Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tài nguyên rừng TG và VN - Tư liệu ĐL PT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.81 KB, 18 trang )

Tài nguyên rừng
1. Tài nguyên rừng gồm những gì?
Rừng là thảm thực vật của những cây thân gỗ trên bề mặt trái đất, giữ vai trò to lớn đối với con người:
• Cung cấp nguồn gỗ, củi.
• Ðiều hoà khí hậu, tạo ra oxy.
• Ðiều hoà nước.
• Nơi cư trú động của động, thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm.
Một hecta rừng hàng năm tạo nên sinh khối khoảng 300 - 500 kg, 16 tấn oxy (rừng thông 30 tấn, rừng
trồng 3 - 10 tấn). Mỗi người một năm cần 4.000kg O2 tương ứng với lượng oxy do 1.000 - 3.000 m2 cây
xanh tạo ra trong năm. Nhiệt độ không khí rừng thường thấp hơn nhiệt độ đất trống khoảng 3 - 5oC.
Rừng bảo vệ và ngăn chặn gió bão. Hệ số dòng chảy mặt trên đất có độ che phủ 35% lớn hơn đất có độ
che phủ 75% hai lần. Lượng đất xói mòn của rừng bằng 10% lượng đất xói mòn từ vùng đất không có
rừng. Rừng là nguồn gen vô tận của con người, là nơi cư trú của các loài động thực vật quý hiếm. Vì vậy,
tỷ lệ đất có rừng che phủ của mỗi quốc gia là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường quan trọng.
Diện tích đất có rừng của một quốc gia tối ưu phải đạt 45% tổng diện tích.
Tài nguyên rừng trên trái đất ngày càng bị thu hẹp về diện tích và trữ lượng.
• Ðầu thế kỷ 20 diện tích rừng thế giới là 6 tỷ ha
• 1958 4,4 tỷ ha
• 1973 3,8 tỷ ha
• 1995 2,3 tỷ ha.
Tốc độ mất rừng hàng năm trên thế giới là 20 triệu ha, trong đó rừng nhiệt đới bị mất là lớn nhất, năm
1990 châu Phi và Mỹ La Tinh CÒN 75% DIỆN TÍCH RỪNG NHIỆT ÐỚI, CHÂU Á còn 40%. Theo dự
báo đến năm 2010 rừng nhiệt đới chỉ còn 20 - 25% ở một số nước châu Phi, châu Mỹ La Tinh và Ðông
Nam Á. RỪNG ÔN ÐỚI KHÔNG GIẢM VỀ diện tích nhưng chất lượng và trữ lượng gỗ bị suy giảm
đáng kể do ô nhiễm không khí. Theo tính toán giá trị kinh tế rừng ở châu Âu giảm 30 tỷ USD/năm.
1
BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG: SUY NGHĨ TỪ
THẢM HOẠ CHÁY RỪNG U MINH

Theo số liệu thống kê vào khoảng những năm 30 của thế kỷ 20, chỉ riêng rừng U Minh Thượng
có diện tích là 142000 ha với địa hình sông rạch chằng chịt. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ,


mặc dù rừng U Minh Thượng bị tàn phá bởi chất độc hóa học, bom napan, bom phát quang của
Mỹ... nhưng đến năm 1975 (sau hơn 40 năm), diện tích rừng ở đây vẫn còn hơn 100000 ha, trong
đó có hơn 20000 ha rừng già. Chỉ 3 năm sau (1978), trước sự “tấn công” của con người, rừng U
Minh Thượng chỉ còn khoảng 22 nghìn hecta. Đến khi được qui hoạch thành Vườn quốc gia vào
đầu năm 2002 thì chỉ còn 8053 ha rừng, trong đó chỉ có khoảng 45% là rừng tràm nguyên sinh.
ấy vậy mà nó vẫn phải trải qua “thảm họa” khởi đầu vào ngày 24/3/2002 vừa qua. Thảm họa này
lại xóa sổ ngót 2500 ha rừng tràm, mà chủ yếu là rừng nguyên sinh. Những con số đó cho thấy
sự : “teo” lại một cách khủng khiếp của rừng U Minh Thượng trong ngót 100 năm qua. Nếu như
có những thống kê của quá khứ xa xưa nữa, chắc chắn chúng ta sẽ phải bàng hoàng hơn nữa
trước những mất mát mà tạo hóa đã ban tặng cho chúng ta, mà sự mất mát đó lại do chính chúng
ta gây ra. Đó là điều đáng phải suy nghĩ đối với tất cả chúng ta!
Vốn được mệnh danh là "lá phổi " của trái đất, rừng có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì cân bằng
sinh thái và sự đa dạng sinh học trên hành tinh chúng ta. Bởi vậy, bảo vệ rừng và nguồn tài nguyên rừng
luôn trở thành một nội dung, một yêu cầu không thể trì hoãn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới
trong cuộc chiến đầy gian khó hiện nay nhằm bảo vệ môi trường sống đang bị huỷ hoại ở mức báo động
mà nguyên nhân chủ yếu là do chính hoạt động của con người gây ra.
Trên phạm vi toàn thế giới, chỉ tính riêng trong vòng 4 thập niên trở lại đây, 50% diện tích rừng đã bị
biến mất do nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo tính toán của các chuyên gia của Tổ chức nông - lương
thế giới (FAO) thì hàng năm có tới 11,5 triệu hecta rừng bị chặt phá và bị hoả hoạn thiêu trụi trên toàn
cầu, trong khi diện tích rừng trồng mới chỉ vỏn vẹn 1,5 triệu hecta. Rừng nguyên sinh bị tàn phá, đất đai
bị xói mòn dẫn tới tình trạng sa mạc hoá ngày càng gia tăng. Nhiều loài động - thực vật, lâm sản quý bị
biến mất trong danh mục các loài quý hiếm, số còn lại đang phải đối mặt với nguy cơ dần dần bị tuyệt
chủng. Nghiêm trọng hơn, diện tích rừng thu hẹp trên quy mô lớn đã làm tổn thương "lá phổi" của tự
nhiên, khiến bầu khí quyển bị ô nhiễm nặng, mất cân bằng, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người và
đời sống động, thực vật.v.v...
Là một quốc gia đất hẹp người đông, Việt Nam hiện nay có chỉ tiêu rừng vào loại thấp, chỉ đạt mức bình
quân khoảng 0,14 ha rừng, trong khi mức bình quân của thế giới là 0,97 ha/ người. Các số liệu thống kê
cho thấy, đến năm 2000 nước ta có khoảng gần 11 triệu hecta rừng, trong đó rừng tự nhiên chiếm khoảng
9,4 triệu hecta và khoảng 1,6 triệu hecta rừng trồng; độ che phủ của rừng chỉ đạt 33% so với 45% của
thời kì giữa những năm 40 của thế kỉ XX. Tuy nhiên, nhờ có những nỗ lực trong việc thực hiện các chủ

trương chính sách của Nhà nước về bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng, "phủ xanh đất trống đồi núi
trọc" nên nhiều năm gần đây diện tích rừng ở nước ta đã tăng 1,6 triệu hecta so với năm 1995, trong đó
rừng tự nhiên tăng 1,2 triệu hecta, rừng trồng tăng 0,4 triệu hecta.
Công tác quản lí, quy hoạch tài nguyên rừng cũng có những chuyển động tích cực. Trên phạm vi cả nước
đã và đang hình thành các vùng trồng rừng tập trung nhằm cung cấp nguyên liệu cho sản xuất. Chẳng
hạn, vùng Đông bắc và Trung du Bắc bộ đã trồng 300 nghìn hecta rừng nguyên liệu công nghiệp, Bắc
Trung bộ có 70 nghìn hecta rừng thông. Ngoài ra, hơn 6 triệu hecta rừng phòng hộ và 2 triệu hecta rừng
đặc dụng được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm bảo vệ môi trường, bảo vệ tính đa dạng sinh học; có
tới 15 vườn quốc gia và hơn 50 khu bảo tồn thiên nhiên được xây dựng, quy hoạch và quản lí... Trong 10
2
năm qua, hàng năm giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt xấp xỉ 6 nghìn tỷ đồng, chiếm 5-7% giá trị sản lượng
nông, lâm thuỷ sản.
Mặc dù có những kết quả tích cực trong quy hoạch, sản xuất cũng như trong bảo vệ và phát triển nguồn
tài nguyên rừng, song nhìn chung chất lượng rừng ở nước ta hiện nay vẫn còn rất thấp, rừng nước ta đã ít
mà trong đó có tới hơn 6 triệu hecta rừng nghèo kiệt, năng suất rừng trồng còn thấp. Đặc biệt, nguồn tài
nguyên rừng nước ta vẫn tiếp tục đứng trước những nguy cơ nghiêm trọng như bị huỷ hoại, suy thoái,
giảm sút và mất dần tính đa dạng sinh học của rừng. Hậu quả khôn lường của những vụ tàn phá rừng
trước đây và gần đây nhất là thảm họa cháy rừng U Minh (3/2002), đã khiến cho gần 8 nghìn hecta rừng
U Minh Thượng và U Minh Hạ bỗng chốc trở thành đống tro tàn, đã thực sự là những lời cảnh báo
nghiêm khắc đối với chúng ta trong "sứ mệnh" bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng nói riêng và bảo vệ
môi trường sống- chiếc nôi dung dưỡng sự sống của con người - nói chung.
Rừng U Minh bao gồm những cánh rừng tràm bạt ngàn chạy dọc theo bờ rìa Vịnh Thái Lan thuộc hai
tỉnh Kiên Giang và Cà Mau hiện nay, trong đó phần thuộc Kiên Giang được gọi là U Minh Thượng, còn
phần thuộc Cà Mau là U Minh Hạ. Rừng U Minh được xếp vào hệ sinh thái rừng ngập lợ với một hệ thực
- động vật rất phong phú, gồm hàng trăm loài quý hiếm; có nhiều loài đã được liệt vào sách đỏ có nguy
cơ tuyệt chủng, như rái cá lông mũi (Lutra Sumatrana) cực kì quý hiếm, rấỏt khó tìm thấy trên thế giới
hiện nay. Bên cạnh đó, U Minh còn nổi tiếng với những loài chim muông, thú rừng như trăn, tê tê, rắn,
rùa, lợn rừng, ong mật. Mật ong U Minh có chất lượng tuyệt vời và hương thơm đăc biệt do được đàn
ong nhào luyện, tinh chiết từ nhuỵ hoa tràm có ý nghĩa dược liệu. Dưới lòng đất U Minh còn tàng trữ
hàng tỷ mét khối than bùn được trầm tích hàng ngàn năm từ thân lá cây tràm và các loài cây khác. Sự

phong phú của hệ sinh thái và sự đa dạng độc đáo của hệ động - thực vật U Minh đã đưa địa danh này
vào vị trí thứ 2 trong hệ sinh thái rừng ngập nước của thế giới sau khu rừng Amazone nổi tiếng của
Brazil. Trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, rừng U Minh được biết đến là một trong những căn
cứ địa cách mạng nổi tiếng của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Theo số liệu thống kê, năm 1930 rừng U Minh Thượng có diện tích 142 nghìn hecta với địa hình sông
rạch chằng chịt, được che phủ bởi rừng cây bạt ngàn mà chủ yếu là cây tràm. Trong thời kì kháng chiến
chống Mỹ, mặc dù rừng U Minh Thượng bị tàn phá bởi chất độc hoá học, bom napan, bom phát quang
của Mỹ, nhưng đến năm 1975 diện tích rừng ở đây vẫn còn khoảng hơn 100 nghìn hecta, trong đó có hơn
20 nghìn hecta rừng già hàng trăm tuổi. Năm 1978, trước sự tấn công, khai phá của con người, rừng U
Minh Thượng chỉ còn 21,8 nghìn hecta. Đến khi có quyết định số 11/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 14/1/2002 về thành lập vườn quốc gia thì Vườn quốc gia U Minh Thượng được quy
hoạch chỉ còn 8053 ha (trong đó rừng nguyên sinh chưa đầy 4 nghìn hecta). Tổng diện tích của rừng U
Minh Thượng hiện còn khoảng 21 nghìn hecta, nhưng có đến 13 nghìn hecta là vùng đệm. Khi rừng U
Minh Thượng ngày càng "teo" lại, thì một điều đương nhiên là các loài sinh vật, hệ sinh thái cũng bị dồn
đến chân tường của nguy cơ huỷ diệt. Theo các nhà nghiên cứu, giống Rái cá lông mũi cực kì quý hiếm ở
U Minh Thượng đã phải toả ra các vùng đệm, nơi có cư dân sinh sống để kiếm ăn, cho nên nguy cơ bị
săn bắt, bị tiêu diệt ngày càng cao.
Tình cảnh của rừng U Minh Hạ từ sau năm 1975 cũng rất đáng được báo động nguy hiểm. Các vụ cháy
rừng khủng khiếp và cuộc "tấn công" rừng từ phía con người trong những năm 70 - 80 của thế kỉ XX đã
khiến diện tích rừng U Minh Hạ thu hẹp chưa từng thấy. Năm 1977, rừng U Minh Hạ bị cháy trụi trên
diện tích 21 nghìn hecta. Năm 1983, vụ cháy lịch sử kéo dài ròng rã 3 tháng trời đã biến 28 nghìn hecta
rừng U Minh Hạ thành đống tro tàn, hơn 30 nghìn hecta bị cháy lõm hình da báo. Suốt thời gian đó, U
Minh Hạ và các vùng lân cận hầu như không thấy ánh mặt trời do khói bụi dày đặc, môi trường khu vực
bị ô nhiễm nặng. Trong vòng 10 năm qua (1991 - 2001), diện tích rừng tràm U Minh Hạ tiếp tục mất đi
khoảng 20 nghìn hecta do hoả hoạn, như vậy tính trung bình cứ mỗi năm U Minh Hạ bị thiêu cháy 2
3
nghìn hecta. Cho đến thời điểm này, rừng tràm U Minh Hạ chỉ còn khoảng 39 nghìn hecta, nhưng phần
lớn là rừng tái sinh và trồng mới.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, những cánh rừng tràm bạt ngàn đầy tính huyền thoại của U Minh xưa không
chỉ bị huỷ hoại, bị biến mất do hoả hoạn mà còn do hậu quả tai hại của nạn chặt phá rừng bừa bãi để

trồng rẫy, trồng lúa, nuôi tôm và nạn lâm tặc hoành hành. Tuy chưa có số liệu thống kê cụ thể, nhưng
theo nhiều ý kiến thì những thiệt hại của sự tàn phá rừng từ những lí do nêu trên có lẽ cũng không thua
kém là bao so với những thảm hoạ cháy rừng. Tổng diện tích rừng U Minh ( gồm U Minh Thượng và U
Minh Hạ) sau thảm họa cháy vừa qua chỉ còn lại khoảng 60 nghìn hecta - một con số nhỏ nhoi so với
diện tích hơn 200 nghìn hecta vốn có của nó 50 năm trước. Sự thay đổi này đang bào mòn, huỷ hoại hệ
sinh thái rừng ngập nước U Minh, dẫn đến những hệ luỵ khó lường đối với môi trường khu vực các tỉnh
lân cận cũng như cả nước, ảnh hưởng tiêu cực nặng nề đến sự phát triển kinh tế - xã hội trước hết là của
hai tỉnh Kiên Giang và Cà Mau. Với tốc độ huỷ hoại nhanh như gần 30 năm qua, nếu không có biện pháp
ngăn chặn hữu hiệu, thì rừng U Minh rất có thể sẽ biến mất thực sự và chỉ còn lại trong những câu
chuyện kể huyền thoại đối với các thế hệ tương lai (!)
Thảm hoạ cháy rừng U Minh vừa qua càng đặt ra những yêu cầu cấp bách đối với công tác quy hoạch,
sản xuất, quản lí, bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên rừng ở nước ta hiện nay. Trước hết, cần khẩn
trương đề ra những biện pháp tăng cường sự quản lí, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan chức năng về
quản lí - bảo vệ tài nguyên rừng. Tinh thần trách nhiệm, ý thức cảnh giác cao và năng lực thực thi chức
trách của các cá nhân và cơ quan quản lí chuyên ngành là những yếu tố tối cần thiết góp phần ngăn chặn
những tai họa, bảo vệ nguồn tài nguyên rừng. Sự kiện cháy rừng U Minh vừa qua bộc lộ rõ sự yếu kém
về tinh thần trách nhiệm và sự chủ quan của đội ngũ những người đảm trách nhiệm vụ bảo vệ rừng.
Nhiều tháng trước khi xảy ra vụ cháy lớn, ở rừng U Minh Thượng đã từng diễn ra các vụ cháy nhỏ. Mặt
khác, cũng không dưới một lần đã xuất hiện những lời cảnh báo của dư luận về nguy cơ cháy rừng với
quy mô lớn trong tình hình nắng nóng, hạn hán kéo dài ở nhiều địa phương ở nước ta. Tại U Minh Hạ,
trước khi xảy ra thảm hoạ cũng đã có tới 29 vụ cháy. Hơn nữa, trên thực tế, các khu rừng hiện nay đều có
sự phân công quản lí của các lâm, ngư trường và các hạt kiểm lâm, nhưng phần lớn các vụ cháy rừng từ
trước đến nay đều chưa thể xác định nguyên nhân rõ ràng và truy cứu trách nhiệm cụ thể. Những sự việc
nêu trên cho thấy những hạn chế và sự lơi lỏng trong công tác quản lí, kiểm tra, kiểm soát thường xuyên
cũng như tinh thần thiếu cảnh giác của các cá nhân và cơ quan hữu trách.
Rừng U Minh cháy lớn và khó dập tắt còn do nước ở dưới chân rừng cạn kiệt, đây một phần là hệ quả
của việc đào mương, xẻ kênh vào các khu rừng để khai thác cá đồng và lấy nước tưới rẫy, lúa. Cho nên,
khi hoả hoạn xảy ra vào thời điểm khô hạn nhất thì lửa đã bắt cháy từ phần thân trên của các loại cây vào
lớp than bùn, gây cháy ngầm rất nguy hiểm. Đối với rừng U Minh để ngăn chặn hoả hoạn, một vấn đề
đặt ra là cần nhanh chóng quy hoạch hành lang an toàn cho rừng bằng những biện pháp thích hợp, trong

đó một biện pháp không thể thiếu là duy trì được mức nước theo chế độ tự nhiên vốn có của nó. Đây là
công việc cần có sự đầu tư thích đáng của Nhà nước và địa phương, bên cạnh việc tăng cường các
phương tiện vật chất kỹ thuật đặc chủng phục vụ việc phòng cháy, chữa cháy cho rừng.
Thực tiễn ở U Minh cho thấy, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng cần phải được tiếp cận và tiến hành
gắn liền với các biện pháp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội để "người dân có thể dựa được vào rừng
để sống, nhưng cũng có biện pháp bảo vệ và phát triển rừng có hiệu quả nhất" như tinh thần ý kiến chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ thời gian gần đây. Quy hoạch, sản xuất, khai thác tài nguyên rừng phải đi
đôi với bảo vệ, bồi đắp tài nguyên rừng. Đối với những vùng rừng núi còn gặp nhiều khó khăn về mọi
mặt, cần có giải pháp chuyển đổi cơ cấu kinh tế thích hợp, giảm sức ép đối với rừng từ các hoạt động
khai thác thái quá có tính huỷ hoại. Có một vấn đề tồn tại lớn nhất hiện nay ở nước ta là tình trạng nghèo
đói của cư dân vùng rừng núi và vùng cận rừng. Cho đến nay, dân cư vùng lâm nghiệp đã tăng lên chiếm
tới 1/3 tổng dân số của nước ta. Trong số 2,8 triệu hộ nông dân nghèo ở nước ta thì hơn 80% sinh sống
4
trong các vùng rừng núi, cuộc sống hàng ngày của họ phải dựa vào rừng. Chẳng hạn, tại khu rừng xã Chế
Tạo (Mù Cang Chải - Yên Bái), nơi vừa phát hiện quần thể loài vượn đen tuyền (Nomascus concolor) lớn
nhất ở nước ta, các hoạt động khai thác rừng ở đây đang là mối đe dọa đối với sự tồn tại của loài vượn
quý hiếm này. Xã Chế Tạo có 192 hộ dân người Mông với 1438 nhân khẩu nhưng chỉ có 487,7 ha đất
nông nghiệp, trong đó 76,1 ha ruộng nước một vụ, người dân sống chủ yếu dựa vào nương rẫy. Hàng
năm, nhân dân xã Chế Tạo thiếu ăn khoảng 3 tháng, do vậy để có lương thực, họ đã phá rừng làm rẫy
khiến cho diện tích rừng nhiều năm qua bị thu hẹp, thêm vào đó là nạn săn bắn, buôn bán thú rừng, vì
vậy những loài thú quý hiếm, nhất là loài vượn đen tuyền đang đứng trước nguy cơ tuyệt diệt. Rõ ràng là,
việc bảo vệ tài nguyên rừng ở đây chỉ thực sự có hiệu quả nếu có những biện pháp tháo gỡ kịp thời
những khó khăn trong đời sống người dân, kết hợp với công tác tuyên truyền giáo dục và xử lý nghiêm
những hành vi vi phạm Luật bảo vệ rừng.
Nói tóm lại, để bảo vệ, khai thác và phát triển tài nguyên rừng - món quà của sự cấu thành chức năng tự
nhiên của thiên nhiên ban tặng - rất cần thiết phải hoàn chỉnh và thực thi ngay một chiến lược đồng bộ,
có tính khả thi về tài nguyên rừng. Song hành với việc nâng cao nhận thức thông qua công tác thông tin,
tuyên truyền, giáo dục thiết thực, đòi hỏi phải có một khung khổ pháp lý cụ thể cho các khâu trong quy
trình bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng; đồng thời cần phải đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ
của đội ngũ cán bộ chuyên trách đủ mạnh, có tinh thần trách nhiệm và khả năng tác nghiệp cao, được đầu

tư thoả đáng và trang bị phương tiện kỹ thuật chuyên ngành hiện đại. Vấn đề có ý nghĩa mấu chốt trong
việc thực hiện Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2001 - 2010 nhằm đạt được mục tiêu đề ra là
nâng độ che phủ của rừng ở nước ta lên 43%, bảo vệ tính đa dạng sinh học và tính ổn định, bền vững của
quá trình phát triển tài nguyên rừng thì nhất thiết phải đặt sự nghiệp bảo vệ, phát triển tài nguyên rừng,
bảo vệ môi trường sống là bộ phận cấu thành hữu cơ không thể thiếu của chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội, của chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Trong đó, cần chú trọng hơn nữa đến đổi
mới cơ chế chính sách nhằm chuyển mạnh một cách hiệu quả ngành lâm nghiệp theo hướng lâm nghiệp
xã hội - lâm nghiệp cộng đồng, huy động được mọi nguồn lực và lực lượng xã hội tham gia quản lý, bảo
vệ rừng vì lợi ích trực tiếp của cộng đồng. Đây là một trong những hướng đi thiết thực nhằm ngăn chặn
và đẩy lùi những thảm họa như đã từng xảy ra với rừng U Minh vừa qua./.
Tài nguyên rừng ở Việt Nam
Nằm trong vùng thuộc khu hệ rừng mưa nhiệt đới, rừng nước ta nổi tiếng về tài nguyên gỗ, nhất là đặc
sản có giá trị.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng có tình trạng chung như những nước đang phát triển khác, diện tích rừng bị
thu hẹp nhanh chóng. Theo bản đồ rừng của Maurand vào năm 1945 thì nước ta có 14,352 triệu ha rừng,
chiếm tỷ lệ 43,8% so với diện tích tự nhiên.
Theo số liệu điều tra của viện qui hoạch rừng thì đến năm 1975 còn 9,5 triệu ha rừng, chiếm 29,1% diện
tích tự nhiên, đến năm 1981 còn 7,4 triệu, chiếm 24%, đến năm 1989 có 9,3 triệu, trong đó có những
rừng mới trồng.
Diện tích rừng ở Việt Nam so với diện tích đất tự nhiên
STT Khu vực
Diện tích đất
tự nhiên (1000
ha)
Diện tích
rừng (1000
ha)
Tỷ lệ % diện tích
rừng/đất tự nhiên
(%)

5
1 Bắc Bộ 11.570 6955 60,0
2 Trung Bộ14.754 6580 44,6
3 Nam Bộ 6470 817 13,0
Cả nước 32.794 14.352 43,8
(Theo Maurand, 1945)
Các kiểu rừng chính ở Việt Nam
Điều kiện tự nhiên khí hậu và các nhân tố khác đã tạo cho cây rừng sinh trưởng và phát triển quanh năm,
thảm thực vật rừng phong phú đa dạng với nhiều kiểu rừng. Theo các nhà Lâm nghiệp, người ta chia ra
các kiểu rừng sau : (Báo cáo về hiện trạng môi trường Việt Nam năm 1994, Cục Môi trường).
1. Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới
Người ta còn gọi là rừng mưa nhiệt đới, rừng nhiệt đới ẩm, kiểu rừng này thường gặp trên các vùng núi
cao, dưới 800 m ở phía Bắc, cao trên 1000 m ở phía Nam, là kiểu rừng hỗn loài thuộc họ quen thuộc ở
vùng nhiệt đới như họ Đậu (Papilionoideae), họ Dầu (Dipterocarpaceae), chúng phát triển tươi tốt thành
nhiều tầng với nhiều năm tuổi khác nhau. Ở kiểu rừng này còn có rất nhiều thực vật phụ sinh như phong
lan và cây dây leo thân cỏ (song mây) và thân gỗ.
Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới có năng suất sinh học rất cao, và có nhiều loài gỗ quí. Sự thuận lợi
về môi trường, phong phú về thức ăn đã tạo ra một quần thể động vật phong phú về chủng loại và số
lượng.
2. Rừng khộp
Còn gọi là rừng thưa nhiệt đới, rừng nhiệt đới rụng lá, thường thấy ở miền Nam tại các vùng có độ cao
dưới 1000 m. Thành phần gồm cây rụng lá xen lẫn cây thường xanh ở mức độ khác nhau.
Trên nhiều vùng đất bằng phẳng ở Tây Nguyên thường đọng nước trong mùa mưa, và cạn nước trong
mùa khô, thêm vào đó lửa rừng tàn phá thường xuất hiện rừng Khộp nghèo với vài loài cây họ Dầu mọc
thưa thớt, sinh trưởng chậm.
Trên sườn dốc, nơi có tầng đất sâu hơn hoặc có nước tương đối thuận lợi hơn, nhất là ở vùng đất đỏ
bazalt và ven sông suối thường xuất hiện rừng khộp giàu có, thành phần loài phong phú, cây mọc dầy
thành nhiều tầng xanh tươi, cho nhiều gỗ cứng, gỗ quí với kích thước lớn như : Giáng hương, Trắc, Cẩm
lai, Gụ, Mun... và nhiều loài gỗ Sao, Dầu.
Rừng khộp là nơi tập trung của nhiều loài thú nổi tiếng vùng Châu Á như: Hươu, Nai, Voi, Khỉ, Vượn...

trong đó có các loài thú quí hiếm của thế giới như Bò xám Cuprey, Tê Giác.
Rừng khộp nghèo để tạo thành đồng cỏ chăn nuôi. Đất rừng khộp giàu để phát triển cây công nghiệp, cây
lương thực và cây ăn trái... Ở rừng này, người ta thường áp dụng lối canh tác nông lâm kết hợp.
3. Rừng lá kim
6
Ở các vùng cao trên 1000 m ở phía Nam thích hợp với các loài thực vật lá kim (Tùng, Bách, Thông 2 lá,
Thông 3 lá) đã tạo nên những cánh rừng bạt ngàn trên cao nguyên Lâm Đồng. Tùy theo độ cao và chế độ
ẩm cụ thể mà rừng thông có thể xen lẫn với cây lá rộng của rừng Khộp hoặc của rừng thường xanh Á
nhiệt đới.
Rừng thông ở đây cung cấp gỗ xây dựng, gỗ gia dụng, làm bột giấy. Nhựa thông dùng để chế biến
colofan, dầu thông, nhiều loại hóa chất khác nhau là những mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao. Ở dưới tán
rừng thông hoặc xen kẻ với cây công nghiệp, cây thuốc, cây ăn trái hoặc các đồng cỏ chăn nuôi.
Ở các vùng cao trên 1500 m thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn cũng có rừng lá kim, nhưng khu vực nhỏ
hơn, thường gặp là thông, Pơmu là loại quí.
4. Rừng thường xanh lá rộng Á nhiệt đới
Thường gặp ở các vùng núi cao trên 800 m ở phía Bắc, phần lớn gồm các cây hiện diện thuộc họ Dẻ
(Fagaceae), họ Long Não (Lauraceae), họ Thạch Nam (Ericaceae)... và các cây Tre, Nứa (họ Poaceae).
thực vật phụ sinh phát triển mạnh, thường là Phong lan (Orchidaceae), ráng đuôi phụng, ráng tổ rồng
(Polypodiaceae) và các cây Thảo quả (họ Zingiberaceae). Ở vùng rừng này, người ta thường trồng những
cây thuốc như: Đỗ Trọng (họ Eucommiaceae), Quế (họ Lauraceae), Nhân sâm (họ Araliaceae)...
5. Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới trên núi đá vôi
Thành phần thực vật trên núi đá vôi khá phong phú, chủ yếu là rừng thường xanh, cây rụng lá chiếm tỷ lệ
nhỏ. Các loài cây đặc hữu của vùng này gồm : Nghiến (họ Tilliaceae), cây Kim giao (họ Podocarpaceae),
cây Trai ly (họ Clusiaceae)... là những loại gỗ quí, thường chúng có đặc điểm chung là ưa Calci, chịu
hạn, ít chịu chua. Nhiều loài vừa có bộ rễ phát triển sâu, vừa có khả năng kiềm chế thoát nước trên mặt
lá. Nhưng cũng có những loài rễ cạn, chúng sinh trưởng nhanh trong mùa mưa ẩm và rụng lá vào mùa
khô. Nơi gần đầu nguồn do hang động đưa nước từ nơi khác đến, nên chúng ta thường gặp cây nhiệt đới
thường xanh và Tre, Trúc. Rừng này thích hợp cho các loài vật cần hang động để lẫn trốn thú dữ như:
Sơn dương, khỉ, vượn... Đây là loại rừng đặc sắc đối với con người vì nơi đây còn giữ lại nhiều nguồn
gen, quí, có giá trị cao trong nghiên cứu khoa học, rừng quốc gia Cúc Phương được thành lập theo kiểu

này.
6. Rừng ngập mặn ở Việt Nam
Ở Việt Nam, những nguồn tài nguyên rừng ngập mặn đã được sử dụng bởi nhân dân sống trong vùng
biển nhiều thế kỷ không gây ra sự mất cân bằng sinh thái. Tuy nhiên trong những năm gần đây, sự gia
tăng dân số (đặc biệt sự di dân), lợi tức của nhân dân địa phương thấp, và sự phát triển nhanh chóng kinh
tế đã gây ra sự khai thác quá mức và sự phá hoại gây hậu quả cho những khu rừng ngập mặn. Vả lại,
chính sách của Việt Nam cho sự tái xây dựng kinh tế làm phát triển sự khai thác những nguồn tài nguyên
thiên nhiên, dưới chính sách này, sự phát triển nuôi tôm trong những khu vực rừng ngập mặn là một
trong những chiến lược phát triển quốc gia. Chính vì vậy mà thủy canh được xem như một trong những
mối đe dọa quan trọng của rừng ngập mặn Việt Nam.
Việt Nam có bờ biển dài 3200 km với nhiều cửa sông giàu phù sa, nên rừng ngập mặn sinh trưởng tốt,
đặc biệt là bán đảo Cà Mau (tỉnh Cà Mau).
7

×