Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Luận văn thạc sĩ chính trị học nâng cao sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại bảo hiểm xã hội tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507 KB, 74 trang )

VIỆN
HÀN
LÂM
VIỆN HÀN LÂM
KHOA
HỌC
XÃ HỘI VIỆT NAM
KHOA
HỘI HỌC
VIỆTXÃ
NAM
KHOA HỌC
VIỆNXÃ
KHOA
HỘI
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ MINH HOÀNG

TRẦN XUÂN TRỌNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM
XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.


Các kết luận nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TRẦN XUÂN TRỌNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
Chƣơng 1. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA CẤP
ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO
HIỂM XÃ HỘI BẮC NINH .................................................................. 6
1.1. Nội dung lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán
bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh .................................................. 6
1.2. Phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức
cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh ......................................... 17
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG ĐỐI
VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI
TỈNH BẮC NINH ................................................................................ 23
2.1. Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại
Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh: những kết quả đạt được ................... 23
2.2. Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại
Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh: những hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế ................................................................................... 33
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY
ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM
XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH ................................................................. 43

3.1. Đổi mới nội dung lãnh đạo của cấp ủy Đảng về công tác tổ chức
cán bộ ................................................................................................ 43
3.2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng về công tác tổ
chức cán bộ ....................................................................................... 47
KẾT LUẬN .......................................................................................... 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................. 64


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1. BHXH

: Bảo hiểm xã hội

2. BHYT

: Bảo hiểm y tế

3. HĐND

: Hội đồng nhân dân

4. HĐLĐ

: Hợp đồng lao động

5. HTCT

: Hệ thống chính trị


6. UBND

: Uỷ ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta
luôn xác định công tác tổ chức cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng. Nói cách khác, đây là khâu trọng yếu trong hoạt động của
Đảng, đóng vai trò quyết định sự thành công của cách mạng. Công tác cán
bộ được hợp thành bởi nhiều bước có tính chất liên hoàn, đan xen nhau như:
đánh giá cán bộ, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử
dụng cán bộ. Việc chuẩn bị đường lối chính trị, chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội của Nhà nước ta không thể tách rời chiến lược cán bộ và xây dựng
quy hoạch cán bộ. Đường lối cán bộ có mục đích phù hợp với đường lối
chính trị và phải đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của quốc gia.
Sinh thời, chủ tích Hồ Chí Minh đã từng ghi nhận: “Cán bộ là gốc của
mọi công việc… Đặc biệt là trong hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí
Minh lại càng nhấn mạnh đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ đủ sức, đủ tài,
vừa hồng vừa chuyên để có thể hoàn thành sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là kim chỉ nam
cho sự nghiệp cách mạng của nước ta. Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là
nhân tố vô cùng quan trọng của bộ máy Đảng, Nhà nước, Nhân dân, “là
những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành.
Tiếp thu tư tưởng đó, trong sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh tới yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ
nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt nói riêng một cách đồng bộ, toàn
diện; coi đây là một trong những vấn đề mấu chốt, là điều kiện quyết định

sự thành bại của cách mạng. Như vậy, công tác cán bộ có vị trí hết sức quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo.
1


Công cuộc đổi mới đất nước ngày càng phát triển sâu rộng, đạt được
những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng, đưa Việt Nam vững bước
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Song thời cơ, nguy
cơ, thách thức luôn đan xen nhau trong một thế giới hội nhập phức tạp. Hơn
lúc nào hết, đội ngũ cán bộ chủ chốt trong các cơ quan nhà nước có vai trò
quan trọng cho sự ổn định, phát triển của đất nước và cả hệ thống chính trị.
Mặc dù Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách và nỗ lực xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhưng còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải
nghiên cứu để có những giải pháp thực hiện có hiệu quả.
Thấm nhuần tư tưởng đó, trong những năm qua, các cấp ủy Đảng
thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh luôn quan tâm lãnh đạo xây dựng và
phát triển đội ngũ cán bộ. Công tác tổ chức cán bộ của Bảo hiểm xã hội Bắc
Ninh bên cạnh những ưu điểm vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Những hạn
chế này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và
tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của cơ quan. Thực tiễn
trên đòi hỏi các cấp ủy Đảng cần đổi mới nội dung và phương thức lãnh
đạo, chỉ đạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ để họ thực
sự phát huy vai trò, năng lực, tiên phong trong việc vận dụng chủ trương,
đường lối của Đảng vào thực tiễn công tác, góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Nâng cao sự lãnh đạo của cấp
ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc
Ninh” làm nội dung nghiên cứu của luận văn
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác tổ chức cán bộ là một nội dung quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng, vì thế nên trong những năm vừa qua đã có không ít các

công trình nghiên cứu có liên quan đến công tác cán bộ cũng như các giải
pháp nhằm đổi mới, nâng cao sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác này.
2


Các công trình được thể hiện đa dạng dưới nhiều hình thức và góc độ tiếp
cận. Có thể kể đến một số công trình như: cuốn sách “Luận cứ khoa học cho
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (của Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân
Sầm, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2002); cuốn sách “Công tác cán bộ trong
quân đội, quá trình hình thành và phát triển: Biên niên sự kiện và tư liệu
(1975 - 1990)” (của nhiều tác giả, Nxb Quân đội nhân dân, năm ...); cuốn
sách “Lịch sử công tác tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 2000)” (của Nguyễn Hữu Tri chủ biên, và Nguyễn Thị Phương Hồng, Nxb
Chính trị quốc gia, năm 2005); cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
và công tác cán bộ” (của tác giả Bùi Đình Phong, Nxb Lao động, năm
2007); cuốn sách “Xây dựng, chỉnh đốn, củng cố tổ chức Đảng dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới” (của nhiều tác giả, Nxb
Thanh niên, năm 2010); cuốn sách“Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức nhà nước” (của nhiều tác giả, Nxb Chính trị Quốc
gia, năm 2013); bài viết “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ góc nhìn
chuỗi kết quả và chỉ số đánh giá” (của Đoàn Văn Dũng, Tạp chí lý luận
chính trị, số 4 – 2014); và nhiều công trình khác.
Những công trình trên đã đi sâu phân tích các quan điểm của Đảng và
Nhà nước Việt Nam về công tác cán bộ, nội dung, phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với công tác này. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên
cứu về công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài: trên cơ sở làm sáng tỏ nội dung và
phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh

về công tác tổ chức cán bộ; thực trạng lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo
hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác cán bộ (những kết quả đạt được,
3


những hạn chế, khó khăn); luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ
chức cán bộ.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Làm rõ nội dung và phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo
hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ chức cán bộ.
- Phân tích thực trạng lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội
tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ chức cán bộ (những kết quả đạt được, những
hạn chế, khó khăn).
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các cấp
ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ chức cán bộ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự lãnh đạo của các cấp ủy
Đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh đối với công tác tổ chức cán bộ.
Phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là Bảo hiểm xã hội ở địa bàn
tỉnh Bắc Ninh trong thời gian từ năm 2013 đến 6 tháng đầu năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp lịch sử, logic, phân tích,
tổng hợp. Ngoài ra còn có một số phương pháp khác được vận dụng như:
thống kê, đối chiếu, so sánh... Những phương pháp này sẽ được vận dụng
phù hợp trong từng vấn đề nghiên cứu tại luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Cung cấp thêm những tư liệu về nội dung và phương thức lãnh đạo
của các ấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ nói trong Bảo hiểm xã hội tỉnh
Bắc Ninh.

- Góp phần chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế trong sự lãnh đạo
của các cấp ủy Đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh đối với công tác tổ
chức cán bộ.
4


- Đề xuất được những giải pháp phù hợp và có tính ứng dụng cao
nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các cấp ủy đảng Bảo hiểm xã hội tỉnh
Bắc Ninh về công tác cán bộ
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với
công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh.
Chương 2: Thực trạng lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ
chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Giải pháp nâng cao sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với
công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh.

5


Chƣơng 1
NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG THỨC LÃNH ĐẠO
CỦA CẤP ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ
TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮC NINH
1.1. Nội dung lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ
chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh
Trước khi phân tích nội dung lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với
công tác cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh, chúng ta cần xác
định nội hàm của khái niệm cán bộ và công tác tổ chức cán bộ.
Cán bộ được hiểu bao gồm cả công chức, viên chức, người làm

việc trong các tổ chức của hệ thống chính trị, người làm việc các doanh
nghiệp nhà nước, người làm việc các đơn vị sự nghiệp công lập. Như
vậy, cán bộ Việt Nam có các đặc điểm như sau.
Thứ nhất, cán bộ là người được tuyển chọn thông qua chế độ bầu
cử, phê chuẩn, bổ nhiệm cán bộ. Đó là những người được bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ đối với các cơ
quan, tổ chức, đơn vị ở cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện. Riêng với
cán bộ cấp xã thì chỉ được bầu cử không có chế độ phê chuẩn hay bổ
nhiệm. Bởi bầu cử, phê chuẩn hay bổ nhiệm cán bộ chịu sự tác động của
quy định, điều lệ đối với từng cơ quan, đơn vị, tổ chức đó.
Theo đó, đảng viên có quyền ứng cử, đề cử, bầu các chức danh,
chức vụ trong cơ quan lãnh đạo của Đảng như Tổng Bí thư. Theo Điều
24 Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 qui định: “Việc bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm chức vụ, chức danh cán bộ theo nhiệm kỳ trong cơ quan
nhà nước từ trung ương đến cấp huyện được thực hiện theo quy định của
Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức
6


Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân,
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật kiểm toán nhà nước, Luật bầu
cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân”. Ví dụ:
“Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội do
UBTV Quốc hội giới thiệu. Theo đề nghị của Chủ tịch nước, Quốc hội
bầu Phó Chủ tịch nước trong số các đại biểu Quốc hội; phê chuẩn danh
sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh” (Điều 81 Luật tổ chức
Quốc hội năm 2001).
Thứ hai, cán bộ là người giữ các chức vụ, chức danh và hoạt động
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và tổ chức chính
trị - xã hội.

Thứ ba, cán bộ là người công tác theo nhiệm kỳ. Nhiệm kỳ là thời
hạn giữ chức danh, chức vụ. Thời hạn đó thường được định ra trước
trong các văn bản chính thức. Ví dụ: nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà
nước là 7 năm, có thể được bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ
(khoản 3 Điều 17 Luật kiểm toán nhà nước năm 2005).
Thứ tư, cán bộ là người được sắp xếp theo biên chế và trả lương từ
ngân sách của nhà nước. Theo Điều 12 Luật Cán bộ công chức năm
2008: cán bộ “Được Nhà nước bảo đảm tiền lương tương xứng với
nhiệm vụ, quyền hạn được giao, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội
của đất nước. Cán bộ, công chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo,
vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế – xã
hội đặc biệt khó khăn hoặc trong các ngành, nghề có môi trường nguy
hiểm, nguy hiểm được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy
định của pháp luật. Và được hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm,
công tác phí và các chế độ khác theo quy định của pháp luật”.

7


Công tác tổ chức cán bộ là toàn bộ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện của cấp có thẩm quyền nhằm phát huy cao nhất tiềm năng
của cán bộ trong hệ thống chính trị và toàn xã hội, phát triển nguồn nhân
lực và xâu dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ của từng thời kỳ. Cấp có thẩm quyền trong công tác cán bộ ở Việt
Nam là Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Với cách hiểu về cán bộ và công tác tổ chức cán bộ như trên, sự
lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ ở Việt Nam nói chung
và ở Bảo hiểm xã hội Bắc Ninh nói riêng gồm những nội dung sau
Thứ nhất, Đảng phải biết cán bộ, dùng đúng cán bộ, cất nhắc đúng
cán bộ, thương yêu cán bộ, phê bình đúng cán bộ.

“Biết cán bộ” được hiểu là việc đánh giá đúng đắn phẩm chất và
năng lực của cán bộ. Việc “biết cán bộ” có vai trò rất quan trọng. Đánh
giá đúng cán bộ nhằm sử dụng cán bộ có hiệu quả cũng như là căn cứ
cho công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ. Việc đánh giá cán bộ không chỉ
được nhìn dưới góc độ là chỉ tập trung và phát hiện cái hay, cái tốt của
họ để khuyến khích, phát huy, mà còn phải bao hàm của việc thấy được
những thấy cái không hay, các còn tồn tại của họ để tìm cách giúp đỡ,
khắc phục.
Để làm tố việc này, Hồ Chí Minh đề cao các quan điểm và lý luận
biện chứng. Trong số cán bộ, có người khi trước theo cách mạng mà nay
phản cách mạng. Có người khi trước không cách mạng mà nay lại tham
gia cách mạng. Vì thế, khi xem xét, đánh giá cán bộ, không nên nhìn
phiến diện, mà phải nhìn toàn diện. Chủ tích Hồ Chí Minh cũng chỉ ra
rằng: Việc đánh giá cán bộ không thể chỉ căn cứ vào những biểu hiện
bên ngoài của họ, mà phải đi sâu tìm hiểu bản chất của họ; không thể chỉ
dựa vào một việc làm của họ, mà phải tìm hiểu tất cả các công việc mà
8


họ thực hiện; không thể chỉ xem xét cán bộ trong một thời điểm, mà phải
thấy rõ lịch sử của họ. Có cái nhìn toàn diện như vậy, ta mới có thể đánh
giá cán bộ một cách đúng đắn, khách quan [50, tr. 278].
Trên thực tế có không ít bệnh trong đánh giá cán bộ. Chẳng hạn đó
là bệnh ưa người ta nịnh mình, bệnh đem một cái khuân khổ chật hẹp,
nhất định mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau, v.v.. Đây đều là nhưng
biểu hiện của sự không khách quan, toàn diện trong những người làm
công tác cán bộ. Mình càng trong sang, “càng ít khuyết điểm thì cách
xem xét cán bộ càng đúng” [50, tr. 278]. Biết mình là khó, song không
biết mình thì không thể biết người. Đây còn được gọi là quan điểm “Tri
kỉ để tri nhân” trong triết học chính trị kết hợp với căn hóa phương Đông

đã được kết tinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ thời đại
mới.
“Dùng đúng cán bộ” là sử dụng đúng cán bộ. Việc dùng cán bộ thì
phải tuân thủ nguyên tắc “tùy tài mà dùng người”, công việc giao cho
cán bộ phải phù hợp với năng lực của họ. Nắm bắt được năng lực của
cán bộ mà dùng người thì sẽ phát huy được tài, do đó mà công việc
thành công. Việc này không những tránh lãng phí người tài, mà còn thúc
đẩy họ phát huy năng lực của cán bộ và phát hiện ra được nhiều người có
năng lực hơn nữa. Sử dụng cán bộ đúng năng lực, đúng sở trường thì sẽ
phát huy được ưu điểm của mỗi người, hạn chế được những điểm yếu
kém của họ.
Yêu cầu của việc sử dụng cán bộ nhìn thì dễ nhưng trên thực tế có
công việc này lại dễ bị chi phối bởi những biểu hiện tiêu cực như ưu ái
người thân quen, thích người nịnh hót… Những biểu hiện này không chỉ
gây hại cho công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước, mà còn gây hại cho
chính những người cán bộ không đủ năng lực, tài đức, bởi khi được dung
9


túng, cái xấu trong họ sẽ càng có điều kiện phát triển và làm lu mờ, hạn
chế những điểm tốt của họ.
Người lãnh đạo đối với công tác cán bộ không được tự cao tự đại,
mà phải nghe, phải hỏi ý kiến cấp dưới. Việc xây dựng môi trường làm
việc dân chủ sẽ tạo nên động lực tích cực thúc đẩy cán bộ ngày càng có
nhiều sáng kiến và hăng hái hơn trong công việc. Bên cạnh đó, người
lãnh đạo đối với công tác cán bộ phải mạnh dạn trao quyền, giao việc
cho cán bộ. Khi giao việc, ban đầu cần hướng dẫn họ những vấn đề cơ
bản rồi sau đó rồi tạo điều kiện để họ chủ động thực hiện công việc của
mình. Điều này đòi hỏi cũng cần phải có niềm tin đối với cán bộ. Việc
đặt lòng tin vào cán bộ để giao việc vừa là một cách đào tạo cán bộ, vừa

là cách tạo động lực hành động cho chính họ.
“Cất nhắc đúng cán bộ” là bố trí cán bộ là công việc quan trọng
hơn. Theo Hồ Chí Minh, khi cất nhắc cán bộ, phải vì công việc, vì cổ
động cho đồng chí khác thêm hăng hái; cất nhắc cán bộ phải xuất phát từ
hiệu quả công tác thực tế của cán bộ, và phải có tác dụng khuyến khích
các cán bộ khác vươn lên; cất nhắc cán bộ phải cho đúng; không nên cất
nhắc cán bộ như “giã gạo”; trước khi cất nhắc thì phải xem xét kỹ; khi
đã cất nhắc thì phải giúp đỡ; khi cán bộ mắc sai lầm thì hạ cấp, chờ lúc
họ làm khá, lại cất nhắc lên [50, tr. 282]. Cũng theo Hồ Chí Minh, đây là
hoạt động có tác động trực tiếp đến “lòng tự tin, tự trọng” của cán bộ.
Vì thế, người lãnh đạo phải biết “tôn trọng”, “vun trồng” lòng tự
tin, tự trọng của cán bộ. Trong công tác cất nhắc cán bộ, thái độ đó thể
hiện ở việc đánh giá đúng cán bộ, giao công việc phù hợp với phẩm chất
và năng lực cán bộ, thường xuyên quan tâm, động viên, giúp đỡ và kịp
thời nhắc nhở, uốn nắn sai lầm và khuyết điểm của cán bộ. Không nên
đợi đến khi các sai lầm, khuyết điểm của cán bộ trở nên nặng nề thì mớ
10


mang ra xử lý một lần. Như thế là “đập” cán bộ. Cán bộ bị “đập” thì mất
đi sự tự tin, từ chỗ hăng hái cũng hóa thành nản chí, từ nản chí mà trở
nên vô dụng.
“Yêu thương cán bộ” là tính nhân văn trong công tác cán bộ. Sử
dụng cán bộ không phải là phó mặc, vỗ về. Theo Hồ Chí Minh: thương
yêu cán bộ “là giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm”, “giúp họ giải quyết
những vấn đề khó khăn sinh hoạt, ngày thường thì điều kiện dễ chịu, khi
đau ốm được chăm sóc, gia đình họ khỏi khốn quẫn” [50, tr. 283]. Việc
thương yêu cán bộ phải luôn gắn liền với công tác của họ để khi có
khuyết điểm thì giúp họ sửa chữa ngay cũng như động viên, khuyến
khích kịp thời những lúc họ phát huy ưu điểm.

“Phê bình đúng cán bộ” là chỉ ra sai lầm, khuyết điểm của cán bộ.
Người cán bộ có thể có sai lầm và khuyết điểm. Người lãnh đạo phải là
người chỉ ra cho cán bộ của mình những hạn chế, khuyết điểm và giúp
họ nhìn nhận đúng đắn nhất, biết cách sửa chữa nhất.
Muốn khỏi bệnh thì phải có gan nói ra bệnh của mình với bác sỹ
và cố gắng chữa bệnh cho kỳ hết. Một người cán bộ chân chính cách
mạng không phải là người không bao giờ có sai lầm, khuyết điểm, mà là
những người có khả năng nhận thức được sai lầm, khuyết điểm của
mình, tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục những sai lầm, khuyết điểm
ấy. Cũng theo Hồ Chí Minh, đối với cán bộ mắc sai lầm, phải tìm cách
để họ tự nhận rõ sai lầm đó, làm cho họ vui lòng tự nguyện sửa đổi ;
tuyệt đối tránh thái độ qui chụp, công kích.
Thứ hai, Đảng phải đánh giá đúng cán bộ.
Đánh giá đúng cán bộ được coi là động lực quan trọng thúc đẩy
cán bộ phấn đấu vươn lên, tạo ra sự cạnh tranh trong chính các cán bộ,
kích thích lòng nhiệt huyết, sáng tạo đóng góp cho sự phát triển của tổ
11


chức. Thông qua đánh giá cán bộ để các cấp lãnh đạo thấy được những
chỗ còn thiếu sót trong chủ trương, đường lối, chính sách; trong công tác
lãnh đạo, quản lý tổ chức, để từ đó có biện pháp điều chỉnh, hoàn thiện
các công việc này ngày một tốt hơn. Khi đánh giá cán bộ thì phải: Phát
hiện mặt mạnh và mặt yếu của cán bộ, có biện pháp khuyến khích, thúc
đẩy mặt mạnh, khắc phục mặt yếu, hướng tới nâng cao hiệu quả công tác
cán bộ; xác định đúng căn cứ để thực hiện đúng các công tác khác của
công tác cán bộ (như: đề bạt, bổ nhiệm, miễn nhiệm, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, luân chuyển); phải dựa trên những tiêu chí khách quan, hạn
chế được những đánh giá theo ý chí chủ quan, cảm tính, phân biệt được
người có thành tích nổi trội với người yếu kém, đánh đồng người làm tốt

với người làm không tốt.
Tiêu chuẩn cán bộ là một cơ sở khoa học để đánh giá cán bộ. Tiêu
chuẩn cán bộ luôn thay đổi linh hoạt phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ
chính trị của cách mạng trong mỗi giai đoạn phát triển. Trong công cuộc
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì các tiêu chuẩn
chung cho cán bộ bao gồm: hết lòng phụng sự tổ quốc, tận tuỵ phục vụ
nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn
đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; kiên quyết không
tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng; ý thức tổ chức kỷ luật,
trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân; có trình độ về
lý luận chính trị, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; có trình
độ văn hoá, chuyên môn, đủ sức khoẻ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được
giao được học tập có hệ thống ở các trường của Đảng; đã trải qua hoạt
động thực tiễn có hiệu quả.

12


Ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
đoàn thể nhân dân, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang cần đáp ứng thêm
các tiêu chuẩn sau: tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân
dân, sẵn sàng hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; có tinh thần
cảnh giác cách mạng cao, có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ gìn bí
mật quân sự, bí mật quốc gia; nắm vững và có khả năng vận dụng sáng
tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối của Đảng vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân; nắm được những vấn đề cơ bản về quản lý kinh tế, xã hội.
Ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ, cán bộ khoa học, chuyên

gia cần đáp ứng thêm các tiêu chuẩn sau: có tư duy độc lập, sáng tạo; có
ý thức hợp tác, say mê trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công
nghệ; bám sát đời sống xã hội, có khả năng tổng kết thực tiễn; có khả
năng tập hợp và sáng tạo.
Ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ, cán bộ quản lý kinh doanh
cần đáp ứng thêm các tiêu chuẩn sau: có hiểu biết sâu sắc các quan điểm
kinh tế của Đảng; có phẩm chất đạo đức, cần kiệm liêm chính, không lợi
dụng chức quyền để tham ô, lãng phí, xa hoa; có kiến thức về kinh tế thị
trường và quản trị doanh nghiệp, hiểu biết khoa học, công nghệ, pháp
luật và thông lệ quốc tế; có khả năng tổ chức kinh doanh đạt hiệu quả
kinh tế - xã hội.
Ở các ngành, các cấp khác ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ
trên đây đều có các tiêu chuẩn riêng, cụ thể, sát hợp với từng ngành, cấp.
Thứ ba, Đảng phải quy hoạch đúng cán bộ.
Hoạt động này diễn ra đối với lãnh đạo lãnh đạo, quản lý các
ngành, các cấp, các lĩnh vực của hệ thống chính trị và nhằm mục đích
13


giúp họ hoàn thành có hiệu quả những nhiệm vụ đảm nhận và chuẩn bị
những điều kiện tốt cho giai đoạn tiếp theo. Việc quy hoạch cán bộ là
quan trọng vì đay là tiền đề để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cho phù hợp, tạo cơ hội cho họ phấn đấu, rèn luyện, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới của cách mạng nước ta.
Để phát huy cao nhất hiệu quả của công tác quy hoạch cán bộ,
Đảng phải thực sự gắn kết công tác này với tất cả các khâu khác trong
công tác cán bộ như: nhận xét, đánh giá cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ; luân chuyển, sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ.
Đảng cần thực hiện quy hoạch “động” và “mở”. Quy hoạch “mở”
là quy hoạch không khép kín trong từng ngành, từng địa phương, từng

đơn vị, không hạn chế một số ít người được định sẵn một cách chủ quan.
Trong quy hoạch, mỗi chức danh lãnh đạo cần có ít nhất từ hai đến ba
cán bộ dự bị. Mỗi cán bộ có thể dự kiến đảm nhiệm từ hai đến ba chức
danh. Quy hoạch “động” là quy hoạch được rà soát thường xuyên, được
điều chỉnh theo sát với yêu cầu thực tế của sự phát triển cán bộ, kịp thời
bổ sung những nhân tố mới vào quy hoạch. Đảng cần tạo ra “dòng chảy”
trong công tác quy hoạch cán bộ; hằng năm, phải rà soát lại đội ngũ cán
bộ trong quy hoạch để có sự điều chỉnh, bổ sung. Khi quy hoạch cán bộ,
Đảng phải tiến hành đồng bộ từ trên xuống dưới; hướng dẫn cấp dưới
quy hoạch cán bộ; lấy quy hoạch cán bộ cấp dưới làm cơ sở cho quy
hoạch cán bộ cấp trên; phải dựa trên căn cứ khoa học và thực tiễn; vừa
tạo nguồn cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, vừa tạo
động lực thúc đẩy, phát huy nhân tố chủ quan, phấn đấu vươn lên của
cán bộ; bảo đảm sự đoàn kết trong phát triển của toàn đội ngũ cán bộ; đề
phòng tư tưởng cơ hội, chạy theo quy hoạch; không cứng nhắc, máy móc

14


trong xây dựng và thực hiện quy hoạch; phải thực hiện công khai công
tác quy hoạch cán bộ theo đúng thẩm quyền quyết định quy hoạch.
Thứ tư, Đảng phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là: trang bị hệ thống thế giới
quan, nhân sinh quan, phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; hệ thống tri thức chuyên môn, kiến thức lãnh đạo,
quản lý và kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý đương chức và quy hoạch các cấp có phẩm chất đạo
đức, thái độ, hành vi ứng xử và kỷ luật nghề nghiệp, tận tụy với công vụ
và sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa; giúp cho cán bộ, đặc biệt là các cán bộ lãnh đạo, quản

lý, biết vận dụng linh hoạt phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào điều hành thực tiễn, có đủ năng lực lý luận, tri
thức hiện đại của nhân loại.
Yêu cầu về nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là: phải gắn lý luận
với sự vận động thực tiễn khách quan; phải nâng cao năng lực, trí tuệ
cho đội ngũ đảng viên, cán bộ lãnh đạo trong việc xử lý các vấn đề thực
tiễn một cách khoa học; hạn chế tới mức có thể tình trạng kinh nghiệm,
cảm tính; bảo đảm cập nhật kiến thức mới và kỹ năng nghiệp vụ đáp ứng
yêu cầu, tiêu chuẩn chức danh đối với từng đối tượng ở từng vị trí công
tác, phù hợp tình hình mới và yêu cầu cụ thể của từng lĩnh vực, địa
phương, vùng, miền; cung cấp cho người học tri thức khoa học, kỹ năng
xử lý tình huống chính trị thực tiễn; bảo đảm cân đối giữa việc bổ sung
kiến thức, nâng cao kỹ năng chuyên môn với giải đáp những vấn đề thực
tiễn cụ thể mới đang diễn ra trong ngành, địa phương.
Quá trình đào tạo, bồi dưỡng cần phải: có tính thường xuyên, liên
tục (bởi lẽ tri thức và các tình huống thực tiễn luôn vận động và thay đổi
15


theo thời gian); không rập khuôn nội dung đào tạo, bồi dưỡng sơ cứng và
bất biến với sự vận động khách quan; gắn học với hành, gắn lý luận với
thực tiễn.
Để đạt được những yêu cầu cơ bản này, trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng, Đảng cần phải đổi mới trong từng khâu; phải thiết kế nội dung
đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Thứ năm, Đảng phải điều động, luân chuyển cán bộ một cách đúng
đắn.
Điều động, luân chuyển cán bộ là sắp xếp cán bộ vào những vị trí
công tác mới. Hoạt động này nhằm thực hiện các mục tiêu chính sau đây
Thứ sáu, Đảng phải quản lý, sử dụng cán bộ một cách đúng đắn.

Để quản lý, sử dụng cán bộ một cách đúng đắn, Đảng cầ phải áp
dụng các nguyên tắc như sau.
Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, tiêu chuẩn, quy chế,
quy định về công tác cán bộ và thông qua các cấp uỷ, tổ chức Đảng,
đảng viên trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận, đoàn thể, doanh nghiệp,
đơn vị sự nghiệp nhà nước để lãnh đạo các cấp, các ngành tổ chức thực
hiện quyết định của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ; Đảng chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính trị trên mọi lĩnh
vực; Đảng trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo
chủ chốt các ngành, các cấp; đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ
chức thành viên trong hệ thống chính trị; Đảng phân công, phân cấp
quản lý cán bộ cho các cấp uỷ và tổ chức Đảng, đồng thời thường xuyên
kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, tập thể quyết định gắn với việc thực hiện trách nhiệm cá nhân
trong công tác quản lý cán bộ.
16


Cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm túc các nghị quyết,
quyết định của cấp uỷ cấp trên về cán bộ và công tác cán bộ.
Thứ bẩy, Đảng phải có chính sách cán bộ đúng đắn.
Chính sách cán bộ đúng đắn thể hiện các nội dung sau: chế độ đãi
ngộ phù hợp với vị trí, vai trò của cán bộ, công chức; có chính sách thu
hút nhân tài hiệu quả; có kế hoạch khích lệ, động viên tính tích cực, sáng
tạo, tinh thần thi đua vươn lên đạt thành tích cao trong công tác của cán
bộ.
Chính sách cán bộ đúng đắn phải phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo trong công tác của cán bộ. Chính sách cán bộ không phù
hợp thì sẽ làm cán bộ chán nản, không tích cực trong hoạt động và công

tác, làm giảm ý chí phấn đấu của cán bộ, không thu hút được cán bộ giỏi
vào tổ chức.
Chính sách cán bộ đúng đắn phải thể hiện tính lịch sử cụ thể.
Chính sách cán bộ không cố định mà luôn được đổi mới, điều chỉnh cho
phù hợp với yêu cầu, điều kiện của đất nước trong từng hoàn cảnh lịch
sử cụ thể. Trong giai đoạn mới hiện nay, công tác chính sách cán bộ
cũng phải thay đổi cho phù hợp, cập nhật và đáp ứng được những yêu
cầu, nhiệm vụ mới của đất nước.
Chính sách cán bộ đúng đắn phải phải bảo đảm công bằng, công
khai. Việc công khai mọi chính sách, chế độ đối với cán bộ cũng là một
trong những nguyên tắc tạo nên sự công bằng, dân chủ trong công tác
cán bộ.
1.2. Phƣơng thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức
cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh
Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức, phương
pháp, cách thức, quy chế, quy trình, phong cách, lề lối làm việc mà Đảng
17


sử dụng nhằm thực hiện thắng lợi cương lĩnh chính trị, đường lối, nghị
quyết của Đảng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với công tác cán bộ nói chung và đối với công tác cán bộ tại
Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh nói riêng như sau.
Thứ nhất, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức
cán bộ thông qua đường lối, chủ trương, chính sách.
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị nói chung và
lãnh đạo công tác cán bộ nói riêng được thể hiện thông qua việc đề ra
các chủ trương, đường lối, chính sách về cán bộ. Sau đó, Đảng phải đưa
ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng, phù hợp với từng thời kì. Khi

cuộc sống yêu cầu về công tác cán bộ thay đổi, thì đường lối, chính sách
của Đảng cũng cần có sự bổ sung và phát triển. Muốn đề ra đường lối,
chính sách đúng, có căn cứ khoa học, sát hợp với nhu cầu thực tiễn,
Đảng cần phải:
- Tổ chức tốt hệ thống thông tin từ trung ương đến cơ sở; định kỳ
điều tra nghiên cứu tình hình thực tế; nâng cao chất lượng công tác thu
thập, phân tích, tổng hợp tình hình, bảo đảm phản ánh kịp thời, chính
xác những tình hình cơ bản, những sự kiện quan trọng; kiên quyết chống
lối làm việc quan liêu, xa rời thực tế, xa rời cơ sở, xa rời quần chúng;
- Chống tác phong đại khái, hời hợt, không đi sâu vào thực chất
của vấn đề, của sự việc; tăng cường nghiên cứu lý luận và tổng kết kinh
nghiệm; phải tìm ra những nội dung, phương pháp và bước đi thích hợp;
phải giải quyết các vấn đề mới mẻ nảy sinh từ thực tiễn cách mạng Việt
Nam;
- Tổ chức chu đáo việc học tập lý luận Mác - Lênin, học tập những
kiến thức về kinh tế, về khoa học kỹ thuật cho đông đảo cán bộ, đảng
18


viên; thường xuyên đi sâu vào thực tiễn để phân tích, tổng kết kinh
nghiệm và khái quát lý luận cần thiết; không ngừng bổ sung, phát triển
và cụ thể hóa hơn nữa đường lối, chính sách của Đảng; phải kiện toàn
các cơ quan làm nhiệm vụ nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn; phải
nắm chắc bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
thấu suốt hơn quy luật phát triển của xã hội; “phải ngày càng trưởng
thành trong việc vận dụng những hiểu biết đó vào thực tiễn để định ra
đường lối, chính sách một cách đúng đắn và sáng tạo”.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ thông qua thể chế
hóa cương lĩnh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác
cán bộ thành pháp luật, chính sách của Nhà nước.

“Đảng không thể nào lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhân dân tiến hành
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mà không có Nhà nước, không
thông qua Nhà nước. Bàn về cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Nhân dân làm chủ, cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã từng chỉ rõ: Đảng lãnh
đạo thông qua Nhà nước, bằng Nhà nước. Đảng lãnh đạo nhân dân chứ
không phải Đảng thay thế nhân dân làm chủ Nhà nước. Đảng lãnh đạo
Nhà nước chứ không phải Đảng thay thế Nhà nước để cai trị. Như vậy,
muốn lãnh đạo công tác cán bộ thành công, Đảng phải lãnh đạo thông
qua chính các chủ trương, chính sách của Nhà nước về công tác cán bộ.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ thông qua công tác
chính trị, tư tưởng, thông qua vai trò tiên phong gương mẫu của đảng
viên.
Trong công tác chính trị, tư tưởng nói chung cũng như công tác
chính trị tư tưởng đối với cán bộ nói riêng, Đảng lãnh đạo thông qua
việc tổ chức chu đáo việc học tập lý luận Mác - Lênin, học tập những
kiến thức về kinh tế, về khoa học, kỹ thuật cho đông đảo cán bộ, đảng
19


viên, trước hết là cho các cán bộ cấp cao. Có như vậy, Đảng mới làm cho
mỗi cán bộ, đảng viên có phương pháp tư duy, hành động đúng đắn và
tham gia xây dựng đường lối cho Đảng. Đảng phải nghiên cứu, đề ra kế
hoạch học tập cho các loại cán bộ; đồng thời, phải có tổ chức, có kiểm
tra chặt chẽ; phải nghiêm khắc phê phán bệnh chủ quan, bệnh kinh
nghiệm, lười học, ngại học lý luận, thái độ coi thường lý luận, hoặc chỉ
lý luận suông, xem nhẹ việc nghiên cứu tình hình thực tế, tổng kết rút
kinh nghiệm.
Đảng viên phải gắn bó với quần chúng, Đảng viên vào Đảng là để
nhận nhiệm vụ cách mạng gian khổ, khó khăn, khi cần thì sẵn sàng hy
sinh tính mệnh và hạnh phúc riêng cho cách mạng. Trong điều kiện Đảng

cầm quyền, Đảng cử cán bộ, đảng viên vào các cơ quan nhà nước, các
đoàn thể. Công tác cán bộ phải được chỉ đạo tập trung của Đảng.
Sử dụng cán bộ cũng là một vấn đề quan trọng của Đảng. Dùng
đúng người, đúng việc, kết hợp đan xen giữa cán bộ trẻ có năng lực với
cán bộ cao tuổi có nhiều kinh nghiệm. Đảng ta cần chăm lo bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ lâu năm, đồng thời phải rất quan tâm bồi dưỡng, đào tạo
và mạnh dạn đề bạt thêm nhiều cán bộ trẻ có phẩm chất cách mạng cao,
có năng lực dồi dào, có sức vươn lên mạnh mẽ, xuất hiện trong các
phong trào cách mạng. Muốn Đảng cầm quyền vững mạnh, chi bộ mạnh,
thì chất lượng đảng viên phải tốt. Đảng viên phải tiên phong, gương
mẫu, có đạo đức cách mạng và năng lực hoàn thành nhiệm vụ. Đảng viên
phải hăng hái phấn đấu thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối,
Nghị quyết của Đảng, các chính sách, định hướng, gương mẫu dẫn đầu
trong chiến đấu và lao động sản xuất…
Thứ tư, Đảng lãnh đạo công cán bộ thông qua công tác kiểm tra.

20


Trong điều kiện đối với một đảng cầm quyền thường xuyên phải
đề phòng các nguy cơ, đó là dễ phạm phải sai lầm về chủ trương, đường
lối, bên cạnh đó việc cán bộ, đảng viên có quyền dễ sinh ra lạm dụng
quyền lực, xa dân, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Kiểm tra cần
phải có trọng tâm, phải nắm khâu mấu chốt, phải có yêu cầu cụ thể. Đối
tượng chủ yếu cần kiểm tra thường xuyên là đảng viên và các cấp ủy
đảng ở cơ sở. Như vậy, việc kiểm tra cần tập trung vào kiểm tra đảng ủy,
chi ủy, chi bộ và đảng viên trực tiếp ở từng cơ sở để thấy được các tổ
chức Đảng đó có lãnh đạo theo đúng chủ trương hay không.
Tiểu kết chƣơng
Hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ là

toàn bộ hoạt động chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các cấp ủy Đảng có
thẩm quyền nhằm phát huy cao nhất tiềm năng của cán bộ trong hệ thống
chính trị và toàn xã hội, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng đội ngũ
cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ. Nội dung lãnh đạo
của Đảng đối với công tác cán bộ gồm các khâu cơ bản như sau: đánh
giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; điều động và
luân chuyển cán bộ; quản lý và sử dụng cán bộ; đề ra chính sách cán bộ.
Các khâu cơ bản này đều có mối quan hệ mật thiết, không tách rời với
nhau, tạo tiền đề cũng như củng cố, bổ sung cho nhau cũng phát triển.
Việc đánh giá đúng cán bộ là khâu vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực
tiếp các khâu khác và quyết định đến chất lượng của các khâu này. Công
tác quy hoạch cán bộ là nền tảng, cơ sở, căn cứ cho việc luân chuyển và
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Luân chuyển đúng cán bộ là khâu đột phá.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch là khâu cơ bản có tính chiến
lược trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ cho tương lai. Phương thức
21


×