Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.26 KB, 36 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
----------

BÀI THẢO LUẬN
Đề tài: Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước ta hiện nay

Học phần

: Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản

Việt Nam
Nhóm
: 04
GV hướng dẫn : Võ Tá Tri

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam


Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM
( Lần 1)

Thời gian: 15h30, ngày 23 tháng 9 năm 2016
Địa điểm: phòng V401 trường Đại học Thương mại
Thành viên:
1. Trần Minh Huyền
2. Trần Minh Kiên
3. Nguyễn Thị Hương Lan


4. Nguyễn Thị Thanh Lan
5. Đinh Thị Thùy Linh

6. Phùng Khánh Linh
7. Trần Thị Thùy Linh
8. Nguyễn Khánh Ly
9. Phạm Phương Mai
10. Phạm Văn Mẫn

Nội dung: Thống nhất hướng đề tài, dàn ý chung cho bài thảo luận.

Thư Kí

Nhóm trưởng

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam


Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM
( Lần 2)

Thời gian: 15h30, ngày 7 tháng 10 năm 2016
Địa điểm: phòng V401 trường Đại học Thương mại
Thành viên:
1. Trần Minh Huyền
2. Trần Minh Kiên
3. Nguyễn Thị Hương Lan
4. Nguyễn Thị Thanh Lan

5. Đinh Thị Thùy Linh

6. Phùng Khánh Linh
7. Trần Thị Thùy Linh
8. Nguyễn Khánh Ly
9. Phạm Phương Mai
10. Phạm Văn Mẫn

Nội dung: Nhóm trưởng phân công nội dung cho từng thành viên trong nhóm và thống
nhất thời gian nộp bài.

Thư Kí

Nhóm trưởng

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam


Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP NHÓM
( Lần 3)

Thời gian: 15h30, ngày 21 tháng 10 năm 2016
Địa điểm: phòng V401 trường Đại học Thương mại
Thành viên:
1. Trần Minh Huyền
2. Trần Minh Kiên
3. Nguyễn Thị Hương Lan
4. Nguyễn Thị Thanh Lan

5. Đinh Thị Thùy Linh

6. Phùng Khánh Linh
7. Trần Thị Thùy Linh
8. Nguyễn Khánh Ly
9. Phạm Phương Mai
10. Phạm Văn Mẫn

Nội dung: Nhóm trưởng chỉnh sửa bài và tổng hợp bài. Phân công thành viên làm word,
slide, thuyết trình

Thư Kí

Nhóm trưởng

Mục lục


Lời nói đầu
I. Cơ sở lý luận về con người
1.1. Quan điểm chung về con người trong lịch sử triết học trước Mác
1.2. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người
1.3. Chủ nghĩa xã hội là sự phát triển toàn diện của con người
II. Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước
2.1. Khái niệm CNH-HĐH
2.2. Vai trò của con người trong quá trình CNH-HĐH
2.3. Quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực Việt Nam qua các kỳ đại
hội Đảng
III. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước ta hiện nay

3.1. Thực trạng, đánh giá nguồn nhân lực Việt Nam
3.2. Nguyên nhân
3.3. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
Kết luận

LỜI NÓI ĐẦU

Trang
1
4
4
5
8
9
9
9
10
17
17
21
22
29


Tại sao phải nghiên cứu phạm trù con người và vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong khi thế giới đã trả qua hai cuộc cách mạng khoa học ky
thuật vĩ đại và trên thế giới đã có rất nhiều, rất nhiều nước đã trở thành những nước công nghiệp
lớn. Phải chăng đó là vì công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phương thức duy nhất để phát triển nền
kinh tế thế giới và bất kỳ một quốc gia nào bỏ qua quá trình này đều sẽ trở nên quá chậm, quá lạc
hậu so với bước đi của thế giới? Và phải chăng giống như các quốc gia khác, Việt Nam cũng

không nằm ngoài quy luật chung đó? Nhưng quan trọng hơn cả, phải chăng con người là chủ thể,
là mấu chốt, là điểm khởi đầu cũng như là cái đích của quá trình lâu dài này?
Đúng là trên thực tế ở nhiều quốc gia công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã tạo ra nhiều
thành tựu khoa học kỹ thuật không thể phủ nhận được. Chẳng hạn việc sử dụng năng lượng
nguyên tử, năng lượng mặt trời đã làm giảm sự phụ thuộc của con người vào nguồn năng lượng
khoáng sản; sự ra đời của các vật liệu tổng hợp không những giúp con người giảm phụ thuộc vào
tài nguyên thiên nhiên không tái sinh được mà còn cung cấp cho con người nguồn vật liệu mới
có tính năng ưu việt hơn và tái sinh được. Nhờ phát minh con người sử dụng nguồn vật liệu mới
này mà con người đã có thể thu nhỏ máy tính điện tử xuống hàng vạn lần về thể tích đồng thời
tang hiệu năng của nó lên hàng chục vạn lần so với ba chục năm trước. Sự ra đời và xuất hiện
các loại vật liệu mới đang ngày càng trở thành nhân tố vô cùng quan trọng của sự phát triển sức
sản xuất xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ. Cùng với quá trình tự động hóa, tiến bộ khoa học
công nghệ cho thấy khả năng loài người sẽ tiến tới một xã hội của cải tuôn ra dào dạt.
Còn ở Việt Nam thì sao?
Cho đến nay Việt Nam vẫn thuộc loại những nước nghèo nhất thế giới, nền kinh tế vẫn ở
tình trạng lạc hậu, còn mang tính tự cấp, tự túc, đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã
hội, lạm phát còn ở mức cao, sản xuất chưa ổn định, tình hình mất cân đối vẫn nghiêm trọng, bội
chi ngân sách còn lớn, tốc độ tang dân số cao, lao động thất nghiệp hoặc không đủ việc làm ngày
càng tăng (6,28% dân số thành thị thất nghiệp), đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn; tổng sản
phẩm quốc dân (GDP) tính theo đầu người thuộc loại thấp nhất thế giới: 220 USD năm 1993 và
428 USD năm 2001 thấp hơn Lào 1700 USD, Bangladesh 1410 USD, Thái Lan 5757 USD,
Malaysia 8513 USD, Đài Loan 17495 USD, tốc độ tăng bình quân chậm hơn nhiều nước trong
khu vực. Gắn liền với nền kinh tế đó là lối làm ăn tản mạn và tùy tiện của sản xuất nhỏ. Cùng với
những truyền thống tốt đẹp mà chúng ta đang kế thừa cũng có những truyền thống lạc hậu của
người đã chết đang đè nặng lên vai người đang sống… Vì vậy muốn không bị tụt hậu xa hơn
nữa, muốn ổn định mọi mặt để đi lên và phát triển thì tất yếu phải thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khóa VII (từ 24/11/1993 đến 1/12/1993) và Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (2025/1/1994) đã xác định tới đây nước ta “chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, đẩy tới một
bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm tạo them nhiều công ăn việc làm, đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đây là

nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới.” Chủ trương đó tiếp tục
được hoàn thiện và có bước phát triển mới ở các Đại hội VII, VIII, IX và trong nhiều Nghị quyết


quan trọng của Trung ương. Song dựa vào đâu để đảm bảo việc thực hiện nó cho thật hiệu quả và
không phải trả giá quá đắt thì lại không dễ dàng bởi vì từ chỗ thấy được tính tất yếu nếu không
cẩn thận dễ sa vào duy ý chí như đã từng xảy ra trước đây hoặc trái lại nếu chỉ thấy khó khăn, bất
lợi, thiếu điều kiện rồi cam chịu tụt hậu thì lại là một thảm họa. Như vậy cũng có nghĩa là chúng
ta đã để lại cho thế hệ tương lai một cái gánh quá nặng và sẽ có tội rất lớn đối với những ai đã hy
sinh xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc bảo vệ đất nước.
Nhưng nếu chỉ có như vậy thì tại sao lại phải đề cập đến vấn đề con người? Liệu có
phải con người đang giữ một vai trò gì đó trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, và hơn thế nữa phải chăng đó là một vai trò quan trọng, quyết định sự thành bại của
sự nghiệp đổi mới này?
Trước hết có thể nói rằng xã hội loài người tồn tại và phát triển dựa vào hai nguồn tài
nguyên là thiên nhiên và con người. Cái quý nhất trong nguồn tài nguyên con người là trí tuệ.
Theo quan điểm cổ điển, mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên đều có hạn và đều có thể bị khai thác
cạn kiệt. Song, sự hiểu biết của con người đã, đang và sẽ không bao giờ chịu dừng lại, nghĩa là
nguồn tài nguyên trí tuệ không có giới hạn. Tính vô tận của nguồn tiềm năng trí tuệ là nền tảng
để con người nhận thức tính vô tận của thế giới vật chất, tiếp tục nghiên cứu những nguồn tài
nguyên thiên nhiên còn vô tận nhưng chưa được khai thác và sử dụng, phát hiện ra những tính
năng mới của những dạng tài nguyên đang sử dụng hoặc sáng tạo ra những nguồn tài nguyên
mới vồn không có sẵn trong tự nhiên nhằm phục vụ cho sự phát triển của xã hội trong những
điều kiện mới. Bởi vậy có thể nói, trí tuệ con người là nguồn lực vô tận của sự phát triển xã hội.
Đồng thời, nguồn lực phát triển của xã hội, trước hết và quan trọng hơn cả cũng chính là
con người – nguồn tiềm năng sức lao động. Con người đã làm nên lịch sử của chính mình bằng
lao động được định hướng bằng trí tuệ đó. Ta đã biết rằng, “tất cả cái gì thúc đẩy con người hoạt
động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ”, tức là phải thông qua trí tuệ của họ. Trước tiên
những nhu cầu về sinh tồn đã thúc đẩy con người hoạt động theo bản năng như bất kỳ một động
vật nào khác. Nhưng rồi “bản thân con người bắt đầu tự phân biệt với súc vật ngay khi con người

bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của
con người quy định”. Sự khác biệt căn bản về mặt “tổ chức cơ thể” giữa con người và con vật
chính là bộ óc và đôi bàn tay. Bộ óc điều khiển đôi bàn tay, nghĩa là bằng trí tuệ (bộ óc) và lao
động (đôi bàn tay) con người đã tiến hành hoạt động biến đổi tự nhiên làm lên lịch sử xã hội,
đồng thời trong quá trình đó đã biến đổi cả bản thân mình.
Cho đến khi lực lượng sản xuất phát triển, đánh dấu bởi những phát minh khoa học,
những công nghệ hiện đại thì trí tuệ con người vẫn có sức mạnh áp đảo. Những tư duy máy móc,
trí tuệ nhân tạo,… dù rộng lớn đến đâu, dù dưới hình thức hoàn hảo nhất cũng chỉ là một mảng
cực nhỏ, một sự phản ánh rất tinh tế thế giới nội tại của con người, chỉ là kết quả của quá trình
phát triển qua học kinh tế, của hoạt động trí tuệ của con người. Máy móc dù hoàn thiện, dù thông
minh đến đâu cũng chỉ là kẻ trung gian cho hoạt động của con người. Do đó con người luôn luôn
đã và vẫn là chủ thể duy nhất của mọi hoạt động trong xã hội.


Thực tiễn ngày nay càng khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của Mác về vị trí, vai
trò không gì thay thế được của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, của xã
hội loài người. Bản thân sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà chúng ta đang từng bước
thực hiện với những thành công bước đầu của nó cũng ngày càng đòi hỏi mỗi chúng ta phải nhận
thức sâu sắc “những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người”, thấy rõ vai trò
của con người trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trên thực tế và trong quan niệm của mỗi
chúng ta, con người càng thể hiện rõ vai trò là “chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật
chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia”. Bởi vậy để đẩy nhanh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đưa sự nghiệp cách mạng
lớn lao đó đến thành công ở một nước vẫn còn trong tình trạng lạc hậu như nước ta, chúng ta
không thể không phát triển con người Việt Nam, nâng cao đội ngũ những người lao động nước ta
lên một tầm cao chất lượng mới. Nhận định này đã được khẳng định trong nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn
của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.” Nhận định này tiếp tục được khẳng định và có bước phát triển mới ở Đại hội IX và nhiều
Nghị quyết quan trọng của Trung ương.

Một lần nữa ta có thể khẳng định tính cấp thiết và ý nghĩa quan trọng của việc nghiên
cứu đề tài này. Qua đó nhóm em chọn đề tài “Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.”


I. Cơ sở lý luận về con người
1.1. Quan điểm chung về con người trong lịch sử triết học trước Mác
Trong lịch sử triết học, con người là một đề tài được các triết gia triết học phương Đông
và phương Tây quan tâm nghiên cứu. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về con người đã được
đưa ra, có thể chú ý đến những quan điểm sau:
Quan điểm triết học trước Mác, coi con người là một thực thể tự nhiên – thực thể xã hội.
Song họ cũng không vượt qua tính chất siêu hình và thậm chí còn là duy tâm. Theo triết học
Phương Đông với sự chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc duy vật chất phác thơ ngây. Điều
này được biểu hiện trong tư tưởng triết học Phật giáo, Nho Giáo, Lão Giáo, quan niệm về bản
chất con người củng thể hiện một cách phong phú. Chẳng hạn như Khổng Tử quy tính thiện của
con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng bởi phong tục, tập quán xấu mà bị nhiễm cái
xấu, xa rời cái tốt đẹp. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ
đạo đức để dẫn dắt con người hường tới các giá trị đạo đức tốt đẹp. Tuân Tử cho rằng bản chất
con người khi sinh ra là ác nhưng có thể cải biến được, qua một quá trình chống lại cái ác ấy thì
con người mới tốt được. Lão Tử cho rằng con người sinh ra từ “ Đạo”. Do vậy con người cần
phải sống theo lẽ tự nhiên thuần phát, không hành động một cách giả tạo, gò ép trái với quy luật
tự nhiên.
Cũng như triết học phương Đông, triết học phương Tây cũng có nhiều quan niệm khác
nhau về con người. Đặc biệt là Kitô giáo, họ nhận thức con người trên cơ sở thế giới quan duy
tâm và thần bí. Triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu cũng đã có sự phân biệt con người với giới tự
nhiên, nhưng cũng chỉ là hiểu biết bên ngoài về tồn tại con người. Triết học thời kỳ phục hưng
cận đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của con người, xem con người là một thực thể có trí
tuệ.
Nói chung nền triết học thời bấy giờ, vấn đề con người vẫn chưa được nhận thức đầy đủ
cả về bản chất, về mặt sinh học và xã hội. Con người mới chỉ được nhấn mạnh về mặt cá thể, mà

xem nhẹ mặt xã hội. Bởi vì họ đã quy đặc trưng bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối
hoá những thuộc tính tự nhiên hoặc thuộc tính xã hội, mà không thấy được vai trò của thực tiễn.
Chẳng hạn, khi phê phán quan điểm duy tâm của Hêghen thì Phơbách cho rằng vấn đề giữa tư
duy và tồn tại là vấn đề bản chất của con người. Vì chỉ có con người mới có tư duy và sự tồn tại
của con người cũng như tư duy của con người không thể tách khỏi quá trình tâm sinh học. Tuy
nhiên, Phơibách đã mắc phải sai lầm khi ông tuyệt đối hoá mặt sinh học của con người hoặc tách
con người ra khỏi quan hệ hiện thực của xã hội hoặc ông quy bản chất con người vào tính tộc
loại, mà đặc trưng của nó là tình cảm đạo đức, tôn giáo và tình yêu.
Có thể khái quát rằng, các quan niệm về con người trong triết học trước Mác, dù đứng
trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hoặc duy vật siêu hình, đều không phản ánh
đúng bản chất con người. Họ đều xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hoá về mặt
tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy được mặt
1


xã hội trong đời sống con người. Tuy vậy cũng không thể phủ nhận hết những thành tựu trong
việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị về nhân bản học để hướng
con người tới tự do. Đó là những tiền đề có ý nghĩa quan trọng cho việc hình thành tư tưởng về
con người của triết học Macxít sau này.
1.2. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về bản chất con người
1.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành tựu của khoa
học tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hóa và thuyết tế bào, triết học Mác đã khẳng định con người
vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động của chính bản
thân con người. Con người là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học với yếu tố xã hội – là thực thể
sinh vật – xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản phẩm của giới tự nhiên. Con
người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con
người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy giới tự nhiên là “thân thể vô
cơ của con người”. Con người là một bộ phận của tự nhiên.

Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản
chất của con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt của con người với thế giới loài vật là mặt xã
hội . Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Thông qua hoạt động
lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ nhu cầu cuộc sống
của mình; Hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; Xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy lao động
chính là yếu tố quyết định bản chất xã hội của con ngươi, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân
trong cộng đồng xã hội. Theo Mác, xã hội suy cho cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa
người với người. Con người tạo ra xã hội, là thành viên của xã hội. Mọi biểu hiện sinh hoạt của
con người là biể hiện và là khẳng định của xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển, con người luôn
phải chịu sự tác động của ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Bao gồm:
Hệ thống quy luật tự nhiên chịu sự quy định của mặt sinh học, hệ thống quy luật tâm lý ý thức
hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người , hệ thống quy luật xã hội quy định
các quan hệ giữa người với người trong xã hội.
1.2.2. Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội
1.2.2.1. Con người là chủ thể của lịch sử:
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy,
con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan
trọng hơn cả là: Con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định “ Cái
học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục...
2


cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo
dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph.Ăngghen cũng
cho rằng : “ thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay
của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự
vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn
của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu
thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.

Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự
nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế
giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt
động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai
theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là
sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt
động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm
biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người
thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với
mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn
tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển
nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội
luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không
phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với
tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù
hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù
không trùng khắp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh
ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã
hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục
đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một
cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực
tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy,
các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan
hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người
1.2.2.2. Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội:


3


Từ khi xuất hiện đến nay, loài người luôn cháy bỏng hoài bão được sống tự do, hạnh phúc
và không ngừng đấu tranh để hoài bão đó được trở thành hiện thực. Trong các chế độ xã hội dựa
trên quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ
tư bản). Các giai cấp thống trị luôn dùng mọi thủ đoạn để tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự do và
hạnh phúc của số đông quần chúng lao động. Cho nên loài người không ngừng đấu tranh chống
lại sự áp bức bất công đó.
Xã hội ngày càng văn minh, đó là xu hướng chủ yếu của xã hội. Nhưng cho đến nay, bước
tiến của nền văn minh vẫn chứa đựng những yếu tố, những khuynh hướng đi ngược lại lợi ích
chung của loài người, nhiều thành tựu của khoa học – ky thuật được sử dụng để huỷ diệt con
người. Công nghiệp hoá học tạo ra năng suất, chất lượng lao động cao, nhưng lại gây ô nhiễm
môi trường, máy móc thay thế sức người nhưng lại đẩy hàng chục triệu người vào thất nghiệp, xu
thế hội nhập mở cửa tạo ra cơ hội phát triển cho mỗi người, cho các quốc gia nhưng lại nảy sinh
những biểu hiện tiêu cực về lối sống làm mất bản sắc văn hoá dân tộc... Ông Nobel đã phát minh
ra thuốc nổ và nhờ thuốc nổ trở thành giàu có. Nhưng bản thân ông lại không ngờ thuốc nổ lại sử
dụng rộng rãi trong chiến tranh, tàn sát hàng chục triệu người vô tội. Ân hận về điều đó, ông đã
để lại di chúc, đề nghị sử dụng gia tài mà ông có được do phát minh thuốc nổ, làm giải thưởng
cho những ai có công trình khoa học đem lại hạnh phúc cho con người. Như vậy, Nobel đã đề
xuất một tư tưởng: Văn minh phải hướng tới nhân đạo.
Thế kỷ XXI chắc chắn sẽ có nhiều biến đổi to lớn, khoa học và công nghệ sẽ có những
bước tiến bất ngờ. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho mỗi người, mỗi quốc gia là phải làm chủ được các
thành tựu của văn minh. Vậy con người là chủ thể của lịch sử nên chính con người chứ không
phải đối tượng nào khác, phải loại trừ những yếu tố ngăn cản tự do, hạnh phúc của con người,
đồng thời thúc đẩy làm biến đổi xã hội theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp hơn. Thế giới hiện
nay còn chứa đựng những yếu tố khác đe doạ tự do và hạnh phúc của con người như đói nghèo,
dịch bệnh, thất học, ô nhiễm môi trường, bất bình đẳng xã hội, nguy cơ khủng bố, chiến tranh….
Do đó mọi chủ trương chính sách, mọi hành động của cộng đồng quốc tế, của các quốc gia và
hành động của mỗi cá nhân phải nhằm bảo vệ con người, vì tự do hạnh phúc của con người.

Vì con người là chủ thể của lịch sử nên con người cần được tôn trọng, cần phải đảm bảo
các quyền chính đág của mình, phải là mục tiêu của mọi tiến bộ xã hội. Chủ Nghĩa Tư bản hiện
đại vẫn đang còn sự phát triển. Nhưng theo qui luật tiến hoá của lịch sử, tương lai sẽ thuộc về
một xã hội tốt đẹp hơn. Một xã hội không có tình trạng áp bức, bóc lột, một xã hội thống nhất và
văn minh với nhân đạo, một xã hội mà trong đó mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, và xã
hội đó chỉ có thể là XHCN.
1.2.3. Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội:
Con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với giới tự
nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành bản chất của con người. Bởi
vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng Luận
4


cương về Phoiơbắc: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
Theo luận đề trên thì không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể của lịch sử và xã hội. Luận đề đã khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt
tự nhiên trong đời sống con người. Trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người
và giới động vật trước hết là bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu sót của những
nhà triết học trước Mác, không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất
với ý nghĩa là cái phổ biến, là cái mang tính quy luật. Vì vậy cần phải thấy được các biểu hiện
riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong
cộng đồng xã hội.
Con người là sản phẩm của giới tự nhiên, song con người không hoàn toàn phụ thuộc vào
giới tự nhiên mà đã vươn lên, tách xa thế giới động vật, trở thành con người của xã hội, sáng tạo
ra lịch sử. Với vai trò là chủ thể của lịch sử con người phải được tự do, hạnh phúc, phải được
phát triển các khả năng của mình. Nhưng không phải lúc nào và ở đâu con người cũng có đủ điều
kiện để phát triển toàn diện. Vì vậy, một vấn đề đã và đang đặt ra là các quốc gia nói riêng, nhân
loại nói chung, phải coi con người là mục tiêu của sự phát triển của xã hội.
1.3. Chủ nghĩa xã hội là sự phát triển toàn diện của con người

Xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.... mọi người có cuộc sống tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân là mục tiêu cao cả của XHCN. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói: “tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta hoàn
toàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành”.
Chế độ Chủ Nghĩa Xã Hội đã trải qua bước phát triển quanh co, đầy thử thách của lịch sử,
nhưng đang vững bước đi lên và đạt nhiều kết quả trong mục tiêu vì sự phát triển toàn diện của
con người.
Nước ta là một nước nghèo đang trong giai đoạn quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Tuy
vậy, Đảng và nhà nước luôn coi trọng con người, coi con người là mục tiêu của sự phát triển của
xã hội, thể hiện ở các nhiệm vụ phát triển sau:
- Đưa đất nước ra khỏi tình trạng đói nghèo, kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật
chất tinh thần của nhân dân.
- Thực hiện công bằng trong phân phối, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội.
- Bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Phát triển kinh tế phù
hợp với các vùng, miền nhiều khó khăn, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo.
- Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân.
5


- Đẩy mạnh hoạt động của thể dục thể thao, nâng cao thể trạng tầm vóc của con người
Việt Nam.
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, phấn đấu vì sự công bằng xã hội. Trong giáo
dục, thực hiện: giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội văn minh.
Những mục tiêu trên đang được Đảng và nhân dân ta thực hiện nhằm xây dựng một xã
hội: dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

II. Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước
2.1. Khái niệm CNH-HĐH
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động

sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ
nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Thực chất của CNH-HĐH ở nước ta là quá trình tạo ra những tiền đề vật chất, kĩ thuật,
con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp- những yếu tố cơ bản của lao động sản xuất cho
chủ nghĩa xã hội.
Nội dung cốt lõi của quá trình CNH-HĐH là cải biến lao động thủ công thành sử dụng ky
thuật tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Việt Nam quá độ lên chủ ngĩa xã hội từ một nước nông nghiệp, chưa có cơ sở vật chất ky
thuật phù hợp với chủ nghĩa xã hội, quá trình xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật là quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây được coi là nhiệm vụ trung tâm, chi phối các nhiệm vụ khác.
2.2. Vai trò của con người trong quá trình CNH-HĐH
Vai trò của con người được chứng minh trong lịch sử phát triển nền kinh tế của các nước
tư bản chủ nghĩa. Điển hình như các nước Nhật Bản, My ... nhiều nhà kinh doanh hàng đầu đã rất
chú trọng đến việc áp dụng kĩ thuật máy móc để thay thế sức lao động . Nhưng để đi đến thành
công trong việc áp dụng nhứng thành tựu đó con người vẫn giữ vai trò quyết định .
Đối với những nước lạc hậu đi sau tuy không có khả năng, điều kiện để trực tiếp ứng
dụng thành tựu hiện đại. Nhưng họ cũng đã từng bước tiếp thu những tiến bộ khoa học đó của các
nước phát triển để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoascuar nước họ. Để đạt được
những thành công bước đầu trong công cuộc đưa đất nước theo kịp với tiến trình phát triển của
các quốc gia trong khu và vực trên thế giới. Họ đã và sẽ tiếp tục phát huy hơn nữa bằng yếu tố
con người là chủ yếu. Bên cạnh những ưu điểm của việc áp dụng những công nghệ tiên tiến đó,
6


thì cũng có những nhược điểm đó là vai trò của con người bị coi nhẹ , không được sử dụng một
cách hiệu quả , Điển hình như thay thế máy móc cho con người sẽ làm dư thừa lực lượng lao
động và sẽ dẫn tới nạn thất nghiệp gia tăng.
Xét đến cùng nếu thực sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì mọi nguồn

lực đều trở nên vô nghĩa thậm chí khái niệm “nguồn lực” cũng không còn ý nghĩa gì để tồn tại.Vì
trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất là lực
lượng sản xuất hàng đầu toàn nhân loại.
Cũng như các quốc gia trên thế giới để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam cũng phải phụ thuộc vào nguồn lực con người và do nguồn lực này quyết
định . Bởi sự thành công trong công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước với nguồn lực
chủ đạo là con người đã dẫn đến thành công trong việc đổi mới ở Việt Nam hôm nay.
-Việt Nam hôm nay có nguồn lực lao động dồi dào 36,5 triệu người trong độ tuổi lao động
đến năm 2000 là 45,6 triệu người.
-Trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao chiếm 9000 tiến sĩ và phó tiến sĩ, trên 800000 người có
trình độ cao đẳng, đại học trên 2 triệu công nghệ cao.
-Tố chất của người Việt Nam là thông minh cần cù hiếu học và chăm lao động truyền thống
đó được hình thành và đúc kết từ bao thế hệ xa xưa.
-Nhưng bên cạnh đó là nguồn nhân lực cũng hạn chế trình độ mặt bằng dân số thấp . Tỉ lệ trẻ
em mù chữ ở vùng núi vùng sâu vùng xa còn khá cao 45% em học hết cấp I 80% dân số tập
chung lao động nông nghiệp, tiểu thủ thô sơ lạc hậu. Đây alf trở ngại lớn nhất khi tiến hành công
nghiệp hóa trong nông nghiệp ky thuật nông thôn nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung.
-Việc bố chí cán bộ chưa hợp lý, giáo viên tập chung ở đô thị đông còn vùng sâu vùng xa thì
thiếu.
Để thực hiện tốt các mục tiêu mà sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi đảng và
nhà nước ban hành kịp thời các chính sách có hiệu quả giáo dục, y tế, xóa nạn mù chữ, phủ cập
giáo dục tiểu học, tạo điều kiện cho đội ngũ tri thức trẻ phát huy năng lực của mình. Để thực hiện
nhiệm vụ trên đây có ý nghĩa về cơ bản như thế ta đã hoàn thành cuộc “ cách mạng con người”
biến con người Việt Nam thành nguồn lực quyết định đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước đi đến thành công.
2.3. Quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực Việt Nam qua các kỳ đại hội
Từ sau Đại hội VIII, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng
đã ban hành nhiều nghị quyết về nhiều lĩnh vực liên quan trực tiếp đến việc chăm sóc, bồi dưỡng
và phát huy nhân tố con người. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) về định hướng
chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ

đến năm 2000 đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực. Nghị quyết nêu:
“Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục là xây dựng những thế hệ con người thiết tha gắn bó với lý
7


tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết xác định: Giáo dục, đào tạo là quốc sách
hàng đầu; Giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; Phát
triển giáo dục, đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa họ - công
nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh; Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo; Giữ
vai trò nòng cốt của nhà trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục, đào tạo,
trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý. Phát triển nguồn lực con người một cách toàn diện về cả
trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, thái độ…; Phát triển nguồn nhân lực phải là sự quan tâm và trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội bằng nhiều biện pháp, trong đó giáo dục và đào tạo là
then chốt; Mọi kế hoạch xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội phải được đặt trong mối quan hệ
không thể tách rời với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm,
niềm vui và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng Việt Nam, cho xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực nhiều về số lượng, mạnh về chất lượng.
Những quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển nguồn nhân lực thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đã nhanh chóng được cụ thể
hóa bằng các cơ chế, chính sách, chương trình, dự án, kế hoạch hằng năm và kế hoạch 5 năm
nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ nhận thức “đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn
nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
đồng thời khẳng định phương hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về
phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với
cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các
công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Phương hướng này đã được
cụ thể hóa bằng một hệ thống giải pháp khả thi đi vào công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.

Chăm lo phát triển nguồn lực con người là một định hướng lớn trong chiến lược phát triển
đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội X thể hiện rõ quyết tâm phấn đấu để giáo
dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu. Tập trung đổi mới
toàn diện giáo dục và đào tạo, chấn hưng giáo dục Việt Nam để phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng cao. Các giải pháp thực thi được tập trung hơn khá cụ thể: Quản lý quá trình phát triển dân
số và nguồn nhân lực trong mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới phương thức đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực; phát triển nguồn nhân lực gắn với tạo việc làm, tạo việc làm tại
chỗ thông qua phát triển sản xuất, tập trung vào các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, xuất khẩu...
Đại hội XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm phát triển nguồn nhân lực từ các đại
hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến
lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được
khẳng định là khâu đột phá thứ hai. Đây được xem là khâu đột phá đúng và trúng với hoàn cảnh
8


nguồn nhân lực nước ta hiện nay khi hội nhập quốc tế, cạnh tranh quyết liệt và đòi hỏi của thời
đại khoa học, công nghệ. Khâu đột phá trúng và đúng này đã và đang tập trung nâng cao sức
mạnh nội sinh - nguồn nhân lực, để tồn tại và phát triển trong một thế giới năng động, thế giới
của khoa học và công nghệ. Vì thế, Đại hội XI của Đảng đồng thời cũng xác định rõ phải “gắn
kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”.
Đây chính là nội dung quan trọng thể hiện tính thực tế của chiến lược phát triển nhanh và bền
vững của nước ta trong điều kiện hiện nay. Để thực hiện chiến lược này, Đại hội XI cũng nêu rõ
những giải pháp trực tiếp cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đó là: “xây dựng và hoàn
thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam”; “đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc
dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi
mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”;
“Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt
Nam”.
Có thể thấy rõ những định hướng chiến lược của Đảng về phát triển nguồn nhân lực trong

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Thứ nhất, gắn phát triển nguồn nhân lực với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã
hội. Chúng ta nhận thức rõ rằng, để có được những con người phát triển toàn diện, đủ khả năng
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc
đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội để ngày càng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho người lao động phải được coi là nhiệm vụ cấp bách và mang tính quyết định. Vì thế, để có
nguồn nhân lực có chất lượng Đảng và Nhà nước ta đã và đang quan tâm đồng bộ tới những vấn
đề sau:
- Chăm lo đời sống vật chất đi đôi với đời sống tinh thần của người lao động. “Đối với
con người hưởng thụ không thể tách rời với cống hiến, phần cống hiến phải nhiều hơn phần
hưởng thụ, bên cạnh nhu cầu vật chất còn có nhu cầu tinh thần”. Nâng cao đời sống vật chất cho
người lao động trước hết thông qua đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và
Nhà nước. Điều này được thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991): “Chính sách xây dựng đúng đắn vì hạnh phúc con người
là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội”.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hôi. Tình trạng phân
hóa giàu nghèo nhanh chóng cùng với việc phát triển kinh tế thị trường những năm đổi mới đã
tạo ra những hệ lụy về mặt xã hội sâu sắc. Giải quyết tình trạng này phải giữ vững nguyên tắc
vừa bảo đảm kích thích sản xuất phát triển vừa có chính sách xã hội để tạo nên sự công bằng
trong xã hội ở thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

9


- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển
kinh tế thị trường với đặc trưng là cạnh tranh sẽ tạo được động lực to lớn thúc đẩy sự vươn lên
của nguồn nhân lực. Không vươn lên sẽ không có khả năng cạnh tranh, sẽ bị chính đòi hỏi của
nền kinh tế đào thải. Định hướng xã hội chủ nghĩa là thể hiện tính nhân văn đối với nguồn nhân
lực. Đây là quá trình đào tạo nên những con người Việt Nam mới thời kỳ hội nhập để phát triển.

- Phải giữ vững tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế. Điều này giúp
người lao động nước ta một mặt phát huy được tính tự tôn dân tộc, quyết tâm phấn đấu cho nền
kinh tế nước nhà phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu, mặt khác cũng tạo cơ hội để
người lao động Việt Nam có thể tiếp thu công nghệ tiên tiến của thế giới, bồi bổ nguồn nhân lực
trong nước, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
- Tạo thêm việc làm là trực tiếp phát triển nguồn nhân lực. Vấn đề hết sức áp lực này phải
được giải quyết theo “Phương hướng quan trọng nhất là Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư
phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế - xã hội. Khuyến khích mọi thành
phần kinh tế, mọi người dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo việc làm cho người lao
động… Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn”.
- Tăng cường công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể chất cho người lao
động và mọi người dân, đẩy mạnh kế hoạch dân số - kế hoạch hóa gia đình là bảo đảm thể chất
và tính ổn định của nguồn nhân lực. Vấn đề này được Đảng xác định: “Sự nghiệp chăm sóc sức
khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi người dân, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính
quyền, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt”,
đồng thời đã có chương trình về kế hoạch hóa gia đình, ổn định tỷ lệ tăng dân số.
- Ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn xã hội vừa trực tiếp bảo đảm thể chất cho nguồn nhân lực của
đất nước, vừa hướng tới mục tiêu phát triển con người Việt Nam.
Thứ hai, gắn việc phát triển nguồn nhân lực với quá trình dân chủ hóa, nhân văn hóa đời
sống xã hội, khai thác có hiệu quả các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại. Đó là quan điểm
tạo môi trường lành mạnh cho các giá trị sống của nguồn nhân lực phát triển. Để có được môi
trường đó, trước hết phải coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức, trách nhiệm công dân, tinh
thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống văn hóa, lịch sử dân tộc và bản sắc dân
tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của mỗi người và tiền đồ của đất nước.
Thứ ba, nâng cao chất lượng sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ. Đảng ta đã chỉ
rõ: “Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài, kể
cả người Việt nam ở nước ngoài”(13). Giải quyết tốt vấn đề này là tạo được yếu tố nội sinh của
nguồn nhân lực, cơ sở bền vững cho phát triển và hội nhập.

10



Thứ tư, để có nguồn nhân lực tốt trước hết phải có chiến lược phát triển con người trên cơ
sở một hệ thống chính sách đồng bộ hướng tới con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển.
Về định hướng phát triển con người, Đại hội XII khẳng định “Xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây
dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo
đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức
tuân thủ pháp luật”.
Để phát triển con người, cần phải hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào
việc xây dựng con người hướng tới các giá trị phổ quát của nhân loại là chân – thiện – my. Gắn
xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội
học tập.
Xây dựng và phát triển lối sống “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; nâng
cao ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; phát huy tính tích cực
xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Để xây dựng, phát triển con người, bên cạnh khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp,
tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn, Đảng ta nhấn mạnh việc kết hợp
giữa xây và chống. “Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các
quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con
người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt
hạn chế của con người Việt Nam”.
Về xây dựng môi trường văn hóa, Đảng nhấn mạnh đến xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh, đồng bộ trước tác động phức tạp của cơ chế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc
tế. Một điểm nhấn trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng là tính chất
đồng bộ của môi trường văn hóa – xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng

đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia
đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho môi trường văn hóa trở
thành “miền định hướng” – nơi nuôi dưỡng, hoàn thiện con người Việt Nam.
Đại hội XII khẳng định là: “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã
hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc;
xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”.
Để con người phát triển không chỉ là chăm lo cuộc sống vật chất và tinh thần ngày càng
tốt hơn cho nhân dân với tư cách mục tiêu của sự phát triển xã hội, mà còn là bồi dưỡng toàn diện
về thể chất, trí tuệ, đạo đức và nhân cách cho con người nhằm phát huy nguồn lực con người với
tư cách động lực quan trọng và căn bản nhất của sự phát triển bền vững.

11


Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục
và đào tạo nhằm năng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Đây là quan điểm mà
Đảng ta luôn nhất quán, mang tính định hướng chiến lược trong xây dựng, phát triển con người
Việt Nam.
Để văn hóa trở thành động lực hướng vào xây dựng và phát triển con người phải tạo điều
kiện cho các yếu tố chứa đựng giá trị sáng tạo của văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực hoạt
động của con người. Không ngừng nâng cao hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội con người là để đẩy nhanh hiện thực hóa sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Mọi hoạt động của hệ thống giáo dục – đào tạo, khoa học và thiết chế văn hoá phải hướng
vào việc xây dựng, phát triển con người Việt Nam có thế giới quan khoa học, trí tuệ và đạo đức;
gắn với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, nâng cao trí lực và ky năng
sống, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập,
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.
Phát huy nhân tố con người hiện nay luôn gắn liền với xây dựng con người về đạo đức,
nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc. Đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực

làm việc là cơ sở, tiền đề, điều kiện của phát huy nhân tố con người. Phát huy nhân tố con người
không phải chung chung, mà có tính hiện thực, bắt đầu từ những tiềm năng thực tế. Trong điều
kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức phát triển, hội nhập gia
tăng, phát huy nhân tố con người không chỉ là vấn đề trí tuệ, năng lực làm việc mà quan trọng là
có đạo đức, nhân cách, lối sống phải ngang tầm nhiệm vụ. Trong kháng chiến chống My, cứu
nước, xây dựng con người Việt Nam theo mô hình, yêu cầu về năng lực là “mỗi người làm việc
bằng hai, vì miền Nam ruột thịt” thì hiện nay được khái quát trong Dự thảo Báo cáo Chính trị về
phẩm chất, năng lực rất cụ thể. Xây dựng con người đáp ứng yêu cầu phát huy nhân tố con người
ở nhiệm vụ trọng tâm trong Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XII được hiểu là: Con người có
tâm hồn dân tộc mấy nghìn năm và những đức tính tự tôn, tự hào dân tộc; yêu nước; trách nhiệm
xã hội; chấp hành pháp luật và sáng tạo, làm chủ, có năng lực làm việc… tương xứng với điều
kiện, hoàn cảnh mới. Những nội dung đó phải thông qua quá trình chung tay xây dựng của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân; nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; xây dựng nền văn hóa Việt
Nam, xây dựng môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở; giải quyết tốt những vấn đề bức thiết của
cuộc sống; bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội. Tinh thần ấy vừa là mục tiêu, vừa là nội dung và
cách thức thực hiện trong xây dựng, cũng như phát huy nhân tố con người hiện nay.
Nhiệm vụ trọng tâm trong Dự thảo Nghị quyết Đại hội XII đã xác định phát huy nhân tố
con người trong quan hệ với xây dựng môi trường văn hóa. Văn hóa cũng như nhân tố con người
là sức mạnh to lớn của dân tộc ta. Văn hóa và con người được hiểu như hai mặt thống nhất, vừa
là nguyên nhân, vừa là kết quả của nhau. Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của hoàn
12


cảnh thì hoàn cảnh ấy thực chất là môi trường văn hóa. Sức mạnh của con người và sức mạnh của
văn hóa là hai mặt thống nhất trong một chỉnh thể. Không thể có con người theo ý muốn nếu
không có môi trường văn hóa lành mạnh; cũng giống như không thể có môi trường văn hóa lành
mạnh nếu không có con người có văn hóa, đạo đức. Dân tộc ta đánh giặc bằng sức mạnh văn hóa,
biểu hiện trong tư tưởng chỉ đạo của Nguyễn Trãi: “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn. Lấy chí nhân
thay cường bạo”. Tinh thần ấy đã thành truyền thống, được Đảng ta và Bác Hồ kế thừa, vận dụng,
phát huy vào lãnh đạo cách mạng qua các thời kỳ lịch sử và luôn giành được những thắng to lớn.

Với nhiệm vụ trọng tâm phát huy nhân tố con người trong Dự thảo Báo cáo Chính trị
trình Đại hội XII, Đảng ta đã thống nhất giữa xây dựng con người với xây dựng môi trường văn
hóa lành mạnh. Tiến trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã không ngừng hoàn
thiện quan điểm, chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam, xây dựng môi trường văn hóa biểu
hiện qua hoàn thiện các quy chế; sự quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo nguồn nhân lực phục
vụ cho xây dựng môi trường văn hóa. Cùng với nó là các cuộc vận động, Phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã triển khai. Sự quan tâm của Đảng đã thể hiện rõ hướng
tập trung vào văn hóa ở đơn vị cơ sở. Hướng quan tâm này cho thấy sự bắt nhịp kịp thời với hơi
thở thực tiễn sinh động, với vai trò to lớn của văn hóa ở đơn vị cơ sở đối với xây dựng con người,
phát huy nhân tố con người một cách thiết thực, cụ thể. Từ xây dựng, phát huy nhân tố con người
trong từng môi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở thì mới có thể vươn lên phát huy nhân tố con người
tầm quốc gia, dân tộc.
Việc phát huy nhân tố con người trong quan hệ với xây dựng con người, xây dựng môi
trường văn hóa có tính đồng bộ ở cả các lĩnh vực, đơn vị, tổ chức xã hội. Trong tính đồng bộ đó
thì vấn đề phát huy nhân tố con người thống nhất với xây dựng con người, xây dựng môi trường
văn hóa trong nhiệm vụ trọng tâm của Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XII cần được triển khai
từ tổ chức Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự tu dưỡng, tự chấn chỉnh để trở thành cá nhân
tiêu biểu, tấm gương sáng trong tập thể, cộng đồng, xã hội. Với vị thế, vai trò của một đảng lãnh
đạo, đảng cầm quyền, mà cán bộ, đảng viên không tiên phong, không trở thành tấm gương sáng
về mô hình nhân cách, mô hình đạo đức, chuẩn mực văn hóa và năng lực làm việc…, thì cũng sẽ
làm cho tinh thần nghị quyết, nhiệm vụ trọng tâm về phát huy nhân tố con người trở nên xa vời,
kém hiệu quả. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng cũng đã thẳng thắn chỉ rõ
tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống xảy ra ở bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ
lãnh đạo các cấp, kể cả cán bộ cấp cao, đe dọa sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Mỗi tổ chức Đảng phải chú trọng đến giáo dục, rèn luyện đảng viên và phát huy nhân tố
con người đảng viên trong xây dựng con người của Đảng, xây dựng môi trường văn hóa Đảng
lành mạnh làm gương cho các tổ chức xã hội khác. Nếu không thực hiện được điều này thì có thể
13



sẽ trượt dài đến “tự diễn biến” và là nguy cơ lớn đối với cách mạng nước ta. Để thực hiện được
mục đích, nhiệm vụ trên, các tổ chức cơ sở Đảng cần quán triệt quan điểm về “Xây dựng văn hóa
Đảng”; cụ thể hóa “Hệ giá trị con người Việt Nam” trong Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XII
vào hoàn thiện chuẩn giá trị văn hóa ở đơn vị mình. Trong quán triệt, triển khai thực hiện nhiệm
vụ trọng tâm trong Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội XII, cần quán triệt, vận dụng tư tưởng của
Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX vào giáo dục, rèn luyện, đánh giá tư cách người đảng
viên, theo đó, đảng viên phải là “người lao động giỏi, người công dân gương mẫu, người chiến sĩ
tiên phong trong đổi mới”. Sự kết hợp này càng tạo ra sự thống nhất trong nhận thức, trong vận
dụng và có tác dụng hoàn thiện chuẩn mực đánh giá, nâng cao sức mạnh điều chỉnh những biểu
hiện lệch lạc trong suy nghĩ, hành vi mỗi đảng viên.
Thực hiện nhiệm vụ trọng tâm về phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh…, như được xác định trong Dự thảo Báo
cáo Chính trị Đại hội XII vừa tạo ra nền tảng, vừa là động lực to lớn cho thực hiện các nhiệm vụ
trọng tâm khác. Đó là cơ sở, nền tảng, bởi vì thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm khác đều hướng
đến vấn đề con người của sự nghiệp cách mạng nói chung và sự nghiệp đổi mới nói riêng. Toàn
bộ nhiệm vụ trọng tâm của Đảng là giải phóng con người, đưa người lao động vươn tới làm chủ,
tự do, cuộc sống ấm no, hạnh phúc trên thực tế. Đó là động lực to lớn bởi vì toàn bộ các tiềm
năng, sức mạnh của dân tộc, của thời đại chỉ có thể trở thành hiện thực khi nhân tố con người
được phát huy. Sức mạnh từ phát huy nhân tố con người trong thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của
Đảng hiện nay không chỉ đơn thuần của thời đại, mà còn từ tầng sâu của lịch sử dựng nước và giữ
nước oai hùng của dân tộc ta.
III. Phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước ta
hiện nay
3.1. Thực trạng, đánh giá nguồn nhân lực Việt Nam
3.1.1.Điểm mạnh
Dân số: Theo thống kê dân số thế giới tính đến ngày 28/02/2016, dân số Việt Nam có
94,104,871 người, chiếm khoảng 1,27% tổng dân số thế giới. Dân số Việt Nam đứng thứ 14
trong số các quốc gia đông dân nhất thế giới và thứ 8 ở châu Á. Cùng với xu hướng giảm sinh và
nâng cao tuổi thọ, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động (15-64) tăng lên, hiện chiếm 69% tổng số
dân Mật độ dân số trung bình của Việt Nam là 305 người/km2.Dân cư độ thị chiếm 33,6% tổng

dân số (32,247,358 người). Trình độ học vấn của dân cư ở mức khá.Độ tuổi trung bình của người
dân là 30,8 tuổi. Nước ta chính thức bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng,” đây thực sự là cơ hội
để Việt Nam sử dụng nguồn lao động dồi dào cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cơ cấu “dân
số vàng” tạo ra nhiều thuận lợi, thế mạnh cho Việt Nam với lực lượng lao động trẻ, dồi dào.
14


Biểu đồ: tháp dân số Việt Nam năm 2016
Nguồn: Kế Hoạch Việt tổng hợp
Lao động: Tính đến quý 4 năm 2015,cả nước có hơn 69,6 triệu người từ 15 tuổi trở lên,
trong đó có 54,6 triệu người thuộc lực lượng lao động. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 78,8
%. Hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể lực và
tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao.
Đào tạo: Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều này có thể
được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân lực. Theo đó, cả nước ta
hiện có 219 trường đại học, 217 trường cao đẳng, trong đó có 60 trường đại học và 28 trường cao
đẳng ngoài công lập; có 118 cơ sở đào tạo tiến sĩ, 120 cơ sở đào tạo thạc sĩ. Tổng số giáo viên là
91.183, tỷ lệ giáo viên có trình độ thạc sĩ trở lên là 53,62%, tỷ lệ giáo viên có trình độ tiến sĩ là
12,06%, số giáo viên có chức danh Giáo sư, Phó Giáo sư đạt 4,6%. Quy mô sinh viên đại học là
1.824.328, sinh viên cao đẳng là 539.614, trong đó sinh viên chính quy đại học là 1.348.937, sinh
viên chính quy cao đẳng là 519.722. Tổng số sinh viên vừa làm vừa học so với chính quy chỉ còn
khoảng hơn 20%...
Về trình độ chuyên môn ky thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ lực lượng
lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%.Hiện, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước ước
53,86 triệu người, tăng 147.000 người so với cùng kỳ. Trong đó, có 27,75 triệu LĐ nam, chiếm
51,53%; LĐ nữ 26,11 triệu người, chiếm 48,47%. Xét theo khu vực, lực lượng LĐ từ 15 tuổi trở
lên khu vực thành thị là 16,81 triệu người, chiếm 31,2%; khu vực nông thôn là 37,05 triệu người,
15



chiếm 68,8%;tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao (từ đại học trở lên) trong tổng số lao động
qua đào tạo ngày càng tăng.
Sử dụng nhân lực: Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong nền kinh tế là khá cao.
Theo Tổng cục Thống kê, 6 tháng đầu năm 2015, cả nước có hơn 45.000 DN đăng ký thành lập
mới; tương đương số lao động được tạo việc làm là hơn 651.000 người. Số lao động đang làm
việc trong các DN công nghiệp tại thời điểm 1.6 tăng 6,6% so với cùng kỳ; số LĐ đang làm việc
trong các DN ngành khai khoáng giảm 8,2% so với cùng kỳ;… Tỉ lệ thất nghiệp của lao động
trong độ tuổi 6 tháng đầu năm 2015 ước là 2,44%, trong đó khu vực thành thị là 3,35%; khu vực
nông thôn là 2%.
Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng suất lao động đo
bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho tổng số người làm việc bình
quân trong 01 năm, năng suất lao động năm 2015 tăng thêm 6,4% so với năm 2014, đạt khoảng
3.657 USD/người
Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và ky năng nghề nghiệp khá đã được thu hút và
phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu chính viễn thông, công nghệ
thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng lượng, y tế, giáo dục,… và xuất
khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và cải thiện về kiến
thức, ky năng kinh doanh, từng bước tiếp cận trình độ quốc tế.
3.1.2. Điểm yếu
Dân số: Nước ta chính thức bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng,”.Tuy nhiên,theo thống
kê mới đây của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế), Việt Nam đang ở giai đoạn
già hóa dân số. Đây là thời điểm mà số người dưới 14 tuổi và nhóm “dân số vàng” 15 - 64 tuổi
đang giảm dần trong lúc số dân trên 65 tuổi tiếp tục tăng.
Tỷ lệ nam/nữ là 100% tuy nhiên tỷ lệ này không đồng đều ở tất cả nhóm tuổi, đặc biệt
đáng chú ý là tình trạng trẻ em nam nhiều hơn trẻ em nữ. Các nhóm tuổi càng nhỏ thì tỷ lệ chênh
lệch giới tính càng lớn, trong đó nhóm tuổi từ 0-4 tuổi hiện đang có tỷ lệ chênh lệch giới tính cao
nhất lên đến 111,6% tương đương cứ 100 bé gái thì có 111,6 bé trai.
Nguồn lao động hiện đang dồi dào và được gọi là ‘dân số vàng’ nhưng vấn đề này cũng
tạo ra thách thức lớn về việc làm, an sinh xã hội cũng như tỉ lệ lao động qua đào tạo còn thấp.
Tổng số người thất nghiệp, thiếu việc làm thường xuyên và thu nhập thấp ở Việt Nam khoảng gần

10%. Dân số Việt Nam tăng nhưng chỉ số phát triển con người (HDI - tổng hợp từ các chỉ số về
kinh tế, giáo dục và sức khoẻ) vẫn ở thứ hạng rất thấp so với thế giới (hạng 116).
16


Với gần 92 triệu người, Việt Nam trở thành 1 quốc gia đông dân, bên cạnh việc có nguồn
nhân lực dồi dào thì viêc này kéo theo nhiều vấn đề cần giải quyết như dân số tăng nhanh tạo nên
sức ép đối với việc khai thác, bảo vệ môi trường. Đồng thời vấn đề về giải quyết việc làm cũng
đáng lo ngại.
Lao động: Đầu tiên là trình độ ky thuật, chuyên môn cũng như tính chuyên nghiệp còn
yếu so với các nước trong khu vực. Ky năng làm việc nhóm, hợp tác để hoàn thành công việc của
lao động Việt Nam còn yếu, thiếu khả năng hội nhập môi trường toàn cầu do trình độ ngoại ngữ
kém...
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý 1/2016 ước tính là 2.23%. Tỷ lệ thất
nghiệp của lao động trong độ tuổi có trình độ đại học trở lên của cả nước là 3.96% (cao hơn 1.73
điểm phần trăm so với tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi).
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (15 - 24 tuổi) quý 1/2016 ước tính là 6.47%. Tỷ lệ thất
nghiệp của người từ 25 tuổi trở lên quý 1/2016 là 1.27%. Còn tỷ lệ thiếu việc làm của lao động
trong độ tuổi quý 1/2016 năm nay ước tính là 1.77% (quý 01/2015 tương ứng là 2.43%).
Đặc biệt, thanh niên ở khu vực thành thị tìm kiếm việc làm khó hơn ở khu vực nông thôn.
Ở nhóm thanh niên, tỷ lệ thất nghiệp trên toàn quốc là 6,47%, cao gấp 5 lần thống kê chung dành
cho những người trên 25 tuổi. Báo cáo chỉ rõ : “Tỷ lệ này đặc biệt cao ở khu vực thành thị với
9,51%, tức là cứ 10 thanh niên trong lực lượng lao động ở khu vực thành thị thì có gần một người
thất nghiệp”.
Đào tạo: Mới có 38,5% lao động Việt Nam qua đào tạo nghề
Tại hội thảo “Cơ hội và thách thức khi hội nhập ASEAN về giáo dục nghề nghiệp” tổ
chức ngày 18/1 tại Hà Nội, TS. Vũ Xuân Hùng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học dạy nghề
(Tổng cục Dạy nghề, Bộ LĐTB&XH) cho biết, hiện các doanh nghiệp trong khu vực 10 nước
ASEAN đang rất lo ngại về tình hình thiếu hụt lực lượng lao động có tay nghề và ky năng trước
sự ra đời của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC).

Còn theo thứ trưởng Bộ LĐTB&XH Huỳnh Văn Tý, hiện nay tỉ lệ lao động qua đào tạo
nghề của Việt Nam còn rất thấp, chỉ đạt 38,5% và chất lượng của lao động Việt Nam còn nhiều
hạn chế (nếu lấy thang điểm 10 thì Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm); năng suất lao động thấp (chỉ
bằng 1/15 so với Singapore, bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan).
Cơ cấu lao động bất hợp lý, trình độ đại học nhiều, nhưng trình độ ky thuật trực tiếp lại ít:
Cứ có một người học đại học thì chỉ có 0,35 người học bậc cao đẳng, 0,65 người bậc trung cấp và
0,4 người trình độ sơ cấp.
17


×