phạt cũng là mức nhất định theo quy định của pháp luật. Khác với chế
tài bồi thường thiệt hại, thiệt hại ở mức nào thì bên bị thiệt hại sẽ được bồi thường
đến mức đó. Nhưng phạt vi phạm phải là số phần trăm cụ thể theo quy định của
pháp luật và con số đó hiện tại là 8%.
Nghĩa vụ Bồi thường thiệt hại, bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi
thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Giá
trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm
phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ
được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.15
Có nghĩa là, nếu hành vi vi phạm nghĩa vụ trả tiền của bên vay gây ra tổn
hại với bên cho vay thì bên vay phải bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây
ra. Và đương nhiên việc vi phạm này, phải đáp ứng các tiêu chí để trở thành căn cứ
cho việc bồi thường thiệt hại theo quy định tại điều 304 Luật Thương mại 2005.
Đối với nghĩa vụ được bảo đảm một phần. Nếu trong hợp đồng tín dụng,
không có điều khoản quy định về việc bên bảo đảm chỉ có nghĩa vụ bảo đảm một
phần nghĩa vụ thì đương nhiên sẽ được hiểu là nghĩa vụ được bảo đảm toàn bộ.
Vì thế mà việc phải được lập thành văn bản, thể hiện nội dung cụ thể trên
một điều khoản là yếu tố đặc biệt quan trọng khi xét tính hiệu lực của một thỏa

thuận về phạm vi bảo đảm. Vì vậy, ngay từ đầu tác giả đã đánh giá tầm quan trọng
của việc xác định phạm vi bảo đảm trong bất kỳ một hợp đồng tín dụng nào.
Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai là việc bên bảo đảm phải thực
hiện nghĩa vụ hình thành sau khi giao dịch bảo đảm được ký kết. Bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ trong tương lai mang lại rất nhiều rủi ro cho bên bảo đảm vì chúng ta
không thể lường trước tất cả những vấn đề có thể xảy ra trong tương lai.
Khoản 1 điều 294 BLDS 2015 đã chỉ ra rằng: Khi các bên giao kết bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ trong tương lai phạm vi bảo đảm phải được thỏa thuận một cách
cụ thể, chi tiết, đặc biệt phải có sự thỏa thuận về thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo
đảm đó.

15

Điều 303 Luật Thương mại 2005

16


Phạm vi bảo đảm đã xác định được phạm vi nghĩa vụ cho các giao dịch bảo
đảm. Nhưng để một giao dịch bảo đảm có hiệu lực về mặt pháp luật, cũng như bảo
vệ tốt nhất cho quyền lợi ích hợp pháp của các bên nhất là bên cho vay thì biện pháp
bảo đảm, tài sản bảo đảm phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền
Đăng ký tài sản bảo đảm
“Đăng ký biện pháp bảo đảm là việc cơ quan đăng ký ghi vào sổ đăng ký
hoặc nhập vào cơ sở dữ liệu về việc bên bảo đảm dùng tài sản để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm;”16
Đối với bản thân hoạt động tín dụng: Đăng ký giao dịch bảo đảm là toàn bộ
quy trình thủ tục theo quy định của pháp luật, phát sinh giữa cơ quan đăng ký giao
dịch bảo đảm với bên nhận bảo đảm thông qua việc ghi vào sổ đăng ký giao dịch
bảo đảm hoặc nhập vào cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm. Bên đi vay dùng tài sản

để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phát sinh trong hợp đồng tín dụng đối với tổ chức tín
dụng là cơ sở xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản.
Đối với vụ việc dân sự, đăng ký tài sản đảm bảo không phải là điều kiện
tiên quyết để một giao dịch bảo đảm có hiệu lực pháp luật mà nó nằm trong thỏa
thuận của các bên.17
Tuy nhiên, đối với hoạt động nghiệp vụ ngân hàng thì đăng ký bảo đảm
thực sự cần thiết. Bởi tài sản đảm bảo là một điều kiện đủ trong hoạt động cho vay,
ngân hàng buộc phải cho vay dựa trên nguyên tắc khách hàng có tài sản bảo đảm
hoặc hình thức bảo đảm khác. Để chứng minh cho việc bên vay có tài sản bảo đảm,
phụ thuộc vào việc đăng ký và đăng ký giao dịch bảo đảm là minh chứng cho tỷ lệ
bảo đảm an toàn của một tổ chức tín dụng nói chung và một ngân hàng nói riêng.18
Đăng ký giao dịch bảo đảm là điều kiện để xác định thời điểm có hiệu lực
của giao dịch bảo đảm và là thời điểm xác định hiệu lực đối kháng với người thứ ba
theo quy định tại điều 297 BLDS 2015. Thực tiễn cho thấy việc kí kết hợp đồng tín

16

Khoản 1 điều 3 Nghị định 102/2017/NĐ-CP, Nghị định về đăng ký biện pháp bảo đảm, 01/09/2017, Chính
Phủ
17
Khoản 1 điều 298 Bộ Luật Dân sự 2015
18
Tin nhanh chứng khoán.vn, Đỗ Mến, “Rắc rối phân định tài sản phạm vi bảo đảm”,
/>
17


dụng có bảo đảm là khá phức tạp, với nhiều thủ tục khác biệt so với việc giao kết
hợp đồng tín dụng không có bảo đảm.19
Việc đăng ký giao dịch bảo đảm phụ thuộc vào hình thức bảo đảm, đối với

các giao dịch bảo đảm bằng hình thức cầm cố, do tài sản cầm cố được chuyển giao
cho bên nhận bảo đảm nên pháp luật không có quy định cụ thể ngoại trừ cầm cố tàu
bay. Đối với các giao dịch bảo đảm bằng thế chấp tài sản do không có sự chuyển
giao nên đòi hỏi pháp luật phải quy định thật chặt chẽ., đặc biệt, thế chấp bất động
sản, thế chấp tàu bay, tàu biển là những giao dịch bắt buộc phải được đăng ký.20
Tùy vào loại tài sản được chọn làm tài sản bảo đảm mà sẽ được đăng ký tại
những cơ quan khác nhau.21
Một là, đối với biện pháp bảo đảm bằng tàu bay, cơ quan có thẩm quyền là
Cục Hàng không Việt Nam trực thuộc Bộ Giao thông vận tải.
Hai là, đối với biện pháp bảo đảm bằng tàu biển, cơ quan có thẩm quyền là
Cục hàng hải Việt Nam hoặc Chi Cục Hàng hải, Cảng vụ hàng hải theo phân cấp
của Cục Hàng hải Việt Nam trực thuộc Bộ Giao thông vận tải.
Ba là, đối với biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền
với đất cơ quan có thẩm quyền là Chi nhánh văn phòng đăng kí đất đai và Văn
phòng đăng kí đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và môi trường.
Cuối cùng, đối với các biện pháp bảo đảm bằng động sản và tài sản không
thuộc quyền hạn của các cơ qua trên thì thuộc sự quản lý của Trung tâm Đăng ký
giao dịch, tài sản của Cục Đăng kí quốc gia giao dịch bảo đảm trực thuộc Bộ Tư
pháp.
Thủ tục đăng ký biện pháp bảo đảm ở thời điển hiện tại là vô cùng dễ dàng,
chúng ta có thể chọn lựa một trong 04 phương thức nộp hồ sơ đến cơ quan có thẩm
quyền thực hiện đăng ký biện pháp bảo đảm. Gồm: Qua hệ thống đăng ký trực tiếp;
Nộp trực tiếp; Qua đường bưu điện; Qua thư điện tử trong trường hợp người được

19

Theo Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.180
Khoản 1 điều 4 Nghị định 102/2017/NĐ-CP, Nghị định về đăng ký biện pháp bảo đảm, 01/09/2017, Chính
Phủ
21

Điều 9 Nghị định 102/2017/NĐ-CP, Nghị định về đăng ký biện pháp bảo đảm, 01/09/2017, Chính Phủ
20

18


yêu cầu đăng ký đã được cấp mã số sử dụng các cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo
đảm.22
Thời hạn giải quyết yêu cầu đăng ký biện pháp bảo đảm chỉ trong vòng
ngày đăng kí, nếu yêu cầu đăng ký được tiếp nhận sau 15 giờ hàng ngày thì thời hạn
cuối giải quyết là trong ngày làm việc tiếp theo, nhưng thời hạn giải quyết, từ chối
yêu cầu đăng ký chỉ kéo dài tối đa là 03 ngày. Như vậy, pháp luật đã tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho việc đăng ký các biện pháp bảo đảm.23
Ngoài việc xác định thời điểm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì
đăng ký giao dịch bảo đảm còn là một căn cứ quan trọng trong việc xác định thứ tự
ưu tiên thanh toán khi tài sản bảo đảm được xử lý.
Đăng ký biện pháp bảo đảm đã trở thành một bộ phận quan trọng không thể
thiếu khi nhắc đến các biện pháp bảo đảm. Bên cạnh đó, thấy được ý nghĩa đặc biệt
của việc đăng ký pháp luật đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất góp phần bảo vệ
quyền, lợi ích cho các bên.
Tài sản bảo đảm và Xử lý tài sản bảo đảm
Tài sản là một khái niệm trong BLDS 2015 cũng bởi các quan hệ dân sự
thường xoay quanh vấn đề chính đó là tài sản, quyền nhân thân, trong đó quan hệ về
tài sản chiếm tỷ lệ áp đảo. Tài sản trong BLDS 2015 được chia làm hai loại: bất
động sản và động sản. Ngoài ra, tùy theo tiêu chí phân chia, tài sản có thể được chia
thành nhiều loại khác nhau. Nhưng chung quy tài sản phải là vật, tiền, giấy tờ có giá
và quyền tài sản.
Tài sản bảo đảm trong quan hệ tín dụng phải đáp ứng điều kiện về quyền sở
hữu nên nó thường là bất động sản hoặc động sản có đăng ký. Đối với các bất động
sản khi tham gia vào giao dịch bảo đảm cần có Giấy chứng nhận quyền hợp pháp

như: giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Đối với tài sản
đảm bảo là động sản có đăng ký hoặc không có đăng ký thì tùy từng loại có chế
định riêng, phương thức mô tả riêng.

22

Điều 13 Nghị định 102/2017/NĐ-CP, Nghị định về đăng ký biện pháp bảo đảm, 01/09/2017, Chính Phủ
Khoản 1 điều 16 Nghị định 102/2017/NĐ-CP, Nghị định về đăng ký biện pháp bảo đảm, 01/09/2017,
Chính Phủ
23

19


Trong phạm vi đối tượng nghiên cứu của khóa luận, những vấn đề về tài
sản bảo đảm sẽ mang tính khái quát, đặc trưng nhất. Cụ thể như sau:
Một là, theo khoản 1 Điều 295 BLDS 2015 tài sản bảo đảm phải thuộc
quyền sở hữu của bên bảo đảm trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở
hữu. Dù là hình thức bảo đảm gì, dù tài sản bảo đảm là động sản hay bất động sản
thì trong tất cả các giao dịch bảo đảm thuộc phạm vi hợp đồng tín dụng, quyền sở
hữu luôn luôn thuộc bên bảo đảm. Nếu có sự chuyển giao thì chỉ là chuyển giao
quyền chiếm giữ tài sản trong một khoản thời gian hạn chế mà thôi.
Hai là, theo khoản 1 Điều 295 BLDS 2015 tài sản bảo đảm có thể được mô
tả chung, nhưng phải xác định được. Đây chính là tiền đề của quy định về mô tả đối
với động sản có đăng ký và giấy chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp đối với bất
động sản tại quy định của nghị định 102/2017/NĐ-CP và điều 8 Thông tư
08/2018/TT/BTP. Trong tất cả các giao dịch bảo đảm, đối tượng là tài sản, việc xác
định tài sản bảo đảm là một trong những quy định quan trọng. Nếu ngay từ giai
đoạn xác định tài sản đảm bảo mà các quy định pháp luật không được áp dụng chặt
chẽ sẽ không bảo đảm được quyền lợi cho bên nhận bảo đảm.

Ba là, theo khoản 3 Điều 295 BLDS 2015 tài sản bảo đảm có thể là tài sản
hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai. Tài sản hiện có là tài sản đã hình
thành và chủ thể đã xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại
thời điểm xác định giao dịch. Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản chưa hình
thành hoặc tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau
thời điểm xác lập giao dịch. Đối với từng loại tài sản mà có cách xác lập giao dịch
bảo đảm riêng.
Đối với tài sản hình thành trong tương lai thì khi kê khai, mô tả tài sản có
những nội dung có thể lược bỏ. Và khi tài sản hình thành trong tương lai trở thành
tài sản hiện có thì các bên phải tiến hành đăng ký thay đổi nội dung biện pháp bảo
đảm đã đăng ký theo quy định tại điều 18 Nghị định 102/2017/NĐ-CP.
Bốn là, giá trị tài sản đảm bảo có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị
nghĩa vụ được bảo đảm.
Tại điều 12 của quyết định 217 có quy định như sau:

20


×