Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.16 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
KHOAVIỆN
VIỆNHÀN
KHOA
HỌC XÃ HỘI
LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ MINH HOÀNG
TRẦN XUÂN TRỌNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM
XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết luận nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TRẦN XUÂN TRỌNG




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
Chương 1. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA CẤP
ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO
HIỂM XÃ HỘI BẮC NINH......................................................................... 6
1.1. Nội dung lãnh đạo của cấp Ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ

tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh.............................................................. 6
1.2. Phương thức lãnh đạo của cấp Ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán

bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh....................................................... 16
Chương 2. THỰC TRẠNG LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI TỈNH BẮC
NINH.............................................................................................................20
2.1. Thực trạng sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán

bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh: những kết quả đạt được...............20
2.2. Sự lãnh đạo của cấp Ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại bảo

hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh: những hạn chế và nguyên nhân của những hạn
chế 36
Chương 3. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ
TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH...........................................44
3.1. Nhóm giải pháp đổi mới nội dung lãnh đạo của cấp ủy Đảng về công

tác tổ chức cán bộ......................................................................................44
3.2. Nhóm giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy Đảng về


công tác tổ chức cán bộ............................................................................. 51
KẾT LUẬN.................................................................................................. 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 68


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. BHXH

: Bảo hiểm xã hội

2. BHYT

: Bảo hiểm y tế

3. HĐND

: Hội đồng nhân dân

4. HĐLĐ

: Hợp đồng lao động

5. HTCT

: Hệ thống chính trị

6. UBND

: Uỷ ban nhân dân



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta
luôn xác định công tác tổ chức cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng. Nói cách khác, đây là khâu trọng yếu trong hoạt động lãnh đạo
của Đảng, đóng vai trò quyết định sự thành công của cách mạng. Công tác
cán bộ được hợp thành bởi nhiều bước có tính chất liên hoàn, đan xen nhau
như: đánh giá cán bộ, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử
dụng cán bộ. Việc chuẩn bị đường lối chính trị, chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội của Nhà nước ta không thể tách rời chiến lược cán bộ, xây dựng quy

hoạch cán bộ. Đường lối trong công tác quản lý cán bộ có mục đích phù hợp
với đường lối chính trị và phải đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị
của quốc gia.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng ghi nhận: “Cán bộ là gốc của
mọi công việc… Đặc biệt là trong hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí
Minh lại càng nhấn mạnh đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ đủ sức, đủ tài,
vừa hồng, vừa chuyên đề có thể hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của Đảng.
Tiếp thu tư tưởng đó, trong sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh tới yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ
nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt nói riêng một cách đồng bộ, toàn diện;
coi đây là một trong những vấn đề mấu chốt, là điều kiện quyết định sự
thành bại của cách mạng. Như vậy, công tác cán bộ có vị trí hết sức quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo.
Công cuộc đổi mới đất nước ngày càng phát triển sâu rộng, đạt được
những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng, đưa Việt Nam vững bước

trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Song thời cơ, nguy
5


cơ, thách thức luôn đan xen nhau trong một thế giới hội nhập phức tạp. Hơn
lúc nào hết, đội ngũ cán bộ chủ chốt trong các cơ quan Nhà nước có vai trò
quan trọng cho sự ổn định, phát triển của đất nước và cả hệ thống chính trị.
Mặc dù Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách và nỗ lực xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhưng còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải
nghiên cứu để có những giải pháp thực hiện có hiệu quả.
Thấm nhuần tư tưởng đó, trong những năm qua, các cấp Ủy Đảng
thuộc Bảo hiểm xã hội Tỉnh Bắc Ninh luôn quan tâm lãnh đạo xây dựng và
phát triển đội ngũ cán bộ. Công tác tổ chức cán bộ của Bảo hiểm xã hội Bắc
Ninh bên cạnh những ưu điểm vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Những hạn
chế này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo và
tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của cơ quan. Thực tiễn
trên đòi hỏi các cấp Ủy Đảng cần đổi mới nội dung và phương thức lãnh
đạo, chỉ đạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ để họ thực
sự phát huy vai trò, năng lực, tiên phong trong việc vận dụng chủ trương,
đường lối của Đảng vào thực tiễn công tác, góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo
của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh
Bắc Ninh” làm nội dung nghiên cứu của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Công tác tổ chức cán bộ là một nội dung quan trọng trong công tác
xây dựng Đảng, vì thế nên trong những năm vừa qua đã có không ít các
công trình nghiên cứu có liên quan đến công tác cán bộ cũng như các giải
pháp nhằm đổi mới. Các công trình được thể hiện đa dạng dưới nhiều hình
thức và góc độ tiếp cận. Có thể kể đến một số công trình như: cuốn sách

“Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời


kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (của Nguyễn Phú
Trọng và Trần Xuân Sầm, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2002); cuốn sách
“Công tác cán bộ trong quân đội, quá trình hình thành và phát triển: Biên
niên sự kiện và tư liệu (1975 - 1990)” (của nhiều tác giả, Nxb Quân đội nhân
dân, năm ...); cuốn sách “Lịch sử công tác tổ chức của Đảng Cộng sản Việt
Nam (1930 - 2000)” (của Nguyễn Hữu Tri chủ biên, và Nguyễn Thị Phương
Hồng, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2005); cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ và công tác cán bộ” (của tác giả Bùi Đình Phong, Nxb Lao
động, năm 2007); cuốn sách “Xây dựng, chỉnh đốn, củng cố tổ chức Đảng
dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới” (của nhiều tác giả,
Nxb Thanh niên, năm 2010); cuốn sách“Đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước” (của nhiều tác giả, Nxb Chính trị
Quốc gia, năm 2013); bài viết “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức từ
góc nhìn chuỗi kết quả và chỉ số đánh giá” (của Đoàn Văn Dũng, Tạp chí lý
luận chính trị, số 4 – 2014); và nhiều công trình khác.
Những công trình trên đã đi sâu phân tích các quan điểm của Đảng và
Nhà nước Việt Nam về công tác cán bộ, về nội dung, phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với công tác này. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên
cứu về công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu đề tài: trên cơ sở làm sáng tỏ nội dung và
phương thức lãnh đạo của các cấp Ủy đảng Bảo hiểm xã hội Tỉnh Bắc Ninh
về công tác tổ chức cán bộ; thực trạng lãnh đạo của các cấp Ủy đảng Bảo
hiểm xã hội Tỉnh Bắc Ninh về công tác cán bộ (những kết quả đạt được,
những hạn chế, khó khăn); luận văn đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả



lãnh đạo của các cấp Ủy đảng Bảo hiểm xã hội Tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ
chức cán bộ.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Làm rõ nội dung và phương thức lãnh đạo của các cấp Ủy đảng Bảo

hiểm xã hội Tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ chức cán bộ.
- Phân tích thực trạng lãnh đạo của các cấp Ủy đảng Bảo hiểm xã hội

Tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ chức cán bộ (những kết quả đạt được, những
hạn chế, khó khăn).
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các cấp

Ủy đảng Bảo hiểm xã hội Tỉnh Bắc Ninh về công tác tổ chức cán bộ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự lãnh đạo của các cấp Ủy
Đảng Bảo hiểm xã hội Tỉnh Bắc Ninh đối với công tác tổ chức cán bộ.
Phạm vi nghiên cứu chính của luận văn là Bảo hiểm xã hội ở địa bàn
Tỉnh Bắc Ninh trong thời gian từ năm 2013 đến 6 tháng đầu năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng một số phương pháp khác được vận dụng như: so
sánh, đối chiếu, thống kê... Những phương pháp này sẽ được vận dụng phù
hợp trong từng vấn đề nghiên cứu tại luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Cung cấp thêm những tư liệu về nội dung và phương thức lãnh đạo

của các ấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ nói trong Bảo hiểm xã hội tỉnh

Bắc Ninh.


- Góp phần chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế trong sự lãnh đạo

của các cấp Ủy Đảng Bảo hiểm xã hội Tỉnh Bắc Ninh đối với công tác tổ
chức cán bộ.
- Đề xuất được những giải pháp phù hợp và có tính ứng dụng cao

nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các cấp Ủy đảng Bảo hiểm xã hội Tỉnh
Bắc Ninh về công tác cán bộ
7. Kết cấu của luận văn

Luận văn được tác giả chia làm ba chương cụ thể:
Chương 1: Nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp Ủy Đảng đối
với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh.
Chương 2: Thực trạng lãnh đạo của cấp Ủy Đảng đối với công tác tổ
chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả lãnh đạo của cấp Ủy Đảng
đối với công tác tổ chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh.


Chương 1
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO
CỦA CẤP ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ
TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮC NINH

1.1. Nội dung lãnh đạo của cấp Ủy Đảng đối với công tác tổ chức

cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh

1.1.1. Khái niệm cán bộ

“Cán bộ” được hiểu bao gồm cả công chức, viên chức, người làm
việc trong các tổ chức của hệ thống chính trị, người làm việc các doanh
nghiệp Nhà nước, người làm việc các đơn vị sự nghiệp công lập.
1.1.2. Đặc điểm của cán bộ

Như vậy từ những khái niệm, quy định trên, cán bộ Việt Nam bao
gồm các đặc điểm như sau.
Thứ nhất, cán bộ là công dân Việt Nam. Ở đây cán bộ là những người
làm việc trong cơ quan Nhà nước Việt Nam, thực hiện các công việc hành
chính công phục vụ công dân Việt Nam và phục vụ đất nước Việt Nam, do
vậy, đặc điểm tiên quyết của cán bộ phải là Công dân có quốc tịch Việt Nam.
Thứ hai, cán bộ là người được tuyển chọn thông qua chế độ bầu cử,
phê chuẩn, bổ nhiệm cán bộ. Theo đó, Cán bộ phải là những người được
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ đối với
các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở cấp Trung ương, cấp Tỉnh và cấp Huyện. Cán
bộ phải có đủ tư cách đạo đức, phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn phù
hợp với chức danh, chức vụ được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm. Riêng đối
với cán bộ cấp xã thì chỉ được bầu cử, không có chế độ phê chuẩn hay bổ


nhiệm. Bởi vì tại mỗi cấp, việc bầu cử, phê chuẩn hay bổ nhiệm cán bộ chịu
sự tác động của quy định, điều lệ đối với từng cơ quan, đơn vị, tổ chức đó.
Theo đó, đảng viên có quyền ứng cử, đề cử, bầu các chức danh, chức vụ
trong cơ quan lãnh đạo của Đảng như Tổng Bí thư.
Ví dụ: “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội
do UBTV Quốc hội giới thiệu. Theo đề nghị của Chủ tịch nước, Quốc hội
bầu Phó Chủ tịch nước trong số các đại biểu Quốc hội; phê chuẩn danh sách
thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh” (Điều 81 Luật tổ chức Quốc

hội năm 2001).
Thứ ba, nơi làm việc của cán bộ là tại tổ chức của hệ thống chính trị,
các doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập. Theo đó, cán bộ là
người giữ các chức vụ, chức danh và hoạt động trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh.
Thứ tư, cán bộ là người công tác theo nhiệm kỳ. Nhiệm kỳ là thời hạn
giữ chức danh, chức vụ. Thời hạn đó thường được định ra trước trong các
văn bản chính thức.
Ví dụ: nhiệm kỳ của Tổng kiểm toán Nhà nước là 7 năm, có thể được
bầu lại nhưng không quá hai nhiệm kỳ (khoản 3 Điều 17 Luật kiểm toán
Nhà nước năm 2005).
Thứ năm, cán bộ là người được sắp xếp theo biên chế và trả lương từ
ngân sách của Nhà nước.
1.1.3. Khái niệm công tác tổ chức cán bộ

“Công tác tổ chức cán bộ” là toàn bộ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện của cấp có thẩm quyền nhằm phát huy cao nhất tiềm năng


của cán bộ trong hệ thống chính trị và toàn xã hội, phát triển nguồn nhân lực
và xâu dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của
từng thời kỳ. Cấp có thẩm quyền trong công tác cán bộ ở Việt Nam là Đảng,
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
1.1.4. Đặc điểm của công tác tổ chức cán bộ
- Một là, công tác tổ chức cán bộ hoạt động dưới sự lãnh đạo của

Đảng. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ,
đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị; bảo

đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định đôi với thực hiện đầy
đủ trách nhiệm cá nhân trong công tác quản lý cán bộ.
- Hai là, công tác tổ chức cán bộ có nội dung rộng. Nội dung ông tác

tổ chức cán bộ rất rộng, bao gồm: tuyển dụng, bố trí cán bộ, thực hiện việc
quản lý, sử dụng và phân công, phân cấp quản lý cán bộ; quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ; nhận xét đánh giá hằng năm hoặc theo nhiệm kỳ; bổ
nhiệm, miễn nhiệm cán bộ; khen thưởng, kỷ luật, bãi nhiệm cán bộ; thực
hiện chế độ, chính sách cán bộ, kiểm tra công tác cán bộ; giải quyết khiếu
nại, tố cáo cán bộ…
- Ba là, công tác tổ chức cán bộ đòi hỏi người làm công tác tổ chức

cán bộ phải hộ tụ được nhiều yêu cầu và tiêu chuẩn. Cán bộ làm công tác tổ
chức, trước hết phải là người có tinh thần yêu nước sâu sắc, tôn trọng phục
vụ nhân dân, kiên định lập trường, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, có trình độ chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để
phục vụ đất nước.
- Bốn là, công tác tổ chức cán bộ quyết định đến sự phát triển của tổ

chức. Làm tốt được công tác cán bộ sẽ xây dựng được cơ quan tổ chức, cán


bộ vững mạnh, góp phần xây dựng ngày một lớn mạnh hơn của tổ chức cán
bộ tại các cấp ủy Đảng.
1.1.5. Sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ ở Việt

Nam nói chung và ở Bảo hiểm xã hội Bắc Ninh nói riêng
Với cách hiểu về cán bộ và công tác tổ chức cán bộ như trên, sự lãnh
đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác cán bộ ở Việt Nam nói chung và ở

Bảo hiểm xã hội Bắc Ninh nói riêng gồm những nội dung sau.
Thứ nhất, Đảng phải biết cán bộ, dùng đúng cán bộ, cất nhắc đúng cán
bộ, thương yêu cán bộ, phê bình đúng cán bộ.
“Biết cán bộ” được hiểu là việc biết rõ, đánh giá đúng đắn phẩm chất
và năng lực của cán bộ. Việc “biết cán bộ” có vai trò rất quan trọng. Biết ở
đây là phải biết rõ, đánh giá đúng cán bộ nhằm sử dụng cán bộ có hiệu quả
cũng như là căn cứ cho công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ. Việc đánh giá
cán bộ không chỉ được nhìn dưới góc độ là chỉ tập trung và phát hiện cái
hay, cái tốt của họ để khuyến khích, phát huy, mà còn phải bao hàm của việc
thấy được những thấy cái không hay, các còn tồn tại của họ để tìm cách giúp
đỡ, khắc phục. Hồ Chí Minh cho rằng, cứ mỗi lần xem xét lại cán bộ, “một
mặt sẽ tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác thì những người hủ hóa cũng
lòi ra” Để làm tốt việc này, chủ tích Hồ Chì minh đề cao các quan điểm và
lý luận biện. Vì thế, khi xem xét, đánh giá cán bộ, không nên nhìn phiến
diện, mà phải nhìn toàn diện không thể chỉ dựa vào một việc làm của họ, mà
phải tìm hiểu tất cả các công việc mà họ thực hiện; không thể chỉ xem xét
cán bộ trong một thời điểm, mà phải thấy rõ lịch sử của họ; cần có cái nhìn
toàn diện như vậy, thì mới có thể đánh giá cán bộ một cách đúng đắn, khách
quan [50, tr. 278].


Trên thực tế có không ít bệnh trong đánh giá cán bộ. Chẳng hạn đó là
bệnh ưa người ta nịnh mình, bệnh đem một cái khuân khổ chật hẹp, nhất
định mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau, v.v.. Đây đều là nhưng biểu
hiện của sự không khách quan, toàn diện trong những người làm công tác
cán bộ. Biết mình là khó, song không biết mình thì không thể biết người.
Đây còn được gọi là quan điểm “tri kỉ để tri nhân” trong triết học chính trị
kết hợp với căn hóa phương Đông đã được kết tinh trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác cán bộ thời đại mới.
Đánh giá đúng cán bộ được coi là động lực thúc đẩy để cán bộ hăng

hái phấn đấu vươn lên, tạo ra sự cạnh tranh trong chính các cán bộ, kích
thích lòng nhiệt huyết, sáng tạo đóng góp cho sự phát triển của tổ chức.
Thông qua đánh giá cán bộ để các cấp lãnh đạo thấy được những chỗ còn
thiếu sót trong chủ trương, đường lối, chính sách; trong công tác lãnh đạo,
quản lý tổ chức, để từ đó có biện pháp điều chỉnh, hoàn thiện các công việc
này ngày một tốt hơn. Khi đánh giá cán bộ thì phải: phát hiện mặt mạnh và
mặt yếu của cán bộ, có biện pháp khuyến khích, thúc đẩy mặt mạnh, khắc
phục mặt yếu, hướng tới nâng cao hiệu quả công tác cán bộ; xác định đúng
căn cứ để thực hiện đúng các công tác khác của công tác cán bộ (như: đề bạt,
bổ nhiệm, miễn nhiệm, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển); phải
dựa trên những tiêu chí khách quan, hạn chế được những đánh giá theo ý chí
chủ quan, cảm tính, phân biệt được người có thành tích nổi trội với người
yếu kém, đánh đồng người làm tốt với người làm không tốt.
Tiêu chuẩn cán bộ là một cơ sở khoa học để đánh giá cán bộ. Tiêu
chuẩn cán bộ luôn thay đổi linh hoạt phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ chính
trị của cách mạng trong mỗi giai đoạn phát triển.
Ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ nói trên, cần đáp ứng thêm các
tiêu chuẩn sau:


- Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn,

tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật;
- Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của

Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;
- Gương mẫu về đạo đức, lối sống; có tác phong dân chủ, khoa học;

có khả năng tập hợp quần chúng, đoàn kết cán bộ;
- Có kiến thức về khoa học lãnh đạo quản lý; được học tập có hệ


thống ở các trường của Đảng. Đã trải qua hoạt động thực tiễn có hiệu quả.
Ở các ngành, các cấp khác ngoài các tiêu chuẩn chung của cán bộ trên
đây đều có các tiêu chuẩn riêng, cụ thể, sát hợp với từng ngành, cấp.
“Dùng đúng cán bộ” là sử dụng đúng, khéo dùng cán bộ. Việc dùng
cán bộ thì phải tuân thủ nguyên tắc “tùy tài mà dùng người”, công việc giao
cho cán bộ phải phù hợp với năng lực của họ. Nắm bắt được năng lực của
cán bộ mà dùng người thì sẽ phát huy được tài, do đó mà công việc thành
công. Việc này không những tránh lãng phí người tài, mà còn thúc đẩy họ
phát huy năng lực của cán bộ và phát hiện ra được nhiều người có năng lực
hơn nữa. Sử dụng cán bộ đúng năng lực, sở trường thì sẽ phát huy được cái
hay của mỗi người, hạn chế được những điểm yếu kém của họ. Lãnh đạo
khéo, tài nhỏ có thể hóa tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to cũng hóa ra tài
nhỏ” [50, tr. 280].
Yêu cầu của việc sử dụng cán bộ tuy rất đơn giản nhưng trên thực tế
có công việc này lại dễ bị chi phối bởi những biểu hiện tiêu cực như ưu ái
người thân quen, thích người nịnh hót… Những biểu hiện này không chỉ gây
hại cho công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước, mà còn gây hại cho chính
những người cán bộ không đủ năng lực, tài đức, bởi khi được dung túng, cái


xấu trong họ sẽ càng có điều kiện phát triển và làm lu mờ, hạn chế những
điểm tốt của họ
‘Tùy tài mà dung người”; phải tạo điều kiện để cán bộ phát huy năng
lực của họ; phải tạo môi trường dân chủ để “cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra
ý kiến” [50, tr. 280]. Người lãnh đạo đối với công tác cán bộ không được tự
cao tự đại, mà phải nghe, phải hỏi ý kiến cấp dưới. Việc xây dựng môi
trường làm việc dân chủ sẽ tạo nên động lực tích cực thúc đẩy cán bộ ngày
càng có nhiều sáng kiến và hăng hái hơn trong công việc. Bên cạnh đó,
người lãnh đạo đối với công tác cán bộ phải mạnh dạn trao quyền, giao việc

cho cán bộ. Khi giao việc, ban đầu cần hướng dẫn họ những vấn đề cơ bản
rồi sau đó rồi tạo điều kiện để họ chủ động thực hiện công việc của mình.
Điều này đòi hỏi cũng cần phải có niềm tin đối với cán bộ. Việc đặt lòng tin
vào cán bộ để giao việc vừa là một cách đào tạo cán bộ, vừa là cách tạo động
lực hành động cho chính họ.
“Cất nhắc đúng cán bộ” là bố trí cán bộ là công việc quan trọng hơn.
Theo Hồ Chí Minh, khi cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ
động cho đồng chí khác thêm hăng hái; cất nhắc cán bộ phải xuất phát từ
hiệu quả công tác thực tế của cán bộ, và phải có tác dụng khuyến khích các
cán bộ khác vươn lên; cất nhắc cán bộ phải cho đúng; không nên cất nhắc
cán bộ như “giã gạo”; trước khi cất nhắc thì phải xem xét kỹ; khi đã cất nhắc
thì phải giúp đỡ; khi cán bộ mắc sai lầm thì hạ cấp, chờ lúc họ làm khá, lại
cất nhắc lên [50, tr. 282]. Cũng theo Hồ Chí Minh, đây là hoạt động có tác
động trực tiếp đến “lòng tự tin, tự trọng” của cán bộ. Không nên đợi đến khi
các sai lầm, khuyết điểm của cán bộ trở nên nặng nề thì mới mang ra xử lý
một lần. Như thế là “đập” cán bộ. Cán bộ bị “đập” thì mất đi sự tự tin, từ chỗ
hăng hái cũng hóa thành nản chí, từ nản chí mà trở nên vô dụng.


“Yêu thương cán bộ” là tính nhân văn trong công tác cán bộ. Theo
Hồ Chí Minh: thương yêu cán bộ “là giúp họ học tập thêm, tiến bộ thêm”,
“giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn sinh hoạt, ngày thường thì điều
kiện dễ chịu, khi đau ốm được chăm sóc, gia đình họ khỏi khốn quẫn” [50,
tr. 283]. Việc thương yêu cán bộ phải luôn gắn liền với công tác của họ để
khi có khuyết điểm thì giúp họ sửa chữa ngay cũng như động viên, khuyến
khích kịp thời những lúc họ phát huy ưu điểm. Đối với những cán bộ mắc
sai lầm, không nên nhận rằng họ muốn như thế mà công kịch họ.
“Phê bình đúng cán bộ” là chỉ ra sai lầm, khuyết điểm của cán bộ.
Người cán bộ có thể có sai lầm và khuyết điểm. Người lãnh đạo phải là
người chỉ ra cho cán bộ của mình những hạn chế, khuyết điểm và giúp họ

nhìn nhận đúng đắn nhất, biết cách sửa chữa nhất. Cũng theo Hồ Chí Minh,
đối với cán bộ mắc sai lầm, phải tìm cách để họ tự nhận rõ sai lầm đó, làm cho
họ vui lòng tự nguyện sửa đổi; tuyệt đối tránh thái độ qui chụp, công kích.
Thứ hai, Đảng phải quy hoạch đúng cán bộ.
Hoạt động này diễn ra đối với lãnh đạo lãnh đạo, quản lý các ngành,
các cấp, các lĩnh vực của hệ thống chính trị và nhằm mục đích giúp họ hoàn
thành có hiệu quả những nhiệm vụ đảm nhận và chuẩn bị những điều kiện
tốt cho thời kỳ, giai đoạn cách mạng tiếp theo. Việc quy hoạch cán bộ là
quan trọng vì đây là tiền đề để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho
phù hợp, tạo cơ hội cho họ phấn đấu, rèn luyện, không ngừng vươn lên đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Để phát huy cao nhất hiệu quả của công tác quy hoạch cán bộ, Đảng
phải thực sự gắn kết công tác này với tất cả các khâu khác trong công tác
cán bộ như: nhận xét, đánh giá cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân
chuyển, sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ. Đảng cần thực hiện quy hoạch
“động” và “mở”. Quy hoạch “mở” là quy hoạch không khép kín trong từng


ngành, từng địa phương, từng đơn vị, không hạn chế một số ít người được
định sẵn một cách chủ quan. Trong quy hoạch, mỗi chức danh lãnh đạo cần
có ít nhất từ hai đến ba cán bộ dự bị. Mỗi cán bộ có thể dự kiến đảm nhiệm
từ hai đến ba chức danh. Quy hoạch “động” là quy hoạch được rà soát
thường xuyên, được điều chỉnh theo sát với yêu cầu thực tế của sự phát triển
cán bộ, kịp thời bổ sung những nhân tố mới vào quy hoạch. Đảng cần tạo ra
“dòng chảy” trong công tác quy hoạch cán bộ; hằng năm, phải rà soát lại đội
ngũ cán bộ trong quy hoạch để có sự điều chỉnh, bổ sung.
Khi quy hoạch cán bộ, Đảng phải tiến hành đồng bộ từ trên xuống
dưới; hướng dẫn cấp dưới quy hoạch cán bộ; lấy quy hoạch cán bộ cấp dưới
làm cơ sở cho quy hoạch cán bộ cấp trên; phải dựa trên căn cứ khoa học và
thực tiễn; vừa tạo nguồn cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý,

vừa tạo động lực thúc đẩy, phát huy nhân tố chủ quan, phấn đấu vươn lên
của cán bộ; bảo đảm sự đoàn kết trong phát triển của toàn đội ngũ cán bộ; đề
phòng tư tưởng cơ hội, chạy theo quy hoạch; không cứng nhắc, máy móc
trong xây dựng và thực hiện quy hoạch; phải thực hiện công khai công tác
quy hoạch cán bộ theo đúng thẩm quyền quyết định quy hoạch.
Thứ ba, Đảng phải đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là: trang bị hệ thống thế giới
quan, nhân sinh quan, phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh; trang bị hệ thống tri thức chuyên môn, kiến thức lãnh đạo,
quản lý và kỹ năng nghề nghiệp cho cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý đương chức và quy hoạch các cấp có phẩm chất đạo đức, thái
độ, hành vi ứng xử và kỷ luật nghề nghiệp, tận tụy với công vụ và sự nghiệp
đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
giúp cho cán bộ, đặc biệt là các cán bộ lãnh đạo, quản lý, biết vận dụng linh


hoạt phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào
điều hành thực tiễn, có đủ năng lực lý luận, tri thức hiện đại của nhân loại.
Yêu cầu về nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là: phải gắn lý luận
với sự vận động thực tiễn khách quan; phải nâng cao năng lực, trí tuệ cho
đội ngũ đảng viên, cán bộ lãnh đạo trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn một
cách khoa học; hạn chế tới mức có thể tình trạng kinh nghiệm, cảm tính; bảo
đảm cập nhật kiến thức mới và kỹ năng nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu, tiêu
chuẩn chức danh đối với từng đối tượng ở từng vị trí công tác, phù hợp tình
hình mới và yêu cầu cụ thể của từng lĩnh vực, địa phương, vùng, miền; cung
cấp cho người học tri thức khoa học, kỹ năng xử lý tình huống chính trị thực
tiễn; bảo đảm cân đối giữa việc bổ sung kiến thức, nâng cao kỹ năng chuyên
môn với giải đáp những vấn đề thực tiễn cụ thể mới đang diễn ra trong
ngành, tại địa phương.
Quá trình đào tạo, bồi dưỡng cần phải: có tính thường xuyên, liên tục

(bởi lẽ tri thức và các tình huống thực tiễn luôn vận động và thay đổi theo
thời gian); không rập khuôn nội dung đào tạo, bồi dưỡng sơ cứng và bất biến
với sự vận động khách quan; gắn học với hành, gắn lý luận với thực tiễn. Để
đạt được những yêu cầu cơ bản này, trong công tác đào tạo, bồi dưỡng,
Đảng cần phải đổi mới trong từng khâu; phải thiết kế nội dung đào tạo, bồi
dưỡng phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Thứ tư, Đảng phải điều động, luân chuyển cán bộ một cách đúng đắn.
Điều động, luân chuyển cán bộ là sắp xếp cán bộ vào những vị trí
công tác mới. Hoạt động này nhằm thực hiện các mục tiêu chính sau đây:
Thứ năm, Đảng phải quản lý, sử dụng cán bộ một cách đúng đắn.
Để quản lý, sử dụng cán bộ một cách đúng đắn, Đảng cầ phải áp dụng
các nguyên tắc như sau. Đảng trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ, trước hết là


cán bộ lãnh đạo chủ chốt các ngành, các cấp; đồng thời, phát huy trách
nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị; Đảng phân công,
phân cấp quản lý cán bộ cho các cấp uỷ và tổ chức Đảng, đồng thời thường
xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác cán bộ của các ngành, các cấp.
Thứ sáu, Đảng phải có chính sách cán bộ đúng đắn.
Chính sách cán bộ đúng đắn thể hiện các nội dung sau: có chế độ đãi
ngộ phù hợp với vị trí, vai trò của cán bộ, công chức; có chính sách thu hút
nhân tài hiệu quả; có kế hoạch khích lệ, động viên tính tích cực, sáng tạo,
tinh thần thi đua vươn lên đạt thành tích cao trong công tác của cán bộ.
Chính sách cán bộ đúng đắn phải phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo trong công tác của cán bộ.
Chính sách cán bộ không cố định mà luôn được đổi mới, điều chỉnh
cho phù hợp với yêu cầu, điều kiện của đất nước trong từng hoàn cảnh lịch
sử cụ thể. Trong giai đoạn mới hiện nay, công tác chính sách cán bộ cũng
phải thay đổi cho phù hợp, cập nhật và đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm
vụ mới của đất nước.

Chính sách cán bộ đúng đắn phải phải bảo đảm công bằng, công khai.
Chính sách cán bộ công bằng có nghĩa là mọi cán bộ trong diện chính sách
Việc công khai mọi chế độ chính sách đối với cán bộ cũng là một nguyên tắc
tạo nên sự công bằng trong công tác cán bộ.
1.2. Phương thức lãnh đạo của cấp Ủy Đảng đối với công tác tổ

chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh
Các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ nói
chung và đối với công tác cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh nói
riêng gồm các nội dung như sau.


Thứ nhất, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức
cán bộ thông qua đường lối, chủ trương, chính sách.
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị nói chung và lãnh
đạo công tác cán bộ nói riêng được thể hiện thông qua việc đề ra các chủ
trương, đường lối, chính sách về cán bộ. Sau đó, Đảng phải đưa ra đường
lối, chủ trương, chính sách đúng, phù hợp với từng thời kì. Khi cuộc sống
yêu cầu về công tác cán bộ thay đổi, thì đường lối, chính sách của Đảng
cũng cần có sự bổ sung và phát triển.
- Tổ chức tốt hệ thống thông tin từ Trung ương đến cơ sở; định kỳ

điều tra nghiên cứu tình hình thực tế; nâng cao chất lượng công tác thu thập,
phân tích, tổng hợp tình hình, bảo đảm phản ánh kịp thời, chính xác những
tình hình cơ bản, những sự kiện quan trọng; kiên quyết chống lối làm việc
quan liêu, xa rời thực tế, xa rời cơ sở, xa rời quần chúng;
- Chống tác phong đại khái, hời hợt, không đi sâu vào thực chất của

vấn đề, của sự việc; tăng cường nghiên cứu lý luận và tổng kết kinh nghiệm;
phải tìm ra những nội dung, phương pháp và bước đi thích hợp; phải giải

quyết các vấn đề mới mẻ nảy sinh từ thực tiễn cách mạng Việt Nam;
- Tổ chức chu đáo việc học tập lý luận Mác - Lênin, học tập những

kiến thức về kinh tế, về khoa học kỹ thuật cho đông đảo cán bộ, Đảng viên;
thường xuyên đi sâu vào thực tiễn để phân tích, tổng kết kinh nghiệm và
khái quát lý luận cần thiết; không ngừng bổ sung, phát triển và cụ thể hóa
hơn nữa đường lối, chính sách của Đảng; phải kiện toàn các cơ quan làm
nhiệm vụ nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn; Phải nắm chắc bản chất
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, thấu suốt hơn quy luật
phát triển của xã hội; Phải ngày càng trưởng thành trong việc vận dụng
những hiểu biết đó vào thực tiễn để định ra đường lối, chính sách một cách
đúng đắn và sáng tạo.


Thứ hai, Đảng lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ thông qua thể chế hóa
cương lĩnh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ
thành pháp luật, chính sách của Nhà nước.
Bàn về cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ,
cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã từng chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo thông qua Nhà
nước, bằng Nhà nước. Đảng lãnh đạo nhân dân chứ không phải Đảng thay
thế nhân dân làm chủ Nhà nước. Như vậy, muốn lãnh đạo công tác cán bộ
thành công, Đảng phải lãnh đạo thông qua chính các chủ trương, chính sách
của Nhà nước về công tác cán bộ.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ thông qua công tác
chính trị, tư tưởng, thông qua vai trò tiên phong gương mẫu của Đảng viên.
Đảng cần nghiên cứu, đề ra kế hoạch học tập cho các loại cán bộ;
đồng thời, phải có tổ chức, có kiểm tra chặt chẽ; nghiêm khắc phê phán bệnh
chủ quan, bệnh kinh nghiệm, lười học, ngại học lý luận, thái độ coi thường
lý luận, hoặc chỉ lý luận suông, xem nhẹ việc nghiên cứu tình hình thực tế,
tổng kết rút kinh nghiệm.

Thứ tư, Đảng lãnh đạo công cán bộ thông qua công tác kiểm tra.
Việc kiểm tra cần phải được thực hiện có trọng tâm, nắm bắt chính
xác khâu mấu chốt; phải có yêu cầu cụ thể, nếu không thì sẽ kiểm tra chung
chung hoặc miên man không có kết quả.


Tiểu kết chương
Hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ là toàn
bộ hoạt động chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các cấp ủy Đảng có thẩm quyền
nhằm phát huy cao nhất tiềm năng của cán bộ trong hệ thống chính trị và
toàn xã hội, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ. Việc lãnh đạo của Đảng đối với công tác
cán bộ được biểu thị qua các khâu cơ bản như sau: đánh giá cán bộ; quy
hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; điều động và luân chuyển cán bộ;
quản lý và sử dụng cán bộ; đề ra chính sách cán bộ. Các khâu cơ bản này
đều có mối quan hệ mật thiết, không tách rời với nhau, tạo tiền đề cũng như
củng cố, bổ sung cho nhau cũng phát triển. Luân chuyển đúng cán bộ là
khâu đột phá. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch là khâu cơ bản có
tính chiến lược trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ cho tương lai. Phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ là lãnh đạo thông qua đường
lối, chủ trương, chính sách; thông qua công tác chính trị, tư tưởng; thông qua
thực tiễn từ chính công tác cán bộ và vai trò tiên phong gương mẫu của cán
bộ, đảng viên; và thông qua công tác kiểm tra của Đảng. Mà trong các
phương thức trên, Đảng lãnh đạo công tác cán bộ thông qua đảng viên là
phương thức lãnh đạo chủ yếu nhất.


Chương 2
THỰC TRẠNG LÃNH ĐẠO CỦA CẤP ỦY ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG
TÁC TỔ CHỨC CÁN BỘ TẠI BẢO HIỂM XÃ HỘI TỈNH BẮC NINH


2.1. Thực trạng sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác tổ

chức cán bộ tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh: những kết quả đạt được
2.1.1. Đặc điểm tình hình tổ chức bộ máy của bảo hiểm xã hội tỉnh

Bắc Ninh
- về quá trình thành lập: bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh được thành

lập đi vào hoạt động từ ngày 01/10/1997, theo Quyết định số 1613/bảo hiểm
xã hội/QĐ-TCCB, ngày 16/9/1997 của Tổng Giám đốc bảo hiểm xã hội Việt
Nam. Tổ chức bộ máy khi mới được thành lập có 05 phòng chuyên môn, 06
bảo hiểm xã hội huyện, thị xã trực thuộc, với 68 cán bộ, công chức, viên
chức. Từ tháng 01/2003, bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh tiếp nhận Bảo hiểm
y tế (bảo hiểm y tế) tỉnh Bắc Ninh, hoạt động theo tổ chức mới, với chức
năng, nhiệm vụ mới.
Tổ chức bộ máy hiện nay của bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh gồm 11
phòng chuyên môn, 08 Bảo hiểm xã hội huyện, thị xã, thành phố trực thuộc.
Tổng số công chức, viên chức và người lao động toàn ngành hiện có 265
người. Tổ chức Đảng, đoàn thể trực thuộc gồm: Đảng bộ Bảo hiểm xã hội
tỉnh có 11 Chi bộ đảng trực thuộc với tổng số 89 đảng viên (toàn Ngành là
172 đảng viên); Công đoàn Ngành gồm 10 Công đoàn cơ sở với tổng số 265
đoàn viên; Đoàn thanh niên cơ quan gồm 28 đoàn viên và Hội Cựu chiến
binh Bảo hiểm xã hội tỉnh gồm 11 hội viên.
- Về quyền hạn: Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh có nhiệm vụ xây

dựng, trình Tổng Giám đốc kế hoạch ngắn hạn và dài hạn về phát triển bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh bắc ninh
24



và chương trình công tác hàng năm. tổ chức thực hiện kế hoạch, chương
trình sau khi được phê duyệt về các mặt công tác: quản lý thu, chi trả, giải
quyết các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; cấp
sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế cho người tham gia; thực hiện thanh
tra, kiểm tra chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp; cải cách thủ tục hành chính; quản lý, lưu trữ hồ sơ tài liệu
hành chính, nghiệp vụ và hồ sơ đối tượng tham gia, hưởng các chế độ bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; chủ trì, phối hợp với các
cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương, các tổ chức,
cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, để
giải quyết các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện các chế độ theo quy
định.
2.1.2. Đặc điểm tình hình hoạt động của Đảng ủy bảo hiểm xã hội

tỉnh Bắc Ninh
Đảng bộ bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh được thành lập ngày
01/10/1997, tiền thân là Chi bộ bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh- Bắc Giang,
gồm tổ chức đảng trực thuộc Đảng ủy khối các cơ quan tỉnh Bắc Ninh. Qua
hơn 20 năm xây dựng và phát triển, đến nay, Đảng bộ bảo hiểm xã hội tỉnh
Bắc Ninh đã có tổng số 11 Chi bộ trực thuộc (tương ứng 11 phòng chuyên
môn nghiệp vụ) với 92 đảng viên (trong đó có 86 đảng viên chính thức và 06
đảng viên dự bị). 100% đảng viên có trình đại học trở lên, 38% đảng viên
(tương ứng 36 người) có trình độ trung cấp lý luận chính trị trở lên, 73%
đảng viên (tương ứng 70 người) có trình độ quản lý nhà nước chuyên viên
trở lên. Đây là nguồn lực chất lượng cao để làm tốt công tác tham mưu cho
sự lãnh đạo của cấp ủy đảng của ngành trên các lĩnh vực công tác cũng như
góp phần vào việc hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao của bảo hiểm
xã hội tỉnh Bắc Ninh. Nhiệm kỳ 2015 – 2020, Ban chấp hành Đảng bộ bảo
hiểm xã hội tỉnh có 09 người hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm, trong đó có



×