Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.71 MB, 98 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin gửi đến Quý Thầy, Cô Khoa Luật đã tạo điều kiện giúp đỡ
em thực hiện Khóa luận tốt nghiệp, đặc biệt xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thạc sĩ
Đoàn Trọng Chỉnh, giảng viên Khoa Luật Hutech đã hết lòng hướng dẫn em hoàn
thành luận văn này, ngoài ra xin cảm ơn các anh chị tại quý doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ Prudential đã chia sẽ những kinh nghiệm, cho em những thực tiễn
thiết thực phục vụ khóa luận tốt nghiệp.
Vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế và bản thân còn chưa nhiều kinh nghiệm
thực tiễn nên nội dung của luận văn không tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong
nhận sự góp ý, chỉ bảo thêm của quý thầy cô, bạn đọc để tôi em có thể hoàn thiện
kiến thức của mình được tốt hơn.
Một lần nữa, xin gửi đến Qúy Thầy, Cô Khoa Luật Hutech lời cảm ơn chân thành
và nhiều niềm vui trong cuộc sống.
TP.Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 12 năm 2018
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)

TRẦN THẾ ANH


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: TRẦN THẾ ANH, MSSV: 1511270910
Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài Khoá luận tốt nghiệp
này được thu thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn đầy đủ và
theo đúng qui định);
Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường và
pháp luật.
Sinh viên
(ký tên, ghi đầy đủ họ tên)


TRẦN THẾ ANH


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ............................................................................2
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài.......................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................3
5. Kết cấu của khóa luận...........................................................................................3
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ
VÀ CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ
TẠI VIỆT NAM ........................................................................................................5
1.1 Khái quát về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ .................................................5
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ..................................5
1.1.2 Loại hình bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam ................................................8
1.2

Chế định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ..............................9

1.2.1 Khái quát pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ..................................9
1.2.2 Đặc điểm của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ .....................10
1.2.3 Bảo hiểm nhân thọ là đối tượng của kinh doanh bảo hiểm .....................11
1.2.4 Hợp đồng kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ................................................19
1.2.5 Nguyên nhân phát sinh tranh chấp trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ..29
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH BẢO
HIỂM NHÂN THỌ TẠI VIỆT NAM, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN.................32
2.1 Thực trạng về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ .............................................32
2.1.1 Thực trạng thị trường bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam ...........................32



2.1.2 Thực trạng áp dụng pháp luật về chủ thể kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
............................................................................................................................33
2.1.3 Thực trạng áp dụng pháp luật về giao kết trong hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ .......................................................................................................................34
2.1.4 Thực trạng áp dụng pháp luật về thực hiện hợp hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ .......................................................................................................................36
2.1.5 Thực trạng áp dụng pháp luật bảo vệ quyền của các chủ thể tham gia bảo
hiểm nhân thọ .....................................................................................................41
2.1.6 Thực trạng quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ .............46
2.1.7 Thực trạng áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp trong bảo hiểm hiểm
nhân thọ ..............................................................................................................50
2.2 Những mặt tích cực, hạn chế trong việc áp dụng pháp luật về kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ và xử lý vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân
thọ ..........................................................................................................................52
2.2.1 Kết quả đạt được khi áp dụng pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ 52
2.2.2 Bất cập trong áp dụng pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ .......52
2.2.3 Thực tiễn xử lý vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nhân thọ...57
2.3 Kiến nghị hoàn thiện .....................................................................................59
2.3.1 Quy định pháp luật đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
............................................................................................................................59
2.3.2 Quy định pháp luật bảo đảm quyền lợi người tham gia bảo hiểm nhân thọ
............................................................................................................................60
KẾT LUẬN ..............................................................................................................63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................64
PHỤ LỤC



PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Bảo hiểm nhân thọ từ xưa đến nay có một vị trí vô cùng quan trọng trong việc
bảo vệ sinh mạng, sức khỏe và tài chính của mọi người khi gặp phải những sự kiện
đã định trước xảy ra. Nói cách khác BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro liên
quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ con người. Các công ty bảo hiểm phát
triển hợp pháp góp phần đảm bảo lòng tin của người tham gia bảo hiểm, giúp người
tham gia an tâm sinh sống và làm việc khi chuyển giao rủi ro cho công ty bảo hiểm
nếu một mai người tham gia bảo hiểm gặp phải những sự kiện như tử vong, thương
tật, bệnh hiểm nghèo hay tai nạn, lúc này bảo hiểm nhân thọ sẽ phát huy tác dụng,
giúp cho chính bản thân người tham gia hoặc những người thân trong gia đình đỡ đi
một phần gánh nặng tài chính, cho những dự định tương lai của người tham gia bảo
hiểm được tiếp tục thực hiện. Hơn nữa khi người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ
ngày càng nhiều sẽ giúp nhà nước giảm bớt gánh nặng trợ cấp cho người lao động
về hưu.
Ngoài ra, bảo hiểm nhân thọ còn là một công cụ tiết kiệm hiệu quả giúp người
tham gia hoạch định được tài chính bằng việc ký hợp đồng và thanh toán các khoản
phí trong suốt thời hạn hợp đồng, qua đó có thể ổn định cuộc sống, tương lai cho
bản thân người tham gia hoặc con cái người tham gia đó, cung cấp việc làm cho số
đông người lao động qua việc để người lao động trở thành đại lý phân phối.
Từ những lợi ích trên của bảo hiểm, nên trong quá trình kinh doanh bảo hiểm
không khó để có thể bắt gặp những trường hợp trục lợi bảo hiểm từ các bên tham
gia bảo hiểm, làm thất thoát số tiền không nhỏ cho các bên tham gia, đối với công ty
BHNT nhà nước tình trạng trên sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến ngân sách của nhà
nước, đối với công ty tư nhân sẽ kìm hãm sự phát triển và làm mất lòng tin từ người
dân khi tham gia BHNT.
Chế tài về xử lý trục lợi bảo hiểm còn nhiều vướng mắc, chưa thống nhất gây
khó khăn trong việc xét xử và tổn hại đến hoạt động, lợi ích của các bên tham gia
bảo hiểm. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả chọn đề tài “Pháp luật về kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam” để nghiên cứu, tăng thêm sự hiểu biết cho bản


1


thân và qua đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý về kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Cho đến thời điểm thực hiện luận văn, đã có rất nhiều luận văn nghiên cứu về
bảo hiểm nhân thọ, nhưng chưa đào sâu ở khía cạnh thực tiễn, thông qua việc tìm
hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam, có sự so sánh, đối chiếu, luận văn hướng
tới mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và xác thực các quy định trong lĩnh
vực bảo hiểm nhân thọ cũng như hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhằm góp phần bổ
sung những hiểu biết cá nhân vào hệ thống pháp luật kinh doanh bảo hiểm, qua đó
có thể hạn chế bớt các vấn nạn trục lợi bảo hiểm và ổn định hoạt động kinh doanh,
quyền lợi của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Để
thực hiện được mục đích trên, tác giả thực hiện các mục tiêu cụ thể sau:
- Nghiên cứu các vấn đề pháp lý đặc thù của bảo hiểm nhân thọ, trong đó tập
trung vào vấn đề mang tính bản chất của việc kinh doanh bảo hiểm nhân thọ.
- Nghiên cứu các hoạt động giao kết, đền bù và các nguyên nhân tranh chấp
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
- Phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng, thi hành pháp luật kinh doanh BHNT
hiện nay.
- Nghiên cứu công tác quản lý nhà nước hiện nay đối với lĩnh vực kinh doanh
BHNT.
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về kinh
doanh BHNT.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Các cơ sở pháp lý áp dụng trong kinh doanh BHNT quy định tại Luật kinh
doanh bảo hiểm và các văn bản pháp luật khác như Bộ Luật Dân sự, Luật Doanh
nghiệp, Bộ Luật Hình Sự, và các nghị định có liên quan dùng để điều chỉnh lĩnh vực


2


BHNT với cách tiếp cận thông qua các vấn đề thực tiễn liên quan đến kinh doanh
bảo hiểm nhân thọ.
- Các kiến thức, quan điểm từ những cá nhân, tổ chức khác có công trình đã
công bố liên quan đến lĩnh vực BHNT.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm:
Tác giả không nghiên cứu toàn bộ quy định về kinh doanh bảo hiểm và chi tiết
toàn bộ các nghiệp vụ của kinh doanh BHNT mà chỉ tập trung vào “kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ tại doanh nghiệp” cụ thể là để làm rõ các vấn đề có tính bản chất cần
thiết cho việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực này.
Phạm vi địa lý nghiên cứu của luận văn là các doanh nghiệp kinh doanh BHNT
đang hoạt động tại Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để phân tích, làm rõ được thế nào là bảo hiểm nhân thọ và kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ cũng như những bất cập, hạn chế trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ hiện
nay, tác giả thông qua tìm hiểu thực tế ngành bảo hiểm nhân thọ, đi sâu vào nghiên
cứu quy trình thực hiện mua bán, thực hiện hợp đồng bảo hiểm giữa các bên tham
gia, những phương pháp phân tích, so sánh các cơ sở pháp lý điều chỉnh đối với lĩnh
vực BHNT cùng với thống kê các số liệu liên quan làm luận cứ, từ đó đúc kết được
ưu và nhược điểm mà hệ thống pháp luật bảo hiểm hiện hành cần sửa đổi, bổ sung
và phát triển.
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, bố cục luận văn được chia làm hai (02)
chương:
Chương 1: Lý luận chung về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và chế định pháp
luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại

Việt Nam, kiến nghị hoàn thiện

3


4


Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN
THỌ VÀ CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM
NHÂN THỌ TẠI VIỆT NAM
1.1 Khái quát về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Khái niệm
Có thể hiểu BHNT là sự cam kết giữa công ty bảo hiểm (Doanh nghiệp bảo
hiểm) với người tham gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm,
người thụ hưởng) mà trong đó công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm
cho người tham gia khi người tham gia có những sự kiện đã định trước còn người
tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm đầy đủ và đúng thời hạn. Hiện
nay khái niệm BHNT được căn cứ tại Khoản 12, điều 13 Luật Kinh Doanh Bảo
Hiểm sửa đổi 2010 thì Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường
hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết, riêng cá nhân tôi chọn định nghĩa ngắn
gọn như sau BHNT là tiền cho con người khi gặp rủi ro và cả trong trường hợp sống
thọ. Do đó, BHNT có những đặc điểm cơ bản sau:
Đặc điểm
Thứ nhất, BHNT mang nhiều đặc điểm bao gồm tính tiết kiệm, đầu tư và mang
tính rủi ro: Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với
BHPNT. Thật vậy, bên mua BHNT sẽ định kỳ nộp một khoản tiền nhỏ gọi là phí
bảo hiểm cho bên bảo hiểm, ngược lại bên bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền lớn
gọi là số tiền bảo hiểm cho bên hưởng quyền lợi bảo hiểm gọi là bên thụ hưởng như

đã thỏa thuận từ trước khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm được trả
khi bên được bảo hiểm đạt đến một độ tuổi nhất định, hoặc con cái bên được bảo
hiểm đạt đến độ tuổi nhất định theo các loại hình hợp đồng bảo hiểm đầu tư học vấn
và được ấn định trong hợp đồng. Hoặc số tiền này được trả cho thân nhân và gia
đình người được bảo hiểm khi người này không may bị rủi ro mất sớm ngay cả khi
họ mới đóng được một ít phí bảo hiểm hợp lệ. Số tiền này giúp những người còn
sống trang trải những khoản chi phí cần thiết cho cuộc sống khi người bảo hiểm mất
hoặc tàn tật do tai nạn, bệnh hiểm nghèo…Chính vì vậy, BHNT vừa mang tính tiết
kiệm, đầu tư vừa mang tính rủi ro. Tính chất tiết kiệm, đầu tư ở đây thể hiện ngay
5


trong từng cá nhân, từng gia đình một cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ
luật. Nội dung tiết kiệm khi mua BHNT khác với hình thức tiết kiệm khác ở chỗ,
bên bảo hiểm đảm bảo trả cho người tham gia bảo hiểm hay người thân của họ một
số tiền rất lớn ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền nhỏ. Có nghĩa là
khi bên được bảo hiểm không may gặp rủi ro, trong thời hạn bảo hiểm được ấn
định, những người thân của họ sẽ nhận được những khoản trợ cấp hay số tiền bảo
hiểm từ công ty bảo hiểm. Điều đó thể hiện rõ tính chất rủi ro trong BHNT.
Thứ hai, các loại hợp đồng trong BHNT rất đa dạng và phức tạp: Tính đa dạng
và phức tạp trong các hợp đồng BHNT thể hiện ở trong các sản phẩm của chính hợp
đồng đó. Mỗi sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng có nhiều loại hợp đồng khác nhau,
chẳng hạn BHNT hỗn hợp có các hợp đồng 5 năm, 10 năm. Mỗi hợp đồng với mỗi
thời hạn khác nhau, lại có sự khác nhau về số tiền bảo hiểm, phương thức đóng phí,
độ tuổi của người tham gia…Ngay cả trong một bản hợp đồng, mối quan hệ giữa
các bên cũng rất phức tạp. Khác với các bản hợp đồng BHPNT, trong mỗi hợp đồng
BHNT có thể có 4 bên tham gia gồm bên bảo hiểm, bên được bảo hiểm, bên tham
gia bảo hiểm và bên được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Thứ ba, BHNT mang đặc điểm số đông bù số ít tức là nhiều người chung tay
giúp đỡ người không may gặp rủi ro, vì không phải tất cả ai cũng đều gặp rủi ro

trong cuộc sống, chỉ một số ít có thể gặp rủi ro và công ty bảo hiểm sẽ trích phần
tiền từ quỹ rủi ro để chi trả quyền lợi cho người bất hạnh, những ai may mắn, sống
khỏe và an bình sẽ nhận được quyền lợi tương ứng là lãi cộng bảo tức trên số tiền
mình đã đóng góp.
Thứ tư, phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình
định phí khá phức tạp. Trong tiến trình này, người bảo hiểm phải bỏ ra rất nhiều chi
phí để tạo nên sản phẩm, như chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp đồng…Nhưng
những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên giá cả sản phẩm BHNT, một
phần chủ yếu khác lại phụ thuộc vào các điều kiện sau gồm độ tuổi của người được
bảo hiểm, tuổi thọ bình quân của con người, số tiền bảo hiểm, thời hạn tham gia bảo
hiểm phương thức thanh toán, lãi suất đầu tư, tỷ lệ lạm phát …
Thứ năm, hợp đồng BHNT được thực hiện dựa trên nguyên tắc BMBH chưa
cần đến, nghĩa là trước khi mua bảo hiểm, người được bảo hiểm không được có
bệnh án, tình trạng sức khỏe không đủ điều kiện trực tiếp dẫn đến các sự kiện bảo
6


hiểm xảy ra, người không đủ điều kiện theo thông tin sức khỏe theo hợp đồng bảo
hiểm yêu cầu sẽ không mua được BHNT với bất cứ giá nào :
Ví dụ: Anh A đăng ký mua bảo hiểm nhân thọ tại Công Ty TNHH BHNT
Prudential Việt Nam vào ngày 25/08/2018, nhưng trước đó Anh A đã có tiền án
bệnh tim nên Anh A không được công ty phát hành hợp đồng BHNT.
Thứ sáu, BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất
định. Ở các nước kinh tế phát triển, BHNT ra đời và phát triển hàng trăm năm nay.
Ngược lại có một số quốc gia trên thế giới hiện nay vẫn chưa triển khai rộng rãi loại
hình BHNT, mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó. Để lý giải vấn đề
này, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, cơ sở chủ yếu để BHNT ra đời và phát
triển là điều kiện kinh tế xã hội phát triển.
Những điều kiện về xã hội bao gồm: Điều kiện về dân số, tuổi thọ bình quân
của người dân, trình độ học vấn, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, hiểu biết, thói quen và

tập quán của người dân.
Ngoài điều kiện kinh tế, xã hội thì chế tài pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ
đến sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp BHNT đi kèm với quyền lợi, nghĩa vụ
của người tham gia bảo hiểm. Thông thường ở các nước, luật kinh doanh bảo hiểm,
các văn bản, quy định có tính pháp quy phải ra đời trước khi ngành bảo hiểm phát
triển. Luật bảo hiểm và các văn bản có liên quan sẽ đề cập cụ thể đến các vấn đề
như: tài chính, đầu tư, hợp đồng, thuế. Đây là những vấn đề mang tính chất sống
còn cho hoạt động kinh doanh BHNT. Chẳng hạn ở một số nước phát triển như:
Anh, Pháp, Đức. Nhà nước thường tạo điều kiện thuận lợi cho BHNT bằng cách có
chính sách thuế ưu đãi. Mục đích là tạo ra cho các cá nhân cơ hội để tiết kiệm, tự
mình lập nên quỹ hưu trí, từ đó cho phép giảm bớt phần trợ cấp từ nhà nước. Mặt
khác, còn đẩy mạnh được quá trình tập trung vốn trong các công ty bảo hiểm để từ
đó có vốn dài hạn đầu tư cho nền kinh tế. Cũng vì những mục đích trên, mà một số
nước Châu Á như: Ấn Độ, Hồng Kông, Singapore kể cả Việt Nam…không đánh
thuế doanh thu đối với các sản phẩm BHNT. Sự ưu đãi này là đòn bẩy tích cực để
BHNT phát triển.

7


1.1.2 Loại hình bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam
Loại hình bảo hiểm nhân thọ có nhiều quy định đặc thù do đây là loại nghiệp vụ
bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết.1Ông Ngô Trung
Dũng - Phó Tổng thư ký IAV cho biết.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế hiện nay cùng với nhu cầu cần được bảo vệ của
con người ngày càng tăng cao, nền bảo hiểm nhân thọ đã được phát triển và mở
rộng các loại hình nhằm đáp ứng nhu cầu trên của con người. Để xác định được các
loại hình bảo hiểm, ta phân chia các loại hình theo từng nhóm sau:
Các loại hình bảo hiểm nhân thọ theo nhóm mức độ rủi ro bao gồm:
- Bảo hiểm trong trường hợp tử vong (gọi tắt là bảo hiểm tử kỳ): căn cứ tại

khoản 14 Điều 3 Văn bản hợp nhất luật Kinh doanh bảo hiểm 2013: nghiệp vụ bảo
hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định, theo
đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người
được bảo hiểm chết trong thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Quy định trên cho thấy luật đã quy định chặt chẽ về hợp đồng bảo hiểm tử kỳ,
nếu khách mua bảo hiểm và mất trong thời hạn đã thỏa thuận với bên bảo hiểm thì
lúc này tiền bảo hiểm sẽ được chi trả.
- Bảo hiểm trong trường hợp sống (gọi tắt là bảo hiểm sinh kỳ): căn cứ tại
khoản 13 điều 3 Văn bản hợp nhất luật Kinh doanh bảo hiểm 2013 là nghiệp vụ
bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định,
theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu
người được bảo hiểm chết trong thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo
hiểm.
- Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp: căn cứ tại khoản 15 Điều 3 Văn bản hợp nhất luật
Kinh doanh bảo hiểm 2013 là loại hình kết hợp giữa bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm
tử kỳ. Ba loại hình bảo hiểm trên cũng là ba loại hình chủ yếu, cơ bản nhất của
BHNT hiện nay, ngoài ra còn có các loại hình BHNT khác phân theo các nhóm sau:
Các loại hình BHNT theo phương thức tham gia bảo hiểm:
1

Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, />
8


- Bảo hiểm cá nhân: Là loại bảo hiểm thực hiện dưới hình thức người tham gia
bảo hiểm là cá nhân riêng biệt. Cá nhân tự nguyện tham gia một hay nhiều hợp
đồng bảo hiểm. Với bảo hiểm này, người được bảo hiểm chính có thể mua thêm các
sản phẩm bổ sung cho người thân trong gia đình trên cùng một hợp đồng.
- Bảo hiểm nhóm: Là loại bảo hiểm theo hình thức tham gia tập thể có kèm theo
danh sách cá nhân là người được bảo hiểm.

Thường là các sản phẩm bảo hiểm hưu trí nhóm như Điểm Tựa Hưu Trí
của Manulife, Bảo hiểm hưu trí của Bảo Việt Nhân thọ.
1.2 Chế định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
1.2.1 Khái quát pháp luật kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ là tổng thể các quan hệ phát sinh
trong quá trình tham gia bảo hiểm nhân thọ, được pháp luật Kinh doanh bảo hiểm
điều chỉnh.
Có thể hiểu, khi các tranh chấp giữa các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ xảy ra thì dựa vào cơ sở pháp lý quy định về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, tòa
án sẽ ra phán quyết.
Nếu tòa án có thẩm quyền ra phán quyết về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm xảy
ra nếu có khởi kiện, thì lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm được quản lý, quy định bởi
Bộ Tài Chính, cụ thể là Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm là đơn vị thuộc Bộ Tài
chính, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà
nước đối với lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm trong phạm vi cả nước; trực tiếp quản
lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm và các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh
vực kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật.2 Dẫn chứng trên nhằm mục
đích cho thấy, ngoài các quyền và nghĩa vụ được quy định trong luật kinh doanh
bảo hiểm thì Bộ Tài Chính có thẩm quyền quản lý, quy định cụ thể đối với hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ.

2

Chính Phủ (2016), Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh

bảo hiểm và Luật kinh doanh bảo hiểm sửa đổi.

9



1.2.2 Đặc điểm của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
Căn cứ phân tích qua phụ lục 06: Từ sự khác biệt về bảo hiểm nhân thọ và bảo
hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe, từ đó hệ thống pháp lý điều chỉnh quan hệ
của các loại hình này cũng khác nhau. Về những quy định chung về hợp đồng của
các loại hình bảo hiểm đa số giống nhau, nhưng về nội dung cụ thể của hợp đồng thì
luật quy định khác nhau (các nội dung về phạm vi, thời hạn, phí giữa các loại hình
bảo hiểm đã được liệt kê cụ thể ở Phụ lục 06: Bảng phân biệt giữa BHNT và
BHPNT)
Ngoài ra, pháp luật điều chỉnh về kinh doanh BHNT còn có những đặc điểm
khác biệt rõ rệt với BHPNT như sau mà từ đó giúp giảm đi các trường hợp trục lợi
bảo hiểm, ổn định hoạt động kinh doanh của công ty bảo hiểm nhân thọ :
- Thông báo tuổi trong bảo hiểm nhân thọ theo điều 34 Luật Kinh Doanh Bảo
Hiểm sửa đổi bổ sung 2010:
Đây là một trong những nội dung phải thực hiện khi tham gia hợp đồng bảo
hiểm, Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ khai đúng số tuổi thật của mình hoặc người
được bảo hiểm.
BMBH khai thấp hơn số tuổi thật tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm
nhằm mục đích giảm phí đóng bảo hiểm thì DNBH có quyền yêu cầu BMBH đóng
thêm phí bảo hiểm hoặc giảm số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận tương ứng với số phí
đã đóng. Ngược lại, trường hợp khách hàng kê khai tuổi cao hơn tuổi thực tế, nhưng
tuổi thực tế của NĐBH vẫn thuộc nhóm được bảo hiểm, BMBH có trách nhiệm trả
lại số phí đóng bảo hiểm chênh lệch
Trường hợp, BMBH kê khai tuổi sai so với thực tế, mà tuổi thực tế của NĐBH
không còn nằm trong độ tuổi được bảo hiểm, thì DNBH có quyền hủy bỏ HĐBH và
hoàn lại số phí sau khi đã khấu trừ các chi phí liên quan. Trong trường hợp bên mua
bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm từ hai năm trở lên mà doanh nghiệp bảo hiểm đơn
phương đình chỉ thực hiện hợp đồng theo quy định tại khoản 2 Điều này thì doanh
nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo
hiểm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
- Không được yêu cầu người thứ ba bồi hoàn: Căn cứ tại điều 37 Luật Kinh

Doanh Bảo Hiểm sửa đổi bổ sung 2010. Trong trường hợp người được bảo hiểm
10


chết, bị thương tật hoặc đau ốm do hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp của người thứ
ba gây ra, doanh nghiệp bảo hiểm vẫn có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm mà không có
quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã trả
cho người thụ hưởng. Người thứ ba phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người
được bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Điều này thể hiện rõ một điều, tính
mạng con người là vô giá, không thể định giá được để DNBH có thể đòi bồi thường
từ bên thứ ba.
1.2.3 Bảo hiểm nhân thọ là đối tượng của kinh doanh bảo hiểm
Khái niệm về kinh doanh bảo hiểm
Hiện nay, khái niệm kinh doanh bảo hiểm được ghi nhận tại khoản 3 Điều 15
Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm sửa đổi bổ sung 2010 kinh doanh bảo hiểm là hoạt
động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp
bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm
đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Để xác định rõ về thế nào là kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, ta cùng xem xét các
đặc trưng cơ bản của hoạt động kinh doanh BHNT qua các nội dung sau:
Kinh doanh BHNT là một ngành kinh doanh có điều kiện:
Căn cứ những quy định pháp luật cho thấy, những cá nhân, tổ chức hoạt động kinh
doanh BHNT phải hội đủ các điều kiện cần thiết để có thể thực hiện hoạt động kinh
doanh BHNT tại Việt Nam.
- Một là, điều kiện thành lập DNBH kinh doanh BHNT thường chặt chẽ hơn so
với các doanh nghiệp thông thường. Ví dụ: Về vốn pháp định, tổng tài sản của
DNBH luôn phải đáp ứng quy định. Cụ thể về tổng tài sản của DNBH nước ngoài
cần 2 tỷ đô la Mỹ, DNBH trong nước cần 2000 tỷ, qua đó có thể đảm bảo cho hoạt
động kinh doanh BHNT được vận hành.

- Hai là, người quản trị, người điều hành có năng lực quản lý, chuyên môn,
nghiệp vụ về bảo hiểm. Pháp luật đòi hỏi phải có đủ chuyên môn và kinh nghiệm để
có thể quản lý tổ chức hoạt động một cách hiệu quả.

11


- Ba là, DNBH kinh doanh BHNT phải luôn giữ biên khả năng thanh toán của
tổ chức mình để từ đó đảm bảo an toàn cho việc chi trả hoạt động bảo hiểm đối với
BMBH. Để đảm bảo việc này, DNBH phải trích lập dự phòng nghiệp vụ, thành lập
các quỹ dự bắt buộc.
- Bốn là, trong hoạt động đưa sản phẩm đến khách hàng, DNBH phải đảm bảo
thực hiện các hoạt động sau: Phân tích nhu cầu và khả năng tài chính của BMBH
lập tài liệu minh họa sản phẩm và các giá trị hoàn lại bằng con số cụ thể khi BMBH
được hưởng, giải thích rõ các điều khoản hợp đồng cho bên mua bảo hiểm.
Hoạt động kinh doanh BHNT tại doanh nghiệp
Thực trạng tại Việt Nam hiện nay, con số người dân tham gia bảo hiểm nhân
thọ chưa cao so với các nước phát triền, nguyên nhân bởi đất nước trải qua thời kỳ
chiến tranh kéo dài, ngành BHNT trong nước còn khá non trẻ và nhận thức của
người dân về bảo hiểm nhân thọ chưa cao, chưa sẵn sàng để tham gia bảo hiểm
nhân thọ. Vì vậy các công ty bảo hiểm ra đời và phân bổ mạng lưới văn phòng đại
lý ở khắp mọi nơi trên đất nước nhằm thu hút người tham gia bảo hiểm, ngoài ra hệ
thống pháp lý điều chỉnh cũng được ban hành kèm theo kể từ luật Kinh doanh bảo
hiểm 2000 được ban hành.
- Điều kiện đối với các tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ:
Để được cấp phép thành lập tổ chức hoạt động lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, cơ
sở pháp lý có quy định gồm:
Điều kiện chung để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động của doanh
nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm: Căn cứ
tại Điều 6 Nghị định 73/2016/NĐ-CP hướng dẫn luật Kinh doanh bảo hiểm và luật

Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi, yêu cầu bao gồm có vốn điều lệ đã góp (đối với
doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm), vốn được cấp (đối với
chi nhánh nước ngoài) không thấp hơn mức vốn pháp định theo quy định tại Điều
10 Nghị định này, có loại hình doanh nghiệp, điều lệ công ty (đối với doanh nghiệp
bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm), quy chế tổ chức và hoạt động (đối với
chi nhánh nước ngoài) phù hợp với quy định tại Nghị định này và các quy định
pháp luật khác có liên quan. Có người quản trị, điều hành dự kiến đáp ứng quy định
và có hồ sơ đề nghị cấp giấy phép theo quy định tại Nghị định này.
12


Căn cứ theo bảng số liệu tại phụ lục 05: Về mô hình tổ chức kinh tế kinh doanh
BHNT tại Việt Nam hiện nay đa phần đều là mô hình công ty TNHH, chỉ duy nhất
Công ty cổ phẩn Phú Hưng Life là công ty cổ phần đầu tiên hoạt động tại Việt Nam.
Trình tự thủ tục đăng ký doanh nghiệp đối với công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ và
công ty Cổ phần Bảo hiểm nhân thọ ngoài chịu sự điều chỉnh theo pháp luật Kinh
doanh bảo hiểm còn phải tuân theo quy định của Luật Doanh Nghiệp 2014.
Đối với điều kiện thành lập tổ chức bảo hiểm nước ngoài:
Quy định tại Điều 7 Nghị định 73/2016/NĐ-CP hướng dẫn luật Kinh doanh bảo
hiểm và luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi yêu cầu:
- Là doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền của nước
ngoài cho phép hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dự kiến tiến hành tại Việt Nam
hoặc công ty con chuyên thực hiện chức năng đầu tư ra nước ngoài của doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài được doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài ủy
quyền để góp vốn thành lập doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam.
- Có ít nhất 10 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực dự kiến tiến hành tại
Việt Nam.
- Có tổng tài sản tối thiểu tương đương 02 tỷ đô la Mỹ vào năm liền kề trước
năm nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép.
- Không vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp luật về hoạt động KDBH và

các quy định pháp luật khác của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính trong thời
hạn 03 năm liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép.
Đối với điều kiện thành lập tổ chức bảo hiểm trong nước:
- Là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm.
- Có tổng tài sản tối thiểu 2.000 tỷ đồng Việt Nam vào năm liền kề trước năm
nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép.
Đối với Điều kiện thành lập chi nhánh nước ngoài:
Quy định tại Điều 8 Nghị định 73/2016/NĐ-CP hướng dẫn luật Kinh doanh bảo
hiểm và luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi.

13


Theo nghị định quy định về việc thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp
BHNT, Nghị định đã nêu rõ tổ chức, cá nhân muốn hoạt động KDBH, kinh doanh
tái bảo hiểm, hoạt động môi giới bảo hiểm tại Việt Nam phải được Bộ Tài chính cấp
giấy phép thành lập và hoạt động hoặc đáp ứng các điều kiện về cung cấp dịch vụ
bảo hiểm qua biên giới theo quy định tại Nghị định này.
Tổ chức, cá nhân có nhu cầu tham gia bảo hiểm có quyền lựa chọn doanh
nghiệp bảo hiểm và chỉ được tham gia bảo hiểm tại DNBH, chi nhánh nước ngoài
được phép hoạt động tại Việt Nam, trừ trường hợp sử dụng dịch vụ bảo hiểm qua
biên giới theo quy định. Không tổ chức, cá nhân nào được phép can thiệp trái pháp
luật đến quyền lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh nước ngoài của bên mua
bảo hiểm.
Nghị định quy định rõ điều kiện thành lập công ty TNHH bảo hiểm. Theo đó,
để thành lập công ty TNHH bảo hiểm thì ngoài các điều kiện chung theo quy định,
thành viên tham gia góp vốn thành lập công ty TNHH bảo hiểm phải là tổ chức đáp
ứng các điều kiện sau:
Đối với tổ chức nước ngoài: Phải là doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài cho phép hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực

dự kiến tiến hành tại Việt Nam hoặc công ty con chuyên thực hiện chức năng đầu tư
ra nước ngoài của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được doanh nghiệp bảo hiểm
nước ngoài ủy quyền để góp vốn thành lập doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam. Có
ít nhất 10 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực dự kiến tiến hành tại Việt
Nam.
Về tổng tài sản của doanh nghiệp BHNT trong nước: Nghị định 73/2016/NĐCP hướng dẫn luật Kinh doanh bảo hiểm và luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi nêu
rõ doanh nghiệp, tổ chức trong nước phải là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; có tổng tài sản tối thiểu 2.000 tỷ đồng Việt Nam
vào năm liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép.
Về tổng tài sản của doanh nghiệp BHNT nước ngoài: Tối thiểu tương đương 2
tỷ USD vào năm liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép; không vi phạm
nghiêm trọng các quy định pháp luật về hoạt động KDBH và các quy định pháp luật

14


khác của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính trong thời hạn 3 năm liền kề
trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép.
- Các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ được phép áp dụng:
Về các nghiệp vụ và sản phẩm bảo hiểm mà DNBH Nhân Thọ được phép kinh
doanh được quy định tại Điều 4 Nghị định 73/2016/NĐ-CP hướng dẫn luật Kinh
doanh bảo hiểm và luật Kinh doanh bảo hiểm sửa đổi và văn bản hợp nhất luật Kinh
doanh bảo hiểm 2013. Bảo hiểm nhân thọ bao gồm các nghiệp vụ sau:
- Bảo hiểm trọn đời: Là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp rủi ro và sự kiện
bảo hiểm vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời người đó. Hợp đồng bảo
hiểm trọn đời là dạng hợp đồng dài hạn, không bị giới hạn ngày hết hạn hợp đồng.
- Bảo hiểm sinh kỳ: Căn cứ tại Khoản 13 Điều 3 Văn bản hợp nhất luật Kinh
doanh bảo hiểm 2013 là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm
sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo
hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến một thời hạn

được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
- Bảo hiểm tử kỳ: Căn cứ tại Khoản 14 Điều 3 Văn bản hợp nhất luật Kinh
doanh bảo hiểm 2013 là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm
chết trong một thời hạn nhất định. Theo đó DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người
thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn được thỏa thuận trong
hợp đồng bảo hiểm, thời điểm quy định trong hợp đồng thường là thời điểm đáo hạn
của hợp đồng.
- Bảo hiểm hỗn hợp: Là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp giữa bảo hiểm sinh kỳ và
bảo hiểm tử kỳ.
- Bảo hiểm trả tiền định kỳ: Được quy định tại khoản 17 Điều 3 Luật Kinh
doanh bảo hiểm sửa đổi bổ sung 2010 Là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người
được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định; sau thời hạn đó doanh nghiệp bảo
hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho người thụ hưởng theo thỏa thuận trong hợp
đồng bảo hiểm.

15


- Bảo hiểm liên kết đầu tư: Là sản phẩm bảo hiểm nhân thọ không chia lãi bao
gồm hai phần tách biệt nhau: Phần bảo hiểm và phần đầu tư, trong đó chủ yếu là
phần đầu tư.
- Bảo hiểm hưu trí: Căn cứ tại khoản 1 Điều 2 Thông Tư số 115/2013/TT-BTC
Hướng dẫn bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện. Bảo hiểm hưu trí là sản
phẩm bảo hiểm nhân thọ do doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nhằm cung cấp thu
nhập bổ sung cho người được bảo hiểm khi hết tuổi lao động. Bảo hiểm hưu trí bao
gồm bảo hiểm hưu trí cho từng cá nhân và bảo hiểm hưu trí cho nhóm người lao
động. Trường hợp bảo hiểm hưu trí cho nhóm người lao động (sau đây gọi là bảo
hiểm hưu trí nhóm), bên mua bảo hiểm là chủ sử dụng lao động, người lao động sẽ
được nhận toàn bộ quyền lợi của hợp đồng bảo hiểm sau một thời hạn nhất định
theo thỏa thuận giữa các bên và được ghi nhận tại hợp đồng bảo hiểm.3

Về quá trình kinh doanh BHNT tại doanh nghiệp, sau khi doanh nghiệp được
cấp phép thành lập và hoạt động, ngoài mở các văn phòng tổng đại lý nơi trực tiếp
ký kết, chi trả hợp đồng với khách hàng thì DNBH Nhân Thọ còn cơ cấu hệ thống
nhóm đại lý bảo hiểm đứng đầu là nhóm trưởng, người quản lý các đại lý bảo hiểm
trong hoạt động phân phối các sản phẩm bảo hiểm của doanh nghiệp đến khách
hàng.
Về phần đại lý bảo hiểm, các chi nhánh của tổng công ty Prudential đều có các
nhóm trưởng, họ là những tư vấn viên, đại lý có kinh nghiệm lâu năm được công ty
quyết định chức danh, thực hiện vai trò quản lý các đại lý, tư vấn viên bảo hiểm
khác trong nhóm đối với việc phân bố bảo hiểm đến khách hàng. Những người đại
lý bảo hiểm giữ vai trò rất quan trọng bởi lẽ, khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, thông
qua tư vấn một cách chính xác, đầy đủ, trung thực về hợp đồng thì khi đó khách
hàng mới hiểu được chính xác sản phẩm, tránh tình trạng tranh chấp do khi mua sản
phẩm rồi khách không hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Do đó luật có quy
định cụ thể về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của người đại lý bảo hiểm
tại các điều 85,86 và 88 Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm sửa đổi bổ sung 2010.4

Bộ Tài Chính (2013), Khoản 2 Điều 2 Thông Tư số 115/2013/TT-BTC, ngày 20 tháng 08 năm 2013, Hướng
dẫn bảo hiểm hưu trí và quỹ hưu trí tự nguyện
3

4

Quốc Hội (2013), Mục 1 Chương 3 Đại Lý Bảo Hiểm, Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm sửa đổi bổ sung 2010

16


Tính đến nay, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam có khoảng 621 ngàn tư
vấn viên, vì thế khó đánh giá về kiến thức của các đại lý, tư vấn viên. Để quản lý và

giám sát các đại lý, doanh nghiệp BHNT thực hiện các quy định ràng buộc với đại
lý, tổ chức các buổi huấn luyện các đại lý bảo hiểm để nâng cao kiến thức về sản
phẩm của công ty, tuyên truyền đạo đức nghề nghiệp cho người đại lý. Tính đến
nay, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam có khoảng 621 ngàn tư vấn viên, vì thế
khó đánh giá về kiến thức của các đại lý, tư vấn viên. Ví dụ thực tế: Hàng tháng các
địa bàn có chi nhánh Prudential luôn tổ chức các buổi học tư vấn viên bảo hiểm
dành cho các đại lý bảo hiểm, bổ sung kiến thức sản phẩm để người đại lý hoạt
động hiệu quả.
Cơ sở pháp lý áp dụng trong việc phát hành hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Ngành BHNT là một ngành hoạt động có điều kiện khắt khe hơn so với các
doanh nghiệp thông thường khác, nên đi kèm với nó là rất nhiều các quy định trong
hoạt động kinh doanh. Để có thể giao kết hợp đồng bảo hiểm, tổ chức kinh doanh
BHNT phải đáp ứng những điều kiện sau:
- Đối với những sản phẩm BHNT phải được phê chuẩn bởi Bộ Tài Chính
trước khi bán, lúc này BTC sẽ xem xét đánh giá kỹ thuật của gói sản phẩm BHNT
này trước khi cho phép lưu hành, đối với doanh nghiệp BHNT phải kê khai thông
tin chi tiết sản phẩm và điều khoản hợp đồng rõ ràng cho BMBH.
- Trước khi giao kết hợp đồng, DNBH Nhân thọ phải tìm hiểu các thông tin
cần thiết của khách hàng, đánh giá khả năng tài chính của mình, đảm bảo duy trì các
nguồn lực tài chính, khả năng thanh toán và các hệ thống quản lý rủi ro, đảm bảo
không phân biệt đối xử về điều kiện bảo hiểm và mức phí bảo hiểm giữa các đối
tượng bảo hiểm có cùng mức độ rủi ro.5
- Đối với hoạt động kinh doanh bằng hình thức môi giới bảo hiểm, doanh
nghiệp BHNT có quyền và nghĩa vụ phải tuân thủ các điều khoản quy định tại Mục
2, Chương 4, Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm sửa đổi bổ sung 2010.
Quy trình hợp pháp để hợp đồng BHNT được phát hành thông qua các giai
đoạn như sau: Vì hợp đồng BHNT là hợp đồng dân sự nên hội tụ các đặc điểm như

Bộ Tài Chính (2017), Khoản 2 Điều 3 Thông tư số 50 /2017/TT-BTC ngày 15 tháng 5 năm 2017, Hướng
dẫn thi hành Nghị định số 73/2016/NĐ-CP

5

17


sự thỏa thuận của các bên như hợp đồng dân sự bao gồm các chủ thể tham gia hợp
đồng gồm: Doanh nghiệp BHNT và bên mua bảo hiểm.
Về cơ sở pháp lý đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được phát hành, bằng
chứng giao kết hợp đồng BHNT được cấu thành bởi hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, giấy
chứng nhận bảo hiểm, telex, fax và các hình thức khác do luật quy định,6 hồ sơ yêu
cầu được bên DNBH soạn sẵn và có sự đối chiếu với quy định của Bộ Tài Chính về
điều khoản, sau khi xem xét hợp lệ hồ sơ yêu cầu bảo hiểm, DNBH sẽ phát hành
giấy chứng nhận bảo hiểm.
Quy định pháp lý đối với bên bán bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng bảo hiểm
dựa trên quy định tại điều 23 Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm sửa đổi bổ sung 2010 :
1. Bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm.
2. Bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm hoặc không đóng phí bảo
hiểm theo thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác.
3. Bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm trong thời gian gia hạn đóng
phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
Trong trường hợp có tranh chấp bồi thường hợp đồng xảy ra, nếu cá nhân, tổ
chức có hành vi trục lợi bảo hiểm thì căn cứ xử phạt BMBH theo luật định tại điều
174 và 213 Bộ Luật Hình Sự 2015, nếu lỗi thuộc về bên bán bảo hiểm, thì DNBH
vẫn phải chi trả bồi thường hợp đồng cho khách hàng căn cứ tại điều 88 Luật Kinh
Doanh Bảo Hiểm sửa đổi bổ sung 2010 và người gây ra lỗi sẽ bị xử phạt theo luật
định tại điều 174 và 213 Bộ Luật Hình Sự 2015 và điều 88 Luật Kinh Doanh Bảo
Hiểm sửa đổi bổ sung 2010.
Về việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của DNBH và BMBH

được quy định tại điều 18, 19 Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm sửa đổi bổ sung 2010.

6

Quốc Hội (2013), Điều 14 Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm sửa đổi bổ sung 2010

18


Nếu trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều
khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm căn cứ tại Điều
21 Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm sửa đổi, bổ sung 2010 điều này thể hiện rõ tính chất
của bảo hiểm là bảo vệ con người, vì nếu người mua bảo hiểm là các chủ thể có
nhận biết kém về hợp đồng sẽ được bảo vệ bởi khung pháp lý an toàn cho người
mua.
Trường hợp bảo hiểm vô hiệu, chấm dứt hợp đồng bảo hiểm được quy định tại
điều 22, 23 Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm sửa đổi bổ sung 2010.
1.2.4

Hợp đồng kinh doanh bảo hiểm nhân thọ

Khái niệm, đặc điểm và phân loại hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Về khái niệm HĐBH Nhân thọ, khác với Bộ luật dân sự 2005 thì luật mới sửa
đổi về lĩnh vực KDBH quy định, căn cứ tại Khoản 1 Điều 12 Luật Kinh Doanh Bảo
Hiểm sửa đổi bổ sung 2010 thì hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua
bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo
hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Từ đó ta thấy được
thay vì quy định một cách chung chung thì luật Kinh Doanh Bảo Hiểm quy định cụ
thể, chi tiết về hợp đồng bảo hiểm hơn Bộ luật dân sự.

Đặc điểm hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
Hợp đồng bảo hiểm con người không áp dụng nguyên tắc bảo hiểm trùng và
nguyên tắc thế quyền: Đặc điểm trên xuất phát từ tính chất không thể định giá được
tính mạng con người,, nếu như trong bảo hiểm tài sản căn cứ tại Khoản 1 điều 44
VBHN Luật kinh doanh bảo hiểm 2013: Hợp đồng bảo hiểm trùng là trường hợp
bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với hai doanh nghiệp bảo hiểm trở
lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng, với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm.
Khoản 2 điều 44 quy định: Tổng số tiền bồi thường của các doanh nghiệp bảo
hiểm không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản. Do đó mà HĐBH Nhân thọ
không áp dụng nguyên tắc này. Từ đặc điểm trên, khi người tham gia bảo hiểm mua
đồng thời nhiều bảo hiểm ở nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau thì BMBH có

19


quyền nhận đầy đủ các khoản tiền đã thỏa thuận ở mỗi doanh nghiệp chứ không bị
giới hạn về giá trị nhận được như bảo hiểm tài sản.
Hợp đồng bảo hiểm con người không áp dụng nguyên tắc thế quyền: Ngoài ra,
trong HĐBH Nhân thọ không áp dụng nguyên tắc thế quyền. Bên bảo hiểm sau khi
đã thanh toán, bồi thường hợp đồng bảo hiểm thì không được phép thay cho BMBH
hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm truy đòi bên thứ ba bồi hoàn số tiền bảo
hiểm tương tự.7
Quy định trên cho thấy tính mạng, lợi ích của khách hàng được bảo vệ và ưu
tiên khi tham gia bảo hiểm nhân thọ.
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đa dạng với nhu cầu của người tham gia: Đặc
điểm này thể hiện ở trong từng loại HĐBH, cụ thể đối với từng đối tượng tham gia
khác nhau thì sẽ có các loại HĐBH khác nhau, ví dụ đối với đối tượng của bảo hiểm
nhân thọ, tai nạn hay sức khỏe thì sẽ có các loại hợp đồng tương ứng mang những
sắc thái đặc điểm riêng cho từng đối tượng bảo hiểm đó.
Khác với hợp đồng bảo hiểm tài sản chỉ góp phần khắc phục hậu quả gây ra đối

với tài sản, bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của
người tham gia bảo hiểm như các HĐBH đầu tư cho con cái, hợp đồng đó sẽ giúp
cho những người con có thể an tâm sinh sống và hoàn thành được con đường học
tập, vì dù cha mẹ không may có mất đi hoặc mất khả năng lao động thì con cái vẫn
được chu cấp tiền hàng năm trong những năm học. Quyền lợi học vấn với trị giá
175% Số tiền bảo hiểm (STBH) được đảm bảo và được chi trả tăng dần trong 5 năm
cuối của hợp đồng.
Ngoài ra, khách hàng sẽ nhận thêm các khoản lãi bao gồm bảo tức tích lũy và
lãi chia cuối hợp đồng.8Chính vì sự đa dạng trong các loại hình bảo hiểm nhân thọ
cùng với nhu cầu của người tham gia ngày càng nhiều nên đã làm cho thị trường
bảo hiểm nhân thọ rất phát triển ngày nay.

7

2013 Quốc Hội (2013), Điều 37 Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm sửa đổi bổ sung 2010

8

Chi tiết sản phẩm bảo hiểm nhân thọ Prudential, />
20


×